Xem mẫu

  1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. PHẦN MỞ ĐẦU Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam ta đang ngày một tiến lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới, đang dần khẳng định vị thế của mình với các nước bạn về một nền độc lập, tự do, dân chủ. Để đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với những hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ông chúng ta. Và cũng để có và giữ được nền độc lập dân chủ của nước nhà thì ngoài sự cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong đó có những người con “kiệt xuất” với phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã một mình bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độ lập tự do cho tổ quốc mình. Nhắc tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già kình yêu của dân tộc. Học tập ở người là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà không một sách vở nào có thể dạy nổi. Thật may mắn cho chúng ta vì được sinh ra, lớn lên và hưởng trọn những thành quả mà cả đời người đã cống hiến, Qua thời gian học tập, nghiên cứu, tìm tòi trên sách vở, báo chí, đặc biệt là sự chỉ dạy tận tình của Thầy cô giúp chúng ta tiếp cận với hệ thống tư tưởng của người, cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Hơn nữa đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là độc lập, tự do, dân chủ. Chính vì tầm quan trọng này và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi cũng như chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình mà nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ”. Để hoàn thành bài viết của mình, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp phân tích, so sánh, diễn dịch, quy nạp kết hợp với phương pháo tổng hợp để làm rõ vấn đề của bài viết. để hiểu rõ vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ” xin kính mời Thầy và các bạn cùng đi vào phần nội dung chi tiết Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh Được đăng bởi Dao on Thứ ba, ngày 19 tháng một năm 2010
  2. Nhãn: Chuyên khảo 3. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các tác phẩm của Người thường là những tư tưởng khi Người bàn về vấn đề nhà nước và nhất là nhà
  3. nước xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là những vấn đề được Hồ Chí Minh đặt ra v trả lời một cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu nhất quan điểm của Người khái niệm dân chủ và vấn đề dân chủ. Đó là những vấn đề, thường được Người nêu ra những câu hỏi và cũng tự mình trả lời dưới các hình thức khác nhau trong quan hệ với vấn đề nhà nước. Ví dụ như: “Dân chủ là như thế nào?” và Người lại tự trả lời: “Là dân làm chủ”.Do đó, Hồ Chí Minh thường nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do dân làm chủ”, chế độ ta là chế độ dn chủ. Theo nghĩa chung nhất, tức là nhân dân làm chủ. Người còn nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân làm chủ”. Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh đã phản ánh nội dung căn bản nhất về khái niệm dân chủ - Demoskratos - quyền lực thuộc về nhn dn và cụ thể hơn là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo đó, trong khi niệm dân chủ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề nhà nước, để khẳng định nội dung chính trị của dân chủ. Về vấn đề này, C.Mác cũng đã nói: “Trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ nhà nước hiện ra là một trong những quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân” và nó “ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, tới nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”. Xét theo phương diện chính trị, thì Lênin cũng cho rằng nội dung của khi niệm dân chủ: “dân chủ là một phạm trù thuộc lĩnh vực chính trị”. Tuy nhiên, Lênin cũng giải thích thêm: “Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận cho mọi người được thừa nhận quyền bình đẳng giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước”. Như vậy, Hồ Chí Minh cho thấy rằng sự thể hiện rất cụ thể nội dung chính trị khi xem dân chủ là một hình thức nhà nước, một thiết chế xã hội và quyền lực thuộc về nhân dân. Trong đó, bản chất của chế độ dân chủ XHCN là phục vụ con người phục vụ xã hội trên tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vì, theo Mác và Angghen thì: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa… không phải nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước”, phù hợp với ý chí, hành động và lợi ích của quần chúng nhân, của nhân dân. Đó không có gì khác là nhà nước là nước do dân và vì dân. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn về vấn đề nhà nước, mặc dù thông qua nhà nước đã chỉ rõ quyền làm chủ của nhân dân về việc thiết lập hệ thống chính chính trị để “bầu ra đại biểu thay mặt cho mình thi hành chính quyền”, “cử ra” chính quyền các cấp và “tạo ra” các đoàn thể, v,v…mà còn cho chúng ta thấy vấn đề nhà nước mà là cả
  4. hệ thống chính trị, nhà nước chỉ là một bộ phận của dân chủ. Bởi, Hồ Chí Minh xem chế độ nhà nước kể cả nhà nước kiểu mới (Nhà nước vô sản), cũng chỉ là một yếu tố tồn
  5. tại của xã hội, hoặc là một hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân, nhưng không bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo ý nghĩa trên đây về vấn đề dân chủ, Hồ Chí Minh cho rằng quyền lực của nhân dân trong việc “bầu ra”, “cử ra”, “tạo ra”, những hình thức tồn tại của nhân dân về nhà nước – thiết chế xã hội là một nhu cầu tất yếu. Nhưng vấn đề quan trọng hơn, quyền tự quản của nhân dân trong việc hoàn thiện nhà nước, thì đồng thời phải dẫn đến sự hoàn thiện dân chủ trong mọi quan hệ xã hội, mặc dù nó là một bộ phận của đời sống xã hội. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, một vấn đề mang tính độc đáo, riêng biệt nếu có thể nói như vậy là vấn đề đạo lý làm người, khi Người cho rằng dân chủ là giá trị của nhân loại khi, là sản phẩm của nền văn minh, là kết quả tất yếu của quá trình đầu tranh tự giải phóng con người và giải phóng xã hội. Và hơn nữa, sự hình thành và phát triển dân chủ là một quá trình tự thân, từ thấp đến cao trong lịch sử xã hội. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã từng nêu lên một khi niệm là lý tưởng dân chủ như là tiêu chí của sự phát triển xã hội. Trong đó, một nguyên tắc, một công thức, một chìa khoá đảm bảo cho nhân loại thiết lập một nền hòa bình thế giới dựa trên nền tảng dân chủ và bình đẳng giữa các dân tộc. Đó là: “Hòa bình - một nền hòa bình chân chính xây dựng trên công bằng và lý tưởng dân chủ phải thay cho chiến tranh, rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các nước không phân biệt chủng tộc, màu da”. Trên cơ sở đó, Người thường xem xét sự phát triển dân chủ đặt trong quan hệ so sánh giữa chế độ về dân chủ cũ [Khi niệm Dân chủ cũ lần đầu tiên xuất hiện trong sách Thường thức chính trị của Hồ Chí Minh viết năm 1953 và xuất bản năm 1954. Người viết: “Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới (tức cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hiện nay)… cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới chứ không phải là dân chủ cũ”]. và dân chủ mới[ Khi niệm Dân chủ mới xuất hiện 74 lần trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập (xuất bản lần thứ hai). Lần đầu tiên cụm từ dân chủ mới xuất hiện trong bài Cách tổ chức các ủy ban nhân dân (11-9-1945). Trong sách Thường thức chính trị, Hồ Chí minh đã đăng trong mục 48 nói về Dân chủ mới. Người đã nêu lên 5 đặc điểm về chính trị, kinh tế, tư tưởng, sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm của nhân dân với nền dân chủ mới]. Người cho rằng, bước chuyển từ dân chủ cũ sang dân chủ mới là kết quả của cuộc đấu tranh liên tục của nhân dân toàn thế giới cho lý tưởng dân chủ, cho sự tự do, bình đẳng giữa các dân tộc và giữa con người với con người. Như trên đã phân tích, tư tưởng cơ bản về dân chủ của Hồ Chí Minh là đề cập đến vấn đề nhà nước - thiết chế chính trị, như là phương thức
  6. tồn tại của nhân dân và là sản phẩm của tiến bộ xã hội và dân chủ vừa là mục đích, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Song, một vấn đề hết sức quan trọng là
  7. sự tiếp cận vấn đề dân chủ của Hồ Chí Minh về phương diện lịch sử không chỉ làm rõ quá trình hình thành, phát triển tư tưởng dân chủ trong lịch sử xã hội, mà quan trọng hơn là xác định nấc thang giá trị về dân chủ và đặc biệt là vấn đề dân chủ mới. Nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và nhất là vấn đề dân chủ mới của Người trên cơ sở xem xét bản chất của dân chủ phải coi dân chủ là một phạm trù chính trị theo ba nguyên tắc phương pháp luận mà Lênin đã chỉ ra trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính trị – kinh tế, với quan hệ giai cấp và sự tham gia của nhân dân vào sự hoạt động của nhà nước. Trong đó, mối quan hệ với kinh tế thì chính trị là sự biểu hiện tập trung nhất của kinh tế. Điều này, không chỉ phản ánh vai trò của cơ sở kinh tế với nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, mà còn nói lên tính chất, trình độ về sự hoàn thiện của nhà nước với tính cách là nền dân chủ sẽ tương ứng với tính chất và trình độ của một nền kinh tế xã hội nhất định. Theo nghĩa đó, trong xã hội có giai cấp, thì khái niệm chính trị phản ánh về quyền lực nhà nước giữa các giai cấp khác nhau, chứ không đồng nhất với quyền lực xã hội. Mặc dầu, tính chất và trình độ dân chủ được đặt ra trong quan hệ trực tiếp với chính trị, phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất thống trị với tư tưởng xã hội, thiết chế xã hội tương ứng. Nhưng vấn đề cốt lõi, khi xem xét thước đo trình độ dân chủ của một chế độ xã hội, nhất là xã hội hiện đại là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước và xã hội. Đặc biệt, trong nền dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh, coi bản chất của nền dân chủ mới phải thể hiện được tính nhân dân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua phương thức tổ chức hệ thống chính trị - đó là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong đó, nhân dân với vai trị là người chủ, người làm chủ. Theo nghĩa đó, một vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải làm rõ về các khái niệm: Nhân dân là ai? Họ là những bộ phận của xã hội và thực chất vai trò của họ trong xã hội được thể hiện trong xã hội như thế nào? Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về đặc trưng của nhà nước, nhất là đặc trưng về việc thiết lập quyền lực công cộng đối với xã hội và đặc trưng về nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Trong đó, dấu hiệu về mặt lãnh thổ còn được thể hiện chủ quyền quốc gia về tính hợp pháp của nó trong quan hệ quốc của các nhà nước hiệnđại. Khái niệm nhân dân theo nghĩa rộng bao gồm nhiều lực lượng xã hội khác nhau. Trước hết, nhân dân là lực lượng lao động xã hội trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mặt khác, họ còn là những bộ phận
  8. dân cư có khuynh hướng luôn chống lại những giai cấp thống trị áp bức bóc lột mà lợi ích căn bản của những giai cấp ấy đối kháng với lợi ích đông đảo nhân dân
  9. lao động. Đồng thời, họ còn bao gồm các giai cấp và các tầng lớp xã hội có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nhưng theo nghĩa hẹp, thì nhân dân các tầng lớp, các giai cấp trong quan hệ với quyền lực nhà nước. Vì vậy, Hồ Chí Minh giải thích: “Nhân dân là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp ấy đoàn kết lại, bầu ra chính phủ của mình. Đối với nội bộ nhân dân thì thực hành dân chủ. Đối với đế quốc, phong kiến và lũ phản động, thì thực hành chuyên chính, chống lại chúng, đàn áp chúng”. Theo nghĩa đó, Hồ Chí Minh quan niệm bản chất dân chủ mới của nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ sở giai cấp là: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân, tức là của các giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Bốn giai cấp ấy do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước để thực hành dân chủ chuyên chính”. Thật vậy, khi bàn đến nội dung chính trị, bản chất chính trị trong khi niệm dn chủ mới lã một hình thi nhà nước, Hồ Chí Minh đã khái quát thành những đặc điểm cơ bản của nền dân chủ mới là: “Đảng lãnh đạo, … công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng tri) bọn phản động”. Với tư tưởng nhất quán trên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cơ chế thể hiện bản chất của nền dân chủ mới là: Đảng lãnh đạo - Nhân dân lao động làm chủ - Nhà nước dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù. Về vấn đề chuyên chính vô sản, mặc dù theo Hồ Chí Minh đây không phải là nhiệm vụ cơ bản nhất của nền dân chủ mới, nhưng chỉ có thể xây dựng, phát triển và giữ gìn được nền dân chủ mới thì phải trấn áp sự phản kháng của kẻ thù, kẻ thù của nhân dân. Vì vậy, “Dân chủ cũng cần phải cùng chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” . Người còn giải thích một cách rõ ràng: “Chế độ ta là chế độ dân chủ nhân dân; chúng ta cần mở rộng dân chủ với nhân dân, đồng thời cần phải tăng cường chuyên chính với kẻ địch của nhân dân. Có tăng cường chuyên chính với kẻ địch thì mới bảo vệ được tự do và dân chủ của nhân dân ta”. Theo nghĩa đó, dân chủ đi liền với kỷ cương và tuân thủ luật pháp. Tóm lại, tư tưởng về nền dân chủ mới của Hồ Chí Minh là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, do nhân dân làm chủ thông qua hệ thống chính trị với các tổ chức xã hội rộng rãi
  10. của nhân dân. Và đã thực sự cũng là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhưng, một vấn đề quan trọng là tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh về nhà nước xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của vấn đề này trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta?
  11. Tư tưởng Hồ CHí Minh về xây dựng một nền giáo dục mở 14:09 | 22/08/2009 (ĐCSVN) - Vị trí, vai trò của giáo dục từng được Hồ Chí Minh khẳng định là quốc sách hàng đầu, được thể hiện xuyên suốt và nhất quán trong tất cả các phát biểu, quan điểm, tư tưởng của Người, kể từ những ngày đầu đất nước mới giành được độc lập cho đến lúc Người đi xa. Mù chữ và sự dốt nát được Hồ Chủ tịch xem như là một thứ giặc, một quốc nạn: “Giặc đói, giặc dốt là bạn đồng minh của giặc ngoại xâm”. Trong bức thư gửi anh chị em giáo viên bình dân học vụ (tháng 5 năm 1946), Người viết: “…Chương trình của Chính phủ là làm thế nào cho toàn quốc đồng bào ai cũng có ăn, có mặc, có học hành. Vậy khẩu hiệu của chúng ta là: Tăng gia sản xuất, chống nạn mù chữ ”. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, và dù khó khăn, gian khổ đến mấy của cuộc kháng chiến chống thực dân, Hồ Chủ tịch vẫn luôn dành một sự quan tâm sâu sắc cho sự nghiệp giáo dục. Một ngày sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập'” (ngày 3-9- 1945), Người đã chủ trì phiên họp của Chính phủ và đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết; trong đó có nhiệm vụ mở chiến dịch chống nạn mù chữ, chống giặc dốt. Người coi giáo dục là quốc sách, là vấn đề trọng tâm thường xuyên cần phải chăm lo. Bởi suy cho cùng, niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà Đảng và Chính phủ có thể đem lại cho mọi người, chính là giúp họ tự giải phóng họ khỏi nghèo nàn, áp bức bằng con đường lao động sáng tạo, lao động có hiệu quả, và chỉ có thông qua giáo dục. Vì vậy, không ai khác, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng xây dựng nền giáo dục mở và chỉ ra phương cách thực hiện chính sách mở trong giáo dục, thông qua con đường xã hội hóa giáo dục. Phát biểu tại Đại hội sơ kết công tác bình dân học vụ 6 tháng đầu năm 1956, ngày 16-7-1956, Người nói: “Những người biết chữ hãy dạy cho những người không biết chữ, người biết chữ nhiều dạy người biết chữ ít, mỗi xóm cử một người đi học, học mấy hôm về dạy mấy hôm, hết chữ rồi trở lại học, thầy vừa dạy vừa học”. Hay trong bài “Chống nạn thất học” (đăng trên báo Cứu Quốc, số 58, ngày 4-10-1945), Người hướng dẫn tỉ mỉ: “Các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình”. Và mục đích, động cơ của việc học là để hiểu biết, học để làm việc, làm giàu, tóm lại là để mỗi người hoàn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Trong một bài viết đăng trên báo Nhân dân (số 183, ngày 9 -11/5/1954), Người căn dặn:.“… Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ” và: “ … có đồng chí nói: Nông thôn bận việc nhiều, khó học tập. Chính vì công việc nhiều mà càng cần phải học
  12. tập để làm cho
  13. đảng viên và cốt cán tư tưởng thông, lập trường vững, làm đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, đi dúng đường lối quần chúng. Học càng khá thì giải quyết các vấn đề càng dễ dàng, công việc trôi chảy…”. Trên báo Nhân dân số ra ngày 16-10-1968, về mục tiêu của giáo dục và đào tạo, Người cho rằng là để “đào tạo những con người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và Nhân dân ta”. Người cũng chỉ rõ rằng, giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý “Lý luận gắn chặt với thực hành, học tập ở nhà trường gắn liền với xã hội với gia đình…”. Nói chuyện với lớp Nghiên cứu Chính trị khóa I, trường đại học Nhân dân (ngày 21-7- 1956), Người khẳng định: “… Học là một việc phải tiếp tục suốt đời, suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”. Người cũng đã chỉ ra phương châm giáo dục hết sức khoa học là: Giáo dục phải gắn liền với sản xuất và đời sống nhân đân. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động sản xuất... Về phương pháp giáo dục, trên báo Nhân Dân (số 183, ngày 11-5- 1954), Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “… Dạy dần dần từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, không tham nhiều, không nhồi sọ”; “ Dạy một cách thiết thực, lý luận gắn chặt với thực hành ”. Hồ Chủ tịch còn chỉ ra hiệu quả của việc phát huy mối liên hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình và xã hội trong giáo dục chăm lo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Điều này được thể hiện trong bài nói của người tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành Giáo dục (ngày 3 đến 8 tháng 6-1957, tại Hà Nội): “Giáo dục trong nhà trường dù có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không thu được hoàn toàn”. Điều này thật thấm thía. Bởi vì, giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, của các lực lượng xã hội. Nên chỉ có kết hợp chặt chẽ các yếu tố này mới tạo thành sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp “trồng người” đi đến thắng lợi. Cuối cùng, sự nghiệp giáo dục - theo quan điểm của Hồ Chí Minh - là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của nhân dân. Trong “Thư gửi cán bộ, thầy giáo, cô giáo, học sinh nhân dịp khai giảng năm học mới”, người khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó. Giáo dục nhằm đào tạo con người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta. Do đó các ngành, các cấp Đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới ”. Thực hiện di huấn của Người, trong hơn 30 năm qua, sự nghiệp giáo dục và khoa học luôn được Đảng ta thật sự coi là quốc sách hàng đầu nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội
  14. nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng và nhà nước ta đã tiến hành nhiều cuộc cải
  15. cách, xây dựng và nỗ lực triển khai thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch nhằm đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng về đổi mới giáo dục, năm 1978, Hội nghị ngành Giáo dục đại học tại Nha Trang đã đưa ra ba chương trình hành động, với nội dung chủ yếu là: 1. Đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo trong các trường đại học theo hướng cơ bản nhất, hiện đại và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. 2. Tăng cường công tác khoa học - kỹ thuật, hợp tác quốc tế, đầu tư cơ sở vật tư - kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục đại học, bảo đảm tốt những điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo. 3. Đa dạng hóa hệ thống trường, lớp theo hướng xã hội hóa giáo dục. Từ chủ trương đổi mới của ngành Giáo dục, từ năm 1990, chúng ta đã hình thành viện Đào tạo Mở (nay là đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh và đại học Mở Hà Nội). Riêng đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh hoạt động theo cơ chế ngoài công lập và là trường đại học mở tự hạch toán đầu tiên (không sử dụng ngân sách nhà nước từ thuế của dân), với hai thử nghiệm: thực hiện chính sách mở trong giáo dục và xây dựng cơ chế tài chính của một đại học tự hạch toán, không sử dụng ngân sách của nhà nước. Qua 3 năm thử nghiệm (từ tháng 6 -1990 đến tháng 7- 1993), mô hình viện Đào tạo Mở thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận và được sự đồng tình cao của xã hội. Bằng chứng là đã có hơn 20.000 sinh viên theo học hình thức này. Mô hình đào tạo mở đã từng bước được củng cố và mở rộng, trong đó, đào tạo từ xa là phương thức quan trọng để thể hiện chính sách mở trong giáo dục của Đảng, đã thu hút hàng vạn học viên ở mọi miền đất nước theo học. Các hoạt động của nhà trường, từ cơ sở vật chất phục vụ dạy và học, đến kinh phí chi trả lương cho đội ngũ gióa viên, cán bộ, công nhân viên và các hoạt động khác, nhà trường đều tự trang trải. Trên cơ sở thành công của mô hình đào tạo mở, Chính phủ sau đó đã công nhận thông qua quyết định cho phép viện Đào tạo Mở thành phố Hồ Chí Minh chuyển thành đại học Mở - Bán công thành phố Hồ Chí Minh ngày 26 - 7-1993. Từ đây, hàng loạt trường đại học ngoài công lập đã lần lượt ra đời, đến nay đã hình thành một hệ thống rộng khắp với số lượng hàng trăm trường, bao gồm các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập. Hơn 20 năm qua, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế hoạch định sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, hòa nhập vào nền kinh tế mở. Để hòa nhập thành công vào nền kinh tế mới đó, một trong những điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển là phải xây dựng cho được nền giáo
  16. dục mở cho mọi người. Vì vậy, ngay cả các quốc gia phát triển cũng đã thay đổi quan điểm về giáo dục. Đó là từ một nền giáo dục khép kín, chất lượng cao và chỉ dành cho một số đối tượng, chuyển sang nền giáo dục mở mang tính đại chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tiếp cận kiến thức đại học. Theo đó, khái niệm “mở” trong giáo dục được hiểu ít nhất trên bốn phương diện: mở rộng quy mô đào tạo; mở rộng đa dạng hóa hình thức đào tạo (tập trung chính quy, đào tạo không chính quy, đào tạo lại, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa thông qua công nghệ truyền thông, cầu truyền hình, mạng in-tơ-net, học toàn thời gian, bán thời gian v.v…); mở rộng đối tượng đào tạo (không phân biệt tuổi tác, giưới tính, tôn giáo, giai cấp…); và mở rộng phạm vi giáo dục (địa phương, trung ương, quốc tế hóa giáo dục). Đặc biệt, trong giáo dục đại học, việc phân tầng mục tiêu chương trình đào tạo đã trở thành một xu thế, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực đa dạng trong nền kinh tế mở - kinh tế thị trường; bên cạnh mở rộng phương thức đầu tư phát triển giáo dục theo hướng xã hội hóa. Có thể nói, những cải cách giáo dục trong hơn 30 năm qua đã tháo gỡ được những khó khăn trầm kha, đưa ngành giáo dục phát triển nhanh, mạnh và đã thu được những thành quả đáng kể, xét cả về quy mô đào tạo, phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật, cả về hệ thống cơ sở giáo dục, mà điển hình là trong giáo dục đại học trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, khách quan mà đánh giá, hệ thống giáo dục của chúng ta vẫn còn nhiều bất cập. Cả trong nhận thức và hành động, chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu đặt ra là nhằm đưa nước ta “…trở nên tươi đẹp… bước tới đài vinh quang để sánh vai với cường quốc năm Châu” như Hồ Chủ tịch mong muốn. Đất nước và nhân dân ta đang thật sự cần có một chính sách căn cơ về giáo dục và phải được xây dựng trên nền tảng kế thừa tinh hoa của thế giới và dân tộc, đặc biệt là dựa trên tư tưởng của Hồ Chủ tịch về giáo dục. Để thực hiện ý nguyện của Hồ Chủ tịch: “…Sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh của nhân dân…”, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay, thiết nghĩ, ngành Giáo dục Việt Nam cần quan tâm triển khai thực hiện một số giải pháp sau đây. Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh học tập, nghiên cứu thấu đáo tư tưởng của Hồ Chủ tịch về xây dựng một nền giáo dục thật sự của mọi người, vì mọi người, cho mọi người; mọi người được quyền bình đẳng hưởng thụ thành quả của nền giáo dục và có nghĩa vụ đóng góp xây dựng và phát triển giáo dục. Làm sao để mọi người đều thấu suốt quan điểm sự nghiệp “trồng người” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, của gia đình và các bậc phụ huynh như Hồ Chủ tịch căn dặn, nhằm đưa đất nước phát triển và sánh vai với các cường quốc năm châu. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành chiến lược phát triển giáo dục với đầy đủ quan điểm, triết lý, khái niệm về giáo dục toàn diện, đồng bộ và nhất quán. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện Luật Giáo dục, bảo đảm phù hợp với hoàn cảnh,
  17. điều kiện phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Để Luật Giáo dục phù hợp và bảo đảm đáp ứng tốt nhu cầu phát triển giáo dục, Quốc hội cần thay đổi phương pháp làm luật, trong đó nên hình thành bộ phận tổ chức xây dựng luật đi từ cơ sở đang hoạt động trực tiếp về giáo dục, thay vì ngành chủ quản đứng ra xây dựng luật như hiện nay. Thứ ba, vấn đề đặt ra cho sự nghiệp “trồng người” hiện nay là trên cơ sở thấm sâu và vận dụng sáng tạo tư tường của Hồ Chủ tịch, xây dựng cho được một đội ngũ người thầy ngang tầm. Trong đó, mỗi người thầy phải hội đủ hai phẩm chất cơ bản là vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách cụ thể hơn về đất đai và thuế doanh nghiệp cho các cơ sở ngoài công lập - một loại hình giáo dục - đào tạo đang trở thành một xu hướng, không riêng một khu vực hay một quốc gia. Lý do là, hoạt động giáo dục có những đặc thù riêng, trong đó, sản phẩm của giáo dục lại rất đặc biệt, chính là đào tạo con người. Vì vậy, không nên xem trường ngoài công lập là một doanh nghiệp để tính thuế, đánh thuế cơ sở giáo dục - mà thực chất là đánh thuế vào người học. Thứ năm, bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu để có sự điều chỉnh, thậm chí kiên quyết huỷ bỏ những quy định không còn phù hợp trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo; nhất là tạo điều kiện cho các trường mở rộng mối quan hệ liên kết đào tạo các chương trình quốc tế, thay vì vẫn còn nặng về cơ chế “xin - cho” như hiện nay. Đi kèm theo đó là có một hệ thống cơ chế, chính sách thỏa đáng và phù hợp trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm đào tạo ngang tầm. Cuối cùng là một cơ chế quản lý và phương pháp giáo dục luôn luôn phải đổi mới./.
nguon tai.lieu . vn