- Trang Chủ
- Triết học
- Tư tưởng cải cách triết học của Ludwig Feuerbach trong tác phẩm - những nguyên lý của triết học tương lai và ý nghĩa của nó
Xem mẫu
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 11
TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC
CỦA LUDWIG FEUERBACH TRONG TÁC PHẨM -
NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC TƯƠNG LAI
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ*
Triết học Ludwig Feuerbach là một sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới,
hình thành vào cuối những năm 30 – những năm đầu thế kỷ XIX. Đánh giá về
nhiệm vụ của triết học mới, L. Feuerbach cho rằng hiệm vụ ủ ỷ ng n
hiện đ i hiện thự h v nh n đ o h h – ự h nđ iv n ủ
hần họ v o nh n o i họ . inh hần trong tác phẩm Những nguyên lý của triết
học tương lai (1843) đời dựa trên những mong muốn đ . á phẩm là sự
đánh dấu những chuy n đ i ư ưởng trong nhận thức của L. Feuerbach về giá
trị on người – tự do, h nh phúc, khát vọng đượ hương v n ọng trong
một xã hội òn đầy rẫy bất công t i Đứ đương hời.
Từ khóa: cải cách triết học, Ludwig Feuerbach, tư tưởng, ý nghĩa, Những nguyên lý
của triết họ ương lai
Nhận bài ngày: 15/11/2019; đư v o bi n ập: 19/11/2019; phản biện: 7/12/2019;
duyệ đăng: 10/2/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ chế độ quân chủ - né tránh sự va
Cuối những năm 30 – đầu những năm chạm trực tiếp với chế độ hiện hành
40 của thế kỷ XIX, tại Đức, các cuộc bằng việc phê phán triết học Kitô giáo
đấu tranh tư tưởng giữa giai cấp tư chính thống; một bộ phận khác theo
sản và lực lượng phong kiến ngày khuynh hướng dân chủ tư sản lại
muốn đưa nước Đức thoát khỏi tình
càng lên cao. Tình trạng chia cắt đất
trạng hiện có. Trong số những đại
nước đã cản trở sự phát triển của
biểu tiêu biểu của khuynh hướng dân
công nghiệp và thương nghiệp. Bên
chủ tư sản nổi bật là Ludwig
cạnh đó, giai cấp tư sản bấy giờ đứng
Feuerbach (L. Feuerbach). Triết học L.
trước hai lực lượng mà họ cho là đều
Feuerbach không nằm ngoài dòng
đáng ngại như nhau – lực lượng của
chảy của triết học cổ điển Đức được
“quá khứ” và lực lượng của “tương lai”.
hình thành vào cuối những năm 30 –
Trong bối cảnh này tầng lớp tư sản đầu những năm 40 của thế kỷ XIX.
trung lưu chọn giải pháp dung hòa với Tác phẩm Những nguyên lý của triết
họ ương lai được L. Feuerbach viết
*
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân và hoàn chỉnh vào năm 1843, tác
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí phẩm là sự tiếp nối của ông trong việc
Minh. phê phán Cơ Đốc giáo và nền chuyên
- 12 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC…
chính tinh thần kết hợp với chế độ thuyết hữu thần, vô thần, chủ thể và
quân chủ Phổ làm mất tự do, cả tự do khách thể, triết học tư biện, nền tảng
về tinh thần của con người. của chủ nghĩa duy vật cũng như sự
Tác phẩm Những nguyên lý của triết “thai nghén” của nền triết học mới.
họ ương i (tiếng Đức: Grundsätze Trong nội dung đề cập đến tôn giáo, L.
der Philosophie der Zukunft; tiếng Anh: Feuerbach chỉ rõ cả hai đều là tín đồ
Principles of Philosophy of the Future) của Cơ Đốc giáo, mặc dù về hình
gồm 65 nguyên lý được chia thành ba thức họ khác nhau. Giáo phái Tin
phần: phần mở đầu đối chiếu, đánh Lành thừa nhận Chúa chỉ là một con
giá các học thuyết duy tâm cận đại, người. L. Feuerbach (2015: 7) mô tả
bởi lẽ, ông muốn trên cơ sở đó giải về Chúa: “Ngài là sự sống của đấng
thích ý nghĩa học thuyết của mình như tối cao hay sự sống đó sẽ trở thành
bước tiến mới của văn hóa Châu Âu; đối tượng cho loài người trên thiên
phần thứ hai, trên cơ sở kế thừa có đàng kia”. Trong khi Chúa của Thiên
phê phán triết học tư biện – hệ thống Chúa giáo hoàn toàn trái ngược;
triết học Hegel và chỉ ra những điểm Thiên Chúa giáo tách Thượng đế của
hạn chế trong tư tưởng của người họ ra khỏi đời sống của loài người,
thầy, L. Feuerbach đi đến quan điểm hình thành nên một lý thuyết tư biện,
nhân văn, đồng thời muốn cải cách tạo cho ngài một “vỏ bọc” đầy phép
triết học mới; phần ba xác nhận hệ màu và bí ẩn đối với con người và xã
thống khái niệm mới như: tư tưởng hội trần tục, xa lánh hiện thực và chối
nhân văn, nhân bản, chủ nghĩa tự bỏ những bất công, mâu thuẫn trong
nhiên, chủ nghĩa thực nghiệm… với cuộc sống của con người, hình ảnh
những đặc trưng của triết học mới để của Chúa hơn cả những gì tưởng
giải phóng con người thoát khỏi triết tượng, vượt qua cả lý thuyết thông
học duy tâm tư biện và thần học Kitô thường, tôn kính Chúa “giống như một
giáo, mang đến cho con người một
sự sống riêng biệt từ lý trí” (L.
không gian sống hạnh phúc, tự do
Feuerbach, 2015: 8). Dựa trên những
trong cả đời sống hiện thực lẫn trong
phân tích của mình, ông cho rằng, nếu
tư duy.
chủ nghĩa duy lý biến mất hoặc lý
2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH thuyết về thần học tan rã thì con
TRIẾT HỌC CỦA L. FEUERBACH người có xu hướng nhận thức về
TRONG TÁC PHẨM NHỮNG NGUYÊN Chúa không giống như một khách thể
LÝ CỦA TRIẾT HỌC TƯƠNG LAI mà chỉ là một điều bí ẩn, vượt lên trên
2.1. Tư tưởng của L. Feuerbach về tự nhiên, đó là lý thuyết của triết học
tôn giáo tư biện, không phải triết học. Như vậy,
Trong nội dung này, L. Feuerbach chủ xét về bản chất, cả hai giáo phái đều
yếu tập trung phân tích những khái tôn sùng một đối tượng siêu tự nhiên,
niệm của các thuộc tính tôn giáo như: vượt xa những khả năng của con
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 13
người. Cùng quan điểm như khi nhận Feuerbach nhấn mạnh, con người có
định về đạo Cơ Đốc giáo, L. Feuerbach thể nhận thức thuyết hữu thần bằng lý
cho rằng, Chúa thì không có ý nghĩa trí hay bằng chính giác quan của họ,
gì cả nhưng Chúa chính là bản chất lý Chúa có tồn tại hay không đều không
trí của thuyết hữu thần. Con người ảnh hưởng gì đến cuộc sống của con
trong xã hội chưa phát triển đã “sáng người, nhưng sự tưởng tượng về
tạo” ra thần của họ bằng cách xây đấng tối cao làm cho ngài vượt lên
dựng những tính cách cho Chúa và tư trên con người. Và trong thực tế, ngài
duy về sự thần thánh của họ. tồn tại từ một thực thể riêng biệt, độc
lập hoàn toàn với lý trí. Tinh thần, một
Trạng thái tôn sùng lực lượng siêu
trạng thái bên trong của con người,
nhiên, theo L. Feuerbach cũng là một
một giác quan, là khả năng của con
trạng thái tinh thần, thần linh - một đối
người nhưng thuyết hữu thần thì cho
tượng trừu tượng, vô biên, không xác
rằng nó là một sự tưởng tượng, “…
định và không nhận thức rõ. L.
bản chất thần thánh là bản chất của lý
Feuerbach cũng chỉ ra rằng, giống
trí hay sự thông thái dối trá trong sự
như bản chất của lý trí, thần thánh chỉ
thật là sự á nhận h năng ự ủ
là một dạng của duy lý, triết học tư
h , theo như họ thì h ự
biện vì thế “cũng cần được nghỉ ngơi”,
h ng hái và không định nghĩa của
cần được thay thế bởi một hệ thống
các giác quan hoặc sự tưởng tượng là
triết học khác hoàn bị hơn. Bản chất năng ự ủ ” (L. Feuerbach,
của thần thánh là bản chất phi lý tính, 2015: 5). Như vậy, những người theo
ý thức ở trạng thái tinh thần, Chúa thuyết hữu thần đã gián tiếp xác nhận
được hiểu là sự thông thái không xác rằng, năng lực tư duy, khả năng nhận
định của các giác quan, một sự tưởng thức, hay cụ thể đó là lý trí chỉ là sự
tượng thể hiện trong năng lực của lý tưởng tượng, tồn tại tách biệt một cơ
trí. Ngay khi nói về đối tượng của thể sống. Và, nếu Chúa tồn tại như
nhận thức, L. Feuerbach (2015: 8) nói một sinh thể bình thường thì Chúa
rõ “Chúa là sự sống không giới hạn phải có lý trí, có giác quan như bao
hoặc không có bất cứ giới hạn nào” nhiêu sinh thể bình thường khác.
Chúa không phải là đối tượng tồn tại Nhưng theo L. Feuerbach, Chúa
một cách rõ ràng trong đời sống hiện không có một cuộc sống như những
thực, sự sống của Chúa nằm ngoài sự sinh thể bình thường khác, Chúa tồn
tồn tại của con người, mà sự tồn tại tại vượt lên trên cuộc sống bình
đó không bao gồm triết học, sự sống thường của “loài”. Lý trí, nhận thức
dành cho một đấng tối cao ở trên của con người luôn bị giới hạn bởi sự
thiên đàng. Nơi đó chỉ tồn tại trong phát triển của khoa học và cuộc sống.
duy lý, không thực, đó là tôn giáo, triết Trong thực tế, sự sống của con người
học tư biện. Để minh chứng cho có giới hạn về mặt không gian và thời
những nhận định của mình, L. gian, con người không thể tồn tại
- 14 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC…
trong thời gian và không gian không Theo cách diễn đạt của L. Feuerbach,
xác định. Nhưng, trong tác phẩm Bản lý thuyết tư biện của thuyết thần học
chất Kitô giáo, L. Feuerbach (2012: 8) chỉ xoay quanh quan điểm của Chúa,
chỉ rõ, theo Chúa thì “Lý trí, theo Chúa từ đó diễn đạt lại thành quan điểm của
quan niệm là sự sống không giới hạn, con người, con người chỉ có thể có
hiểu biết… vô tận của chính nó trong nhận thức khi đã được Chúa “gạn lọc”
Thiên Chúa”. Bản thân thuyết hữu qua nhận thức của Chúa mà không có
thần được xây dựng trên những lập tư duy của riêng mình. Còn theo triết
luận đầy mâu thuẫn. Một mặt, họ cho học tư biện, Chúa đã nỗ lực để trở
rằng Chúa tồn tại vĩnh viễn, vô điều thành người nhưng không phải là con
kiện và tồn tại xuyên qua chính bản người bình thường với những cảm
thân nó. Mặt khác, họ lại tuyên bố xúc đời thường mà là một con người
Chúa có sự sống và tồn tại như một siêu nhiên, phi thực tế, một con người
bản thể, có thể là một tư duy sống, trừu tượng khó lý giải, Chúa vượt qua
cũng có thể là một điều xấu xa; và mọi giới hạn của sự sống, “là ranh
Chúa là một khách thể sống thì tồn tại giới của sự tưởng tượng, không cụ
bên ngoài giác quan, không phụ thuộc thể, mù mịt và tách biệt” (L.
vào giác quan. Điều này đã tác động Feuerbach, 2012: 13). Và câu hỏi mà
đến tư duy của L. Feuerbach, ông cho L. Feuerbach đặt ra: nếu Chúa của
rằng: con người không thể tồn tại nếu thuyết thần học hay lý thuyết tư biện
tách khỏi tự nhiên, bởi một lẽ giản tạo ra mọi vật theo yêu cầu và tiêu
đơn là “Tôi không thể hiểu sự sống chuẩn cho phép thì sự thông minh,
mà không có không khí, hoặc là nhìn bản chất của Chúa có khác gì con
thấy sự sống mà không có ánh sáng” người không, và như vậy, giữa sự
(L. Feuerbach, 2015: 10). Theo ông, thông minh của Chúa và toán học của
cuộc sống của con người cần có sự con người có sự thần bí không, cái
tác động qua lại giữa họ với tự nhiên, nào cụ thể và cái nào thần bí hơn. Đó
họ không thể tồn tại bên ngoài tự là những nhận định sắc sảo ban đầu
nhiên mà không cần những điều cơ của L. Feuerbach khi chỉ ra cái vỏ
bản như không khí để thở, ánh sáng ngụy tạo của triết học tư biện và
để nhìn và nguồn thức ăn để duy trì thuyết thần học là tương đồng, và
sự trao đổi chất trong cơ thể. không khác gì hơn khi chính những
Trong quan điểm về thuyết thần học nhận thức đó làm giảm đi khả năng
và triết học tư biện, L. Feuerbach đã nhận thức của con người về họ và về
chỉ ra sự giống nhau là thuyết thần thế giới xung quanh họ.
học “xoay quanh quan điểm của con Theo L. Feuerbach xét đến cùng, thần
người đi vào quan điểm của Chúa”, học là nhân học, vì nó tìm hiểu cái mà
đồng thời, lý thuyết của triết học tư con người suy tôn thành đấng sáng
biện xoay quanh quan điểm của Chúa thế, hơn nữa thông qua đó con người
đi vào quan điểm của con người. suy tôn chính mình.
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 15
2.2. Tư tưởng của L. Feuerbach về Hegel xem như một chủ thể có được
triết học tư biện của G.W.F. Hegel tự do tuyệt đối từ vật chất. Bằng cách
Đánh giá sự đóng góp của Hegel cho đó – vật chất không phải là sự tương
nền triết học Đức, L. Feuerbach nhấn phản với cái tôi và linh hồn – vật chất
mạnh triết học Hegel như sự kết thúc mâu thuẫn với linh hồn. Tuy nhiên,
của nền triết học hiện thời, đỉnh cao Hegel cũng đưa ra những nguyên lý
của triết học hiện đại, nên ông gắn kết trái ngược là, chính vật chất ấn định sự
tính tất yếu và sự luận chứng cho học tồn tại không thực tế, với những điều
thuyết duy vật của mình với việc phê hư vô, là di chuyển vật chất và giải
phán học thuyết duy tâm của Hegel. phóng sự duy cảm từ chính nó, nghĩa
Một trong những nội dung đầu tiên là tồn tại chỉ được hiểu là đức tin. Bản
của triết học mới, hay triết học cải thể, vật chất và giác quan là những
cách, là vạch ra những hạn chế của yếu tố của tồn tại nhưng được Hegel
triết học tư biện - tức triết học Hegel, nhận định là những yếu tố siêu giác
để từ đó xác lập những nguyên tắc quan. Giác quan và lý trí là hai yếu tố
tách rời nhau, “phi bản ngã trong bản
của triết học dấn thân, hướng đến con
ngã” (L. Feuerbach, 2015: 36).
người và cơ sở tự nhiên của tồn tại
người. Triết học dấn thân đó phải tập Theo L. Feuerbach (2015: 37), vật
hợp, liên kết tất cả những gì tốt đẹp chất là một thuộc tính của tồn tại, chứ
trong quá khứ, tạo nên sức mạnh thu không phải thuộc tính của Chúa, cái
hút con người, vạch cho họ một con mà trong hầu hết nguyên lý cơ bản
đường vươn tới “vương quốc của con của triết học Hegel là vượt qua những
người”, nơi mà con người không còn nguyên lý, những nguyên tắc và kết
bị ám ảnh bởi những xiềng xích vô luận triết lý tôn giáo của Hegel với sự
hình và hữu hình. Tuy nhiên, triết học tác động của triết học này, thần học bị
của Hegel cũng là sự mâu thuẫn của bãi bỏ, chỉ khôi phục sự phủ định của
thuyết phiếm thần từ quan điểm thần thuyết duy lý, “Bí mật của phép biện
học hoặc lặp lại chính thuyết thần học. chứng là sự dối trá, đó là nó phủ định
Hegel khẳng định, trong triết học hiện thần học xuyên qua triết học để mà
đại, vật chất vô hình, như một khách sau đó phủ nhận triết học xuyên qua
thể thuần khiết của trí tuệ, một sự tồn thần học”. L. Feuerbach chỉ ra rằng,
tại tuyệt đối không gì khác hơn là triết học mới mà Hegel dày công tìm
Chúa, là Thượng đế. Khi nói về sự kiếm chỉ là sự “lặp lại thần học”. Hegel
giải thoát, theo các nhà thần học đã đồng nhất giữa linh hồn và vật chất,
gán cho thần linh niềm hạnh phúc, vô hạn và hữu hạn, thuyết hữu thần
đức hạnh của con người. Hegel biến và loài người để tiến gần với siêu hình
hoạt động của chủ thể có nhận thức học. Vì siêu hình học mang tính hai
thành hoạt động của thần linh, phép mặt, sự thừa nhận niềm tin và không
màu. Và như thế, Chúa cũng được niềm tin, thần học và triết học, tôn
- 16 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC…
giáo và vô thần… Hegel thừa nhận tồn tại, “một sự tồn tại có ý nghĩa và lý
Chúa, nhưng lại xem chủ nghĩa vô trí trong chính nó. Không có sự tồn tại
thần là một thời khắc trong quá trình nào trừu tượng cả”. Theo L. Feuerbach
đó, Hegel hiểu Thiên Chúa xây dựng (2015: 76), Thiên Chúa chỉ là “một
lại từ chính mình, là một Thiên Chúa mong muốn của con người” thoát ra
thật sự hay đúng hơn là một người tự khỏi đời sống trần tục để vươn đến
mâu thuẫn, một vị thần nhưng vô thần. một trạng thái khác, mà nơi đó không
Suy cho cùng, về mặt nhận thức luận, tồn tại khách thể tư duy, và rõ ràng,
triết học của Hegel là nỗ lực cuối cùng Chúa cũng không phải triết học: “Chúa
để khôi phục Kitô giáo thông qua lý lẽ giống như khách thể của tôn giáo – và
của triết học, vì chính Hegel xem chủ chỉ như Chúa - Thiên Chúa trong ý
nghĩa vô thần là một khoảnh khắc nghĩa của một thiên hướng, không
trong quá trình tồn tại của Chúa, gián phải là một thực thể siêu hình mơ hồ,
tiếp thừa nhận sự tồn tại của Chúa. về bản chất, chỉ là một đối tượng của
tôn giáo, không phải là triết học - của
Phê phán Hegel trong quan niệm về
cảm giác, không phải của trí tuệ - về
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, L.
sự cần thiết của trái tim, không phải là
Feuerbach viết: “Triết học Hegel
tự do của tâm trí: nói tóm lại, một đối
không vượt qua được sự mâu thuẫn
tượng là phản xạ không phải của lý
giữa tư duy và tồn tại. Tồn tại trong
thuyết mà là xu hướng thực tế ở con
Hiện ượng học nằm trong thế mâu
người” (L. Feuerbach, 2012: 76). Liên
thuẫn trực tiếp với thực thể ở mức độ
hệ về khía cạnh này, trong Phê phán
giống như tồn tại trong Logic” (L.
triết học pháp quyền của Hêghen, C.
Feuerbach, 2015: 47). Trong Hiện
Mác viết về tôn giáo như sau: “Sự
ượng học của Hegel, ông cho rằng
nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu
không có sự phân biệt giữa cái chung
hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa
và cái riêng, cả hai hòa lẫn vào nhau.
là sự phản kháng chống sự nghèo
Trong thực tế, cái riêng là cái cụ thể,
nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng
thuộc về bản thể hoặc một cá nhân cụ
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
thể. Nhưng trong Hiện ượng học, nó
trái tim của thế giới không có trái tim,
là duy nhất. Đối với Hegel, tồn tại cũng như nó là tinh thần của những
không được nhìn từ góc độ thực tiễn, trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là
mà được cảm nhận bằng giác quan, thuốc phiện của nhân dân” (C. Mác và
một sự tồn tại không thể diễn đạt Ph. Ăngghen, tập 3, 2002: 570)
được, trừu tượng, phi thực tế. Không
2.3. Tư tưởng của L. Feuerbach về
thừa nhận quan điểm của Hegel về
triết học mới
tồn tại, Ludwig Feuerbach (2015: 48)
cho rằng, sự tồn tại, giống như một sự 2.3.1. Trào lưu đề cao con người là
diễn đạt không lời hoặc có thể không nền tảng và điểm xuất phát
được diễn đạt bằng lời, nhưng nó vẫn Theo L. Feuerbach, triết học mới là sự
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 17
phủ định chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa học mới không là gì khác ngoài bản
thần bí, thuyết phiếm thần lẫn chủ chất của cảm xúc được nâng lên
nghĩa nhân vị, cả chủ nghĩa vô thần thành ý thức, nó chỉ khẳng định bằng
lẫn chủ nghĩa hữu thần. Nó là sự lý tính và theo lý tính những gì con
thống nhất tất cả chân lý đối lập ấy, người đích thực bày tỏ trong tim họ.
trở thành chân lý tuyệt đối độc lập và Nó chính là con tim được đưa vào
hoàn bị. Cải cách triết học trước hết khối óc. Con tim không cần vật thể
thể hiện ở sự giải quyết một cách duy trừu tượng, siêu hình hay tư biện, nó
vật vấn đề cơ bản của triết học, thoát cần vật thể thực sự tồn tại trong giác
khỏi những luận điểm sai lầm của chủ quan”. Ông cho rằng, chính cảm xúc
nghĩa duy tâm. thúc đẩy con người nhận thức bằng lý
L. Feuerbach xem con người là nền tính của mình, “nhận thức – nó chỉ xác
tảng xuất phát của triết học mới, ông nhận trong hình thức và xuyên suốt
(2015: 72) tuyên bố: “Triết học mới phương iện của lý tính những gì mà
biến con người và thiên nhiên với vai mỗi người - mỗi on người thật sự -
trò là nền tảng của con người thành nhận vào tim của anh ta” (L. Feuerbach,
khách thể độc nhất, tối cao, chung 2015: 58).
nhất của triết học, qua đó biến nhân Triết học mới là sự phủ định chủ
học, kèm với sinh lý học, thành môn nghĩa duy lý, chủ nghĩa thần bí, thuyết
khoa học chung nhất”. Như vậy, khác phiếm thần lẫn chủ nghĩa nhân vị, cả
với Hegel, L. Feuerbach loại bỏ Thượng chủ nghĩa vô thần lẫn chủ nghĩa hữu
đế khỏi đối tượng nghiên cứu. Đối với thần. Nó là sự thống nhất tất cả chân
ông, chỉ có tự nhiên và con người – lý đối lập ấy, trở thành chân lý tuyệt
sản phẩm ưu tú và hoàn thiện nhất đối độc lập và hoàn bị. Cải cách triết
của nó – mới là đối tượng nghiên cứu học ở L. Feuerbach trước hết thể hiện
của triết học. giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ
Con người đối với L. Feuerbach bản của triết học, thoát khỏi những
không chỉ là đối tượng chủ yếu và luận điểm sai lầm của chủ nghĩa duy
mục đích cuối cùng của triết học, mà tâm, đồng thời đem đến cách hiểu
còn là hình mẫu và thước đo của tất mới về con người, khác với chủ nghĩa
cả. Lý trí, ý chí và tình cảm là những duy vật thế kỷ XVII - XVIII, khi công
tố chất đặc trưng của con người “bằng thức “con người – cỗ máy” trở thành
xương bằng thịt”. Điều này được ông điểm nhấn trong nhân sinh quan của
khẳng định trong Bản chất Kitô giáo R. Descartes, T. Hobbes, La Mettrie...
và nhiều bài viết khác. Trong Những L. Feuerbach (2015: 60) chứng minh
nguyên lý triết họ ương i, L. rằng, triết học mới “chỗ đứng của nó
Feuerbach (2015: 58) viết: “Triết học mang tính duy lý, bản ngã, ý thức
mới được xây dựng trên chân lý của trong tâm trí họ được hiểu một cách
tình yêu và cảm xúc... Bản thân triết đơn giản hoặc trong Chúa, nó cao
- 18 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC…
nhất và cuối cùng của cả nền triết học thực sự của con người là nguyên tắc
kinh viện”. chủ đạo. Ông (2015: 167) nói: “Triết lý
Học thuyết triết học về con người căn mới như sự phủ định của thần học,
cứ vào chất liệu của các khoa học phủ nhận sự thật của tôn giáo… Nhân
khác nhau để hình thành cách tiếp cận chủng học là tôn giáo của chính nó”.
phù hợp, giải thích xác đáng cái căn Quan điểm đạo đức chiếm vị trí đáng
bản nhất trong quan hệ giữa người với kể trong triết học L. Feuerbach nói
người, khác hoàn toàn với lối giải thích chung, tác phẩm Những nguyên lý
tư biện và thần bí về cái gọi là chiều triết họ ương i nói riêng, và được
sâu tâm hồn con người. Tư tưởng đề cập như phần sống động của tư
nhân văn của L. Feuerbach gắn kết tưởng nhân văn, với những nét đặc
hữu cơ với khoa học tự nhiên, thậm trưng được trau chuốt cho thích ứng
chí ông còn xem thuyết nhân bản như với xã hội thời ông. Triết lý tình yêu,
đỉnh cao của khoa học tự nhiên. Khoa hạnh phúc, tự do được Feuerbach
học triết học mới theo L. Feuerbach gắn kết với quan niệm về mục tiêu
thoát khỏi cách tiếp cận tư biện, cố tinh thần của nhân loại – tôn giáo của
gắng lý giải mối quan hệ liên tục giữa tình yêu, tương tự như “nhân đạo
tư duy với các quá trình vật chất được giáo” của Auguste Comte.
thực hiện trong cơ thể con người, với
Con người trong quan điểm của L.
tri giác cảm tính. Đối với L. Feuerbach,
Feuerbach khác với các nhà triết học
sự tồn tại là một nhận thức, cảm xúc
trước là con người “bằng xương bằng
và tình yêu. Ông chỉ ra, bản thân
thịt”, không phải con người chỉ có ý
Thiên Chúa Kitô cũng chỉ là một sự
thức mà con người tồn tại, là khách
trừu tượng từ tình yêu của con người.
thể của sự sống, khách thể của chính
2.3.2. Yêu thương và quý trọng con họ; con người với những giác quan
người của họ, bao hàm trong đó là nhận
Thế nào là triết học mới? Theo L. thức, cảm xúc và tình yêu. Chỉ trong
Feuerbach, triết học mới phải khác về cảm xúc, con người là tuyệt đối, riêng
căn bản với triết học cũ bằng việc biệt. Để lý giải về tình yêu với con
đem đến câu trả lời hoàn bị về bản người là một sự mê hoặc, riêng biệt,
chất chân chính, hiện thực và toàn một dấu hiệu để phân biệt với “loài”
diện về con người, đối lập với quan nói chung, trong tác phẩm Bản chất
điểm của tôn giáo và triết học tư biện, của Kitô giáo, L. Feuerbach (2012: 8)
là quan niệm phi nhân, siêu tự nhiên đã từng đặt câu hỏi: “Bằng cách nào
về con người. Triết học chân chính con người có thể chống lại cảm xúc,
cần phải tuyệt giao với các nguyên tắc yêu thương trong yêu thương, một lý
tư biện, với các nguyên lý của chủ trí sáng suốt?”. Ông trả lời: cảm xúc là
nghĩa duy tâm tuyệt đối. Để điều đó dấu hiệu đặc biệt của sự tồn tại ở con
được thực hiện, cần xem xét bản chất người, chỉ ở trong cảm xúc, tình yêu
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 19
mới là khách thể của sự đam mê, ngã và nhận thức về chính mình. Triết
thực tiễn. Tình yêu, nỗi đau, cảm xúc học mới không tách rời trí tuệ khỏi các
là những thuộc tính vốn chỉ tồn tại ở giác quan để tìm ra siêu năng lực mà
con người, con người trần trụi được tinh thần và lý trí là những yếu tố của
nhận thấy rõ ràng, không trừu tượng, giác quan, thuộc tính của giác quan.
bí ẩn. Cảm xúc, sự chứa đựng độ sâu Vấn đề khát vọng hạnh phúc được L.
chân thành nhất, cái gì vốn có ở con Feuerbach xem như phần tất yếu
người, tự nó đã là thần thánh. Yêu trong cuộc sống con người. Mỗi cá
con người, yêu chính mình là điểm bắt nhân đều có quyền sống hạnh phúc
đầu của quá trình vươn ra cộng đồng. và hướng tới hạnh phúc. “Khát vọng
Yêu bản thân không có nghĩa là chỉ hạnh phúc – đó là khát vọng của
yêu bản thân mình. Nói yêu bản thân những khát vọng… „Tôi muốn‟ có
chỉ đơn giản là khẳng định cái Tôi nghĩa là „tôi không muốn rơi vào bất
trước cái khác. Yêu – đó không phải
hạnh, tôi muốn hạnh phúc‟” (L.
là chủ nghĩa vị kỷ mà là khắc phục nó.
Feuerbach, 2015: 38). Ý chí và “ý chí
Con người làm chủ tình yêu, hay tình
hướng đến hạnh phúc” ở Feuerbach
yêu làm chủ con người? L. Feuerbach
đồng nghĩa với nhau. Khái niệm hạnh
từng hỏi như thế. Và ông nhấn mạnh:
phúc được hiểu khá rộng, nhưng ý
khi tình yêu kích thích con người với
nghĩa, tính chất của nó chỉ có một –
niềm vui, thậm chí đi tới cái chết vì
tính cá thể. Định nghĩa hạnh phúc như
người mình yêu, thì đó chính là sức
trạng thái mà ở đó “thực thể có thỏa
mạnh cá nhân tự tại hay đúng hơn,
mãn và thỏa mãn thực sự nhu cầu cá
sức mạnh của tình yêu. Khát vọng
nhân đặc trưng của mình, liên quan
hạnh phúc cá nhân gắn liền với khát
vọng hạnh phúc của mọi người – ý đến bản chất và cuộc sống của mình”
tưởng ấy cần trở thành mệnh lệnh của (L. Feuerbach, 2015: 49), ông nhận
cuộc sống, thành thông điệp xã hội. thấy có nhiều cách hiểu về khái niệm
Khi anh yêu người khác, anh hóa thân này vừa đa nghĩa, vừa có tính cá thể.
thành người khác bằng tình yêu của Con người có thể muốn cái mà trong
mình. Vậy yêu người khác cũng là yêu hiện thực không đem đến hạnh phúc
chính anh. Tình yêu – theo L. như hệ quả của quan niệm xuyên tạc
Feuerbach – mới là giá trị tuyệt đối, về hạnh phúc, cũng như hệ quả của
nơi bí mật cuộc sống được tiết lộ, quan niệm sai lầm về phương thức
tình yêu là sự đam mê, tồn tại, thực dẫn đến mục tiêu. “Chắc hẳn hạnh
tế. Nỗi đau của tình yêu là những cảm phúc mang tính chủ quan, như quá
xúc chân thật nhất chứ không siêu nhiều nhà đạo đức học biết và bàn
hình trừu tượng như trong triết học đến, và quả nhiên nó là như thế.
cũ. Triết học mới, theo L. Feuerbach Hạnh phúc của tôi không tách khỏi cá
bắt nguồn từ Tôi – một thực thể có thể tính của tôi” (L. Feuerbach, 2015:
thực – tồn tại và có giác quan, có bản 52).
- 20 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC…
2.3.3. Quan tâm đến đời sống con cái cá thể, giữa luật lệ và con tim,
người giữa thần và người. Tình yêu tự nó là
L. Feuerbach hoàn toàn không muốn Thượng đế, bên ngoài tình yêu không
xóa bỏ tôn giáo, bản thân triết học của có Thượng đế. Tình yêu làm cho con
ông cũng hòa vào tôn giáo. Theo L. người trở thành Thượng đế và
Feuerbach, tôn giáo mà ông đề xuất là Thượng đế trở thành con người. Tình
quan hệ yêu thương giữa người với yêu là sự thống nhất chân chính
người; mối quan hệ này, cho đến nay Thượng đế và con người, tinh thần và
vẫn đi tìm chân lý của nó ở sự phản tự nhiên. Với cách hiểu này, ông đem
ánh huyền ảo của hiện thực - ở sự ý nghĩa tôn giáo gán cho cả quan hệ
trung gian của một hay nhiều ông thần, lứa đôi và hôn nhân. Trong Bản chất
tức là những hình ảnh huyền ảo của Kitô giáo (2012: 98) ông nói cụ thể về
các thuộc tính con người – nhưng tình yêu bằng quan điểm: “… Tình yêu
ngày nay đã tìm thấy chân lý ấy, một (của người đàn ông) dành cho phụ nữ
cách trực tiếp không cần có trung gian, là cơ sở của tình yêu phổ quát. Ai
trong tình yêu thương giữa “Tôi” và không yêu phụ nữ, kẻ đó không yêu
“Anh”. Vì thế mà theo L. Feuerbach con người” Như thế là, do chỗ tình
tình yêu cuối cùng là tình yêu nam nữ yêu được tuyên bố như là bản chất
là một trong những hình thức cao nhất chân chính của tôn giáo, chủ nghĩa vô
của việc thực hành tôn giáo mới của thần của Feuerbach hiện ra ở đây với
ông. Xem xét Kitô giáo dựa trên tính cách là tôn giáo chân chính, tôn
những chất liệu thực tiễn và sự trải giáo không hượng đế.
nghiệm cá nhân, thông qua biểu hiện Đồng thời, ông cũng nhận định, triết
cụ thể của tôn giáo tại Đức và Tây Âu học mới không hòa tan vào nhân
trong thời kỳ đầy mâu thuẫn một cách chủng học, vào lý trí, hay tình cảm mà
phê phán, L. Feuerbach mong muốn nó là sự thật về cuộc sống của con
thay Kitô giáo bằng tôn giáo không có người. Tức là những cái đang diễn ra
Thượng đế, tôn giáo tình yêu vĩnh cửu. trong đời sống con người, không trừu
Tình yêu là quy luật phổ quát của lý tượng, thần bí mà trần trụi như bản
tính và tự nhiên. Ông thừa nhận: “Triết chất của họ. Ở một chỗ khác, ông
học mới mang đến không gian của tôn nhận mạnh: “Nghệ thuật, tôn giáo, triết
giáo; nó mang bản chất của tôn giáo; học và khoa học chỉ là sự biểu hiện sự
trong thực tế, nó là tôn giáo” (L. tồn tại thật của con người. Con người
Feuerbach, 2015: 77). Vì thế, nó cần là thật và con người hoàn hảo chỉ khi
phải là quy luật cao nhất và trước nhất anh ta sở hữu óc thẩm mỹ hoặc nghệ
của con người. Tình yêu là mối liên hệ, thuật, tôn giáo hoặc phẩm hạnh, triết
là bản nguyên kết nối giữa cái hoàn học hoặc khoa học giác quan… là
thiện và không hoàn thiện, giữa cái tội lòng nhân đạo” (L. Feuerbach, 2015:
lỗi và cái vô tội, giữa cái phổ biến và 76). Nền tảng của triết học mới, theo L.
- TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 21
Feuerbach, cũng là bản chất triết học Trên cơ sở kế thừa triết học của
của con người, nó phù hợp với thực Hegel, L. Feuerbach cũng thừa nhận
tế khách quan. những đóng góp của Hegel cho triết
3. TẠM KẾT học hiện đại, đồng thời, ông cũng chỉ
ra rằng, Hegel “biến hoạt động chủ thể
Mặc dù, thuyết hữu thần và Thiên
này thành chính hoạt động của thần
Chúa giáo có những quan điểm khác
thánh”. Hegel cho rằng, toàn bộ giới
nhau về Chúa, nhưng quan điểm
tự nhiên, thế giới vật chất chỉ là tồn tại
chung họ vẫn thừa nhận sự tồn tại
khác của ý niệm, biến thể của tinh
của Thượng đế - đối tượng có lý trí
thần mà không có sự hiện diện của ý
vượt lên trên con người và tồn tại bên
thức, và chỉ là sự chuẩn bị cho quá
ngoài sự tồn tại của con người. Không
trình chuyển hóa của tự nhiên. Phê
thừa nhận quan điểm đó của thuyết
phán Hegel, L. Feuerbach chỉ ra rằng
hữu thần cũng như Thiên Chúa giáo,
chính Hegel đã khôi phục và làm trung
L. Feuerbach phân biệt tôn giáo và
gian cho thần học thông qua sự phủ
thần học. Thần học, thuyết hữu thần,
định của chủ nghĩa duy lý.
triết học duy tâm, đều là sự tư biện đối
với tôn giáo, chúng chịu sự phê phán Khẳng định triết học mới là triết học
một cách ngẫu nhiên. Thượng đế là của con người, nền tảng của triết học
sự mặc khải bản chất bên trong của phải bắt đầu từ con người và vì con
con người, sự thể hiện cái Tôi của con người (nhân học), L. Feuerbach nhận
người. Bản chất của Thượng đế định, triết học mới là những nguyên lý
không có gì khác hơn là bản chất con nhận thức, là chủ thể, không phải bản
người, khát vọng được thoát khỏi ngã, con người cá nhân mới là chủ
những giới hạn cá thể. Do đó, L. thể của lý trí, là những con người có
Feuerbach (2015: 35) nhấn mạnh: tư duy. L. Feuerbach mong muốn xây
“Chúa là khách thể giống như bất cứ dựng là một xã hội có sự độc lập, tự
khách thể nào có giác quan; nhưng, do dành cho con người không bị
tại thời điểm giống nhau, ngài cũng là “giam cầm” bởi nhà thờ Kitô giáo hay
chủ thể của chính nó, và, thay vào đó Thượng đế của chủ nghĩa duy tâm.
giống như chủ thể của con người. Mặc dù có những tư tưởng cải cách
Chúa sáng tạo ra mọi sự vật rằng là triết học mang tính nhân văn, hướng
một phần từ chính ngài, ngài quay trở đến giải phóng con người nhưng do
lại chính mình trong chính mối quan những hạn chế của điều kiện lịch sử
hệ của mình và có liên quan đến cũng như trong tư duy nên L.
những sự vật khác tồn tại một phần từ Feuerbach chỉ xem con người một
chính ngài; ngài có cả tình yêu và sự cách trừu tượng, phi lịch sử, con
thưởng ngoạn xảy ra cùng lúc và với người tự nhiên, sinh học mà chưa gắn
những cái khác” (L. Feuerbach, 2015: với những điều kiện hiện thực của xã
13). hội loài người, những quan hệ phức
- 22 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC…
tạp trong điều kiện đối kháng giai cấp các mối quan hệ giữa mình và người
nên L. Feuerbach vẫn chưa vượt qua khác, trong khi đó, loài vật không làm
được. Trong khi đó, C. Mác - bằng được việc này. Theo phân tích của C.
những nghiên cứu thực tiễn – đã chỉ Mác, con người một mặt có quan hệ
ra rằng, con người khác rất nhiều với với đời sống tự nhiên, một mặt họ “tự
con vật, ngoài những bản năng tự tạo ra chính họ”, đó là quan hệ xã hội
nhiên, con người có ý thức, con người – trong đó có tình yêu gia đình – điều
còn có cả hành động mà con vật mà trước đó, L. Feuerbach chưa nhìn
không thể nào có là sản xuất vật chất: thấy được hoặc chưa được nhắc tới.
“Bản thân con người bắt đầu tự phân Để nghiên cứu con người, C. Mác nói:
biệt với súc vật ngay khi con người người ta không chỉ nghiên cứu mặt tự
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh nhiên hay chỉ mặt xã hội mà là sự kết
hoạt của mình” (C. Mác và Ph. hợp cả hai. Điều này thì người Đức
Ăngghen, 2004: 66). nói chung, L. Feuerbach nói riêng vẫn
chưa làm được, vì “người Đức không
Minh chứng cho nhận định của mình,
những thiếu năng lực hiểu biết và
C. Mác đã phân tích các hình thức sở
thiếu tài liệu mà thiếu cả „sự xác thực
hữu của loài người, nhờ có tái sản
của cảm giác‟” (C. Mác và Ph.
xuất mà con người trải qua nhiều loại
Ăngghen, 2004: 82), họ chỉ làm cách
hình sở hữu khác nhau trong lịch sử;
mạng bằng lý luận, chưa thâm nhập
từ “sở hữu bộ lạc” đến “sở hữu công
vào đời sống thực tiễn. L. Feuerbach
xã và sở hữu nhà nước thời cổ” để
muốn cải cách xã hội, nhưng ông chỉ
đến “hình thức sở hữu thứ ba là sở
nghiên cứu mặt tự nhiên của con
hữu phong kiến” (C. Mác và Ph.
người, làm mọi biện pháp để con
Ăngghen, 2004: 68, 69, 71). Trong
người được tự do về mặt tinh thần
quá trình chuyển từ hình thái sở hữu
như ông nói triết lý mới mang màu sắc
này sang hình thái sở hữu tiến bộ hơn,
“tôn giáo của tình yêu”.
con người có ý thức về chính họ và về
xã hội họ đang sống, họ ý thức được
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Đinh Ngọc Thạch, Doãn Chính (đồng chủ biên). 2018. Lịch sử triết họ phương -
Tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
2. L. Feuerbach. 2012. The Essence of Christianity. General Book LLC. Memphis.
Printed in the USA.
3. L. Feuerbach. 2015. Principles of the Philosophy of the Future. New York: Prism Key
Press. US.
4. C. á v h. nggh n o n ập. 2002. tập 3. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự
thật.
5. C. Mác và Ph.Ăngghen. 2004. Hệ ư ưởng Đức (tái bản). Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc
gia.
nguon tai.lieu . vn