- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia: Vai trò của Đại học Stanford trong sự thành công của Thung lũng Silicon và những yếu tố ảnh hưởng
Xem mẫu
- 110 Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống ĐMST quốc gia:...
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP
TRONG HỆ THỐNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA:
VAI TRÒ CỦA ĐẠI HỌC STANFORD TRONG SỰ THÀNH CÔNG
CỦA THUNG LŨNG SILICON VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
Trần Ngọc Ca1, Chu Thị Thu Hà
Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ
Tóm tắt
Nhiều quốc gia mong muốn xây dựng những khu đổi mới sáng tạo (ĐMST) và phát triển
các doanh nghiệp công nghệ tương tự như Thung lũng Silicon của Hoa Kỳ, như một thành
tố của hệ thống ĐMST quốc gia, nhưng thực tế đã cho thấy rất khó khả thi. Nhiều nghiên
cứu đã chỉ ra rằng, thành tố trung tâm trong thành công của Thung lũng Silicon là Đại
học Stanford. Bài viết này tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới Đại học Stanford
trong việc thúc đẩy ĐMST, phát triển tinh thần doanh nghiệp và sự đóng góp cho sự thành
công của Thung lũng Silicon. Đây sẽ là bài học gợi suy cho các quốc gia trong đó có Việt
Nam trong việc xây dựng các thành tố của hệ thống ĐMST quốc gia và vùng.
Từ khóa: Hệ sinh thái khởi nghiệp; Đại học Stanford; Thung lũng Silicon; Hệ thống đổi
mới sáng tạo quốc gia.
Mã số: 20071301
1. Mở đầu
Khi nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển của Thung lũng Silicon (Hoa
Kỳ), trung tâm ĐMST lớn nhất và năng động nhất thế giới, một điều
thường được đề cập đến là vai trò của Đại học Stanford. Điều này không có
gì đáng ngạc nhiên khi một nghiên cứu gần đây của Stanford ước tính rằng,
các doanh nghiệp khởi nghiệp của đại học này hàng năm đã mang về doanh
thu 2,7 nghìn tỷ USD và tạo ra 5,4 triệu việc làm (Easley & Miller, 2012).
Nghiên cứu này đã cho thấy, nếu các doanh nghiệp khởi nghiệp của
Stanford được coi là một quốc gia, thì quốc gia đó sẽ được xếp hạng là nền
kinh tế lớn thứ 10 thế giới. Trong một bài phát biểu về việc “Làm thế nào
để trở thành Thung lũng Silicon”, Paul Graham, người đồng sáng lập của Y
Combinator2, đã nói rằng: “Sẽ không có những trung tâm công nghệ khi
thiếu đi những trường đại học hàng đầu… Nếu muốn tạo ra một Thung lũng
Silicon, không những cần có trường đại học, mà còn phải là trường đại học
hàng đầu trên thế giới” (Graham, 2006). Tiếp đó, ông đã nêu đích danh Đại
học Stanford trong bài phát biểu của mình.
1
Liên hệ tác giả: tranngocca@gmail.com
2
Tổ chức về hỗ trợ khởi nghiệp
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 111
Do sự thành công của cả cựu sinh viên và những sinh viên bỏ học dở
chừng, Stanford đã nhận được rất nhiều quan tâm từ báo chí, trong đó có
nhiều lần xuất hiện trên trang chủ đạo của The New Yorker, CNN và The
Huffington Post3. Một vài bài trong số này đều nhất trí thừa nhận rằng, Đại
học Stanford không giống bất kỳ trường đại học nào trên thế giới vì đã tạo
dựng được văn hóa khởi nghiệp rất đặc biệt. Bài viết này chủ yếu phân tích
những yếu tố đã giúp Stanford trở thành một trung tâm khởi nghiệp và đóng
góp cho sự thành công của Thung lũng Silicon4.
2. Nhiệm vụ tái tạo Thung lũng Silicon
Thung lũng Silicon được coi là ngôi nhà của một số tập đoàn công nghệ lớn
nhất thế giới và hàng ngàn doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây là nơi có sự tập
trung cao nhất về nhân lực công nghệ cao và được coi là hệ sinh thái khởi
nghiệp hàng đầu tại Hoa Kỳ.
Nhiều quốc gia và trường đại học đang tìm cách mô phỏng lại và cạnh tranh
với Thung lũng Silicon. Tại thành phố New York, Đại học Cornell và Viện
Kỹ thuật Công nghệ của Israel đã hợp tác để tạo ra một Thung lũng Silicon
East (Perez-Pena, 2013). Chính phủ Chile đã thành lập Chương trình Khởi
nghiệp “để thu hút các doanh nghiệp bước đầu khởi nghiệp bắt đầu việc
kinh doanh tại Chile” (Chilean Economic Development Organization, 2012).
Trong khi đó, Canada đang xúc tiến cấp thị thực khởi nghiệp với hy vọng
rằng một số sáng kiến công nghệ hàng đầu của Thung lũng Silicon và từ
khắp nơi trên thế giới sẽ cân nhắc việc đầu tư ở biên giới phía Bắc Hoa Kỳ.
Với tất cả những nỗ lực này để mô phỏng lại Thung lũng Silicon, điều quan
trọng là không được coi nhẹ mối quan hệ tương tác của Đại học Stanford và
Thung lũng Silicon. Nhận thức được điều này, nhiều quốc gia như Đức,
Chile, Canada và các nước châu Á khác, trong đó có Việt Nam, đã cử các
quan chức chính phủ và chuyên gia đến Stanford để học cách tạo dựng môi
trường khởi nghiệp và thúc đẩy ĐMST.
Bất kỳ cố gắng nào để tìm cách mô phỏng mối quan hệ hợp tác giữa Đại
học Stanford và các thành tố khác tại Thung lũng Silicon đều đòi hỏi sự
xuất sắc trong nhiều lĩnh vực. Chỉ tập trung vào một khía cạnh, chẳng hạn
như cấp thị thực khởi nghiệp hoặc tập hợp các doanh nghiệp khởi nghiệp
trong lĩnh vực công nghệ vào một khu vực, là không đủ để tái tạo mô hình
Thung lũng Silicon.
Có nhiều lý do khiến Stanford trở thành nơi ươm tạo cho rất nhiều doanh
nghiệp thành công (Cisco, Yahoo!, Google, Coursera, Snapchat và nhiều
3
Các phương tiện truyền thông nổi tiếng của Hoa Kỳ
4
Tham khảo tư liệu của (Fu & Hsia, 2014). Kaufman Foundation Report.
- 112 Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống ĐMST quốc gia:...
doanh nghiệp khác). Để hoàn thành mối quan hệ tương tác giữa Thung lũng
Silicon và Đại học Stanford cần có nhiều những mảnh ghép khác nhau được
kết hợp lại.
3. Các yếu tố quyết định hệ sinh thái phát triển doanh nghiệp của Đại
học Stanford
Dựa trên các quan điểm cùng với phân tích lịch sử về nguồn gốc của hệ
sinh thái phát triển doanh nghiệp của Đại học Stanford, có sáu điều kiện đã
giúp tạo ra tinh thần phát triển doanh nghiệp và ĐMST của Đại học
Stanford và Thung lũng Silicon (Hình 1). Những điều kiện đó bao gồm: văn
hóa chấp nhận rủi ro của Stanford, hội sinh viên trường, văn hóa phục vụ,
nguồn vốn dồi dào, hợp tác chặt chẽ với ngành công nghiệp và hỗ trợ của
Chính phủ. Dưới đây, bài viết sẽ xem xét từng yếu tố cụ thể.
Văn hóa chấp nhận
rủi ro
Sinh viên tài năng, khác
Hỗ trợ của Chính phủ biệt và giàu trí tưởng tượng
Tinh thần khởi nghiệp của Đại học Stanford
và Thung lũng Silicon
Hợp tác với khu vực Một cộng đồng
công nghiệp phục vụ
Nguồn vốn
dồi dào
Nguồn: Ernestine Fu và Tim Hsia, 2014
Hình 1. Sáu điều kiện thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và thành công
của Đại học Stanford và Thung lũng Silicon
3.1. Văn hóa chấp nhận rủi ro
William Miller, nguyên Hiệu trưởng Đại học Stanford và nguyên giáo sư
khoa học máy tính5, đã cho biết “Stanford nổi bật chính vì trường dạy cho
sinh viên của mình rằng không có gì là thất bại,” và rằng “[sinh viên] sẵn
sàng thử nghiệm, và điều đó tạo ra thái độ cởi mở này” (Wolfe, 2012). Bài
diễn văn của Steve Jobs ở lễ tốt nghiệp năm 2005 tại Đại học Stanford đã
khuyên các sinh viên tốt nghiệp “Cứ khát khao. Cứ dại khờ” (Stanford
University, 2008). Lời khuyên của Steve Jobs dành cho sinh viên đã củng
5
Người sau này đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Công nghệ châu Á của Đại học Stanford, để hợp
tác với các nước châu Á, trong đó có Việt Nam.
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 113
cố những gì mà các giảng viên và cựu sinh viên của Trường đã nói với các
sinh viên - Đừng để “âm thanh của những quan điểm khác lấn át đi tiếng
nói bên trong bạn. Và quan trọng nhất, hãy giữ lấy sự can đảm để đi theo
trái tim và trực giác của mình”.
Sinh viên từ lâu đã là tác nhân của sự thay đổi xã hội (phong trào dân quyền
và quyền phụ nữ), các xu hướng văn hóa (nhiều dòng nhạc mới) và thay đổi
chính trị (phản đối chiến tranh ở Việt Nam) - và giờ điều này có thể được
diễn ra trong cả hai lĩnh vực kinh tế và công nghệ. Sinh viên ở các trường
đại học trên khắp Hoa Kỳ đã thay đổi thế giới kinh doanh và công nghệ
thông qua các công ty như Yahoo!, Google, Facebook và Box. Những sinh
viên này đủ tài năng để thành lập các công ty, cùng với sự nỗ lực và thời
gian thực tiễn cần thiết để thành công. Hội sinh viên tại Stanford từ lâu đã
theo đuổi văn hóa và tham vọng này để thay đổi thế giới thông qua công
nghệ và sản phẩm mới.
3.2. Sinh viên tài năng, khác biệt và giàu trí tưởng tượng
Hiệu trưởng John Hennessy đã nhấn mạnh, Đại học Stanford hướng tới đào
tạo những sinh viên có kiến thức sâu và rộng, là những chuyên gia trong một
lĩnh vực, nhưng đồng thời cũng được đào tạo trải rộng ở nhiều lĩnh vực
khác. Sinh viên có kiến thức sâu và rộng không chỉ có khả năng suy nghĩ
trực quan mà còn là những cá nhân có thể nhận ra rằng làm việc theo nhóm
là cần thiết để xây dựng các sản phẩm tuyệt vời, và do đó không chỉ tập
trung vào các kỹ năng cá nhân mà còn phát triển các kỹ năng làm việc nhóm
một cách mạnh mẽ. Đội ngũ giáo sư của Stanford cũng nhận thức sự cần
thiết của sinh viên có kiến thức sâu, rộng và luôn khuyến khích sinh viên của
mình phát triển theo hướng đó. Sự hợp tác bắt đầu trong môi trường đại học
đã tạo thành nền tảng của sự hợp tác lâu dài ở Thung lũng Silicon.
Loại hình giáo dục này giúp củng cố các quan niệm cộng đồng. Bản chất
của khởi nghiệp, yêu cầu sinh viên và các nhà khởi nghiệp phải tiếp cận
cộng đồng rộng lớn hơn để xây dựng được lĩnh vực chuyên môn mà mọi
doanh nghiệp cần đến: kỹ sư, nhà thiết kế và sinh viên có đầu óc kinh
doanh. Ngoài ra, các lớp khởi nghiệp tại Stanford đã thúc đẩy các nhóm với
nhiều nền tảng khác nhau. Một ví dụ là D. School (Viện Thiết kế Hasso
Plattner) của Stanford đã hoàn toàn đi theo triết lý phải hợp tác. Đồng thời,
sự gần gũi về vị trí địa lý giữa các trường trong khu vực khuôn viên Đại học
Stanford tạo điều kiện cho các nghiên cứu và hợp tác liên ngành.
3.3. Một cộng đồng sẵn sàng đóng góp
Sự hào phóng của các doanh nhân đã thành công và các nhà đầu tư mạo
hiểm, những người đã mang lại thời gian, tiền bạc và công sức tư vấn là
- 114 Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống ĐMST quốc gia:...
một khía cạnh chưa được đánh giá cao khi nhắc đến thành công của các
sinh viên Stanford trong phát triển các doanh nghiệp riêng của mình. Tuy
nhiên, thực tế đã cho thấy vai trò quan trọng của cộng đồng này đối với hệ
sinh thái phát triển khởi nghiệp tại Stanford. Ví dụ, trong khóa học “Tinh
thần khởi nghiệp thông qua lăng kính của Đầu tư mạo hiểm”, các diễn giả
được mời đã rất vui mừng chia sẻ kinh nghiệm, các cựu sinh viên sẵn sàng
đưa ra lời khuyên cho các doanh nghiệp khởi nghiệp đầy tham vọng. Các
diễn giả được mời thường dành thời gian sau giờ học để trao đổi với từng
sinh viên về ý tưởng khởi nghiệp, kế hoạch kinh doanh, hoặc thảo luận về
những thay đổi gần đây trong lĩnh vực công nghệ cao. Ví dụ, Steve
Loughlin, người đồng sáng lập RelateIQ, cho biết ông dành nhiều thời gian
trao đổi với các sinh viên và cựu sinh viên Stanford vì chính các bạn cùng
lớp và cựu sinh viên đã giúp ông suy nghĩ thông suốt về các khía cạnh khác
nhau trong việc xây dựng và phát triển một doanh nghiệp.
Các cựu sinh viên mang lại cho Đại học Stanford không chỉ thời gian và sự
tư vấn của họ (thông qua các chương trình như Cố vấn Cựu sinh viên
Stanford), mà còn bằng các khoản quyên góp tiền. Năm 2012, Stanford là
trường đại học đầu tiên nhận được hơn 1 tỷ USD tiền quyên góp cho Quỹ
của họ. Việc gây quỹ trong năm 2012 là đỉnh cao của chiến dịch gọi vốn
trong 5 năm của Trường, Quỹ đã tăng lên 6,23 tỷ USD vượt xa mục tiêu
ban đầu là 4,3 tỷ USD (Lewin, 2013).
Peter Thiel6 là một ví dụ tuyệt vời về một doanh nghiệp khởi nghiệp và nhà
đầu tư, là người tiếp tục mang lại lợi ích cho cộng đồng khởi nghiệp
Stanford. Thiel đã thuê và hướng dẫn cho Joe Lonsdale, khi đó là sinh viên
Stanford, làm thực tập sinh cho PayPal. Peter và Joe sau đó tiếp tục đồng
sáng lập Palantir Technologies, một công ty đang thuê nhiều kỹ sư sáng giá
nhất của Stanford. Công ty Palantir và LinkedIn đã thuê rất nhiều thực tập
sinh Stanford làm việc. LinkedIn được đồng sáng lập bởi Reid Hoffman,
người học cùng lớp triết học với Thiel và họ tiếp tục là bạn thân. Thiel vẫn
làm việc tại Stanford, tham gia giảng dạy tại trường luật và lớp học khởi
nghiệp của Khoa Khoa học máy tính. Lonsdale cũng rất tích cực tham gia
trong cộng đồng khởi nghiệp Stanford. Lonsdale thuê nhiều sinh viên tốt
nghiệp Stanford làm việc tại Addepar (một doanh nghiệp khởi nghiệp khác
mà Lonsdale đồng sáng lập), và cũng là một thành viên tích cực của tổ chức
Stanford Angels and Entrepreneurs (Các nhà đầu tư thiên thần và doanh
nhân khởi nghiệp Stanford). Doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm của Lonsdale
cũng là một nhà đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp RelateIQ của Steve
Loughlin và đã nhờ Loughlin tư vấn cho Palantir trong suốt quá trình thành
6
Tỷ phú công nghệ, người sáng lập ra các công ty công nghệ như Paypal, Palantir Technologies, nhà đầu tư vào
Facebook, v.v.
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 115
lập. Câu chuyện về Thiel, Lonsdale và Loughlin là những ví dụ về văn hóa
chấp nhận rủi ro của Stanford và sự phối hợp chéo diễn ra giữa Stanford và
Thung lũng Silicon mở rộng. Họ cũng là minh chứng cho yếu tố tiếp theo,
đó là việc tài trợ cho những sinh viên có tư duy khởi nghiệp.
3.4. Nguồn vốn dồi dào
Tài trợ là một thành phần quan trọng để giúp các ý tưởng của sinh viên trở
thành hiện thực. Stanford may mắn có được rất nhiều nhà đầu tư mạo hiểm
hoạt động gần địa bàn của trường trên đường Sand Hill và Đại lộ Đại học
(University Avenue). Ngoài ra, nguồn gốc việc đầu tư mạo hiểm cũng bắt
nguồn từ Stanford. Kleiner Perkins Caufield Byers (KPCB), một trong
những quỹ đầu tiên ở Thung lũng Silicon, được thành lập bởi các giảng
viên của Stanford. Quỹ Mayfield ra đời vào năm 1968, cũng được thành lập
bởi các giảng viên của Stanford. Quỹ Mayfield cũng là một nhà tài trợ hào
phóng cho chương trình cùng tên Mayfield Fellows, một chương trình làm
việc/học tập kéo dài 09 tháng nhằm thu hút tài năng của các sinh viên hàng
đầu và các sinh viên năm cuối của trường. Những người sáng lập Instagram
(Kevin Systrom và Mike Krieger) là những cựu sinh viên của Chương trình
Mayfield Fellows.
Sinh viên Stanford tìm nguồn quỹ tài trợ khởi nghiệp để trình bày ý tưởng
hoặc kế hoạch ban đầu của họ cho các nhà đầu tư. Có rất nhiều cơ hội để
gặp gỡ và kết nối với các nhà đầu tư tiềm năng, từ các cuộc thi khởi nghiệp
(BASES 150K/E-Challenge), các lớp học (Launchpad và Creating a
Startup), đến việc gặp gỡ các giảng viên bên ngoài lớp để thảo luận về
những ý tưởng khởi nghiệp tiềm năng. Sinh viên cũng có thể phát triển việc
khởi nghiệp của mình trong một số mô hình tăng tốc khởi nghiệp và vườn
ươm khởi nghiệp ở gần khu vực Trường, như là StartX do Stanford thành
lập hoặc tại Chương trình học bổng mùa hè Y Combinator hoặc Lightspeed
Ventures. Bảng 1 cho thấy một số giảng viên của Stanford có mối quan hệ
chặt chẽ với các tổ chức đầu tư mạo hiểm.
Bảng 1: Danh sách (một phần) các giảng viên Stanford có mối quan hệ chặt
chẽ với các tổ chức đầu tư mạo hiểm
Tên giảng viên Khoa Quan hệ với doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm
Tom Byers MS&E Trước từng làm ở Flywheel Ventures
Steve Blank MS&E Nhà đầu tư thiên thần
Michael Dearing D.school Harrison Metal
Jon Feiber MS&E Mohr Davidow Ventures
John Glynn GSB Glynn Capital Management
Theresia Gouw GSB Accel Partners
- 116 Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống ĐMST quốc gia:...
Tên giảng viên Khoa Quan hệ với doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm
David Hornik SLS August Capital
Clint Korver MS&E Ulu Ventures
John Lilly D.school Greylock Partners
Trevor Loy MS&E Flywheel Partners
Michael G. Lyons MS&E Trước từng làm ở Paladin Capital Group
Audrey MacLean MS&E Nhà đầu tư thiên thần
Ann Miura-Ko MS&E Floodgate Fund
Joel Peterson GSB Cố vấn cấp cao tại Maveron
Andy Rachleff GSB Trước từng làm ở Benchmark
Heidi Roizen MS&E DFJ
Eric Schmidt GSB Innovation Endeavors
Robert Siegel GSB XSeed Capital
Russel Siegelman GSB Trước từng làm ở KPCB
Peter Wendell GSB Sierra Ventures
Nguồn: Ernestine Fu và Tim Hsia, 2014
Các cựu sinh viên của Đại học Stanford có thể là một nguồn tài trợ khác.
Theo danh sách Midas Forbes 2013, có 13 nhà đầu tư mạo hiểm đã từng là
sinh viên Đại học Stanford và 31 người đã nhận bằng tốt nghiệp tại
Stanford. Tổ chức Stanford Angels & Entrepreneurs bao gồm các cựu sinh
viên là các nhà đầu tư thiên thần. Chủ tịch Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ đầu tư
trực tiếp vào các công ty ở giai đoạn sơ khai đã được cấp bằng công nghệ
của Stanford.
Đại học Stanford, Bệnh viện và Trạm y tế Stanford và StartX đã công bố
mối quan hệ đối tác ba năm vào năm 2013 để tài trợ cho các công ty mới
nổi lên từ mô hình tăng tốc khởi nghiệp StartX. Thông qua quan hệ đối tác
này, Stanford đã cam kết tài trợ cho một số công ty theo mô hình tăng tốc
khởi nghiệp StartX, như Knotch và Cytobank.
Tất cả các yếu tố trên giúp giải thích lý do tại sao Stanford là “trường đại
học hàng đầu xét về phương diện cựu sinh viên của trường nhận được vốn
đầu tư mạo hiểm”. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, từ năm 2007 đến
2011, các công ty khởi nghiệp ở Stanford đã huy động được 4,1 tỷ USD
thông qua 203 khoản hỗ trợ vốn.
3.5. Hợp tác với ngành công nghiệp
Một số nhận định đã cho rằng, Stanford có lẽ quá nhiệt huyết với ngành công
nghiệp. Tuy nhiên, một phân tích sâu hơn về nguồn gốc lịch sử khởi nghiệp
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 117
của Stanford cho thấy, ông Frederick Terman là Trưởng Khoa Kỹ thuật của
Đại học Stanford từ năm 1945-1953 và Hiệu trưởng của Đại học này từ
1955-1965, đã chủ ý xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa Đại học Stanford
với khu vực công nghiệp, đảm bảo các sinh viên không chỉ thực hiện nghiên
cứu thuần túy mà còn giải quyết các thách thức trong thế giới thực.
Được coi như “Cha đẻ của Thung lũng Silicon” - Terman đã góp phần quan
trọng xây dựng thành công Thung lũng Silicon từ một khu vườn cây ăn trái
thành khu công nghệ cao như ngày nay (Tajnal, 1985). Terman đã thuyết
phục William Hewlett và David Packard (hai đồng sáng lập Công ty HP)
khởi nghiệp từ một nhà để xe ô tô ở Palo Alto, và đồng thời thiết lập các
liên kết quan trọng với ngành công nghiệp thông qua các chương trình cho
phép các kỹ sư tại những công ty gần đó tham gia các lớp học tương tự mà
sinh viên trong Trường đang học. Terman là một người có tầm nhìn, muốn
biến Stanford và Thung lũng Silicon thành một địa điểm sáng tạo và có tinh
thần khởi nghiệp có thể cạnh tranh với các đại học ở Bờ Đông Hoa Kỳ.
Terman không chỉ thuyết phục các sinh viên giỏi nhất của mình xây dựng
doanh nghiệp tại địa phương mà còn thành lập Khu Nghiên cứu Stanford
(Stanford Research Park), nơi cung cấp hạ tầng cho các công ty như
Hewlett-Packard (HP), General Electric (GE), Lockheed và Facebook.
Ngoài ra, Terman còn thúc đẩy Chương trình Liên kết Công nghiệp, qua đó,
các doanh nghiệp nhận được quyền truy cập vào kết quả nghiên cứu của
Trường và có thể tham gia vào các hội nghị, hội thảo để đổi lấy đóng góp
tài chính hàng năm cho phòng thí nghiệm nghiên cứu hoặc các hoạt động
tài trợ (Lenoir, 2004).
Stanford tiếp tục đi theo con đường của Terman, đến nay, các hoạt động
liên kết với trên 60 chương trình lan tỏa khắp Trường đã đưa ra lộ trình cho
khu vực công nghiệp tiếp cận với các nghiên cứu, làm quen với đội ngũ
giảng viên và có nhiều cơ hội tuyển dụng các sinh viên tài năng của
Stanford.
Ngành công nghiệp cũng hỗ trợ cho đào tạo và chuẩn bị sinh viên cho lực
lượng lao động thông qua các chương trình, như Chương trình Học giả Đổi
mới của Accel (Accel Innovation Scholar, AIS), được tài trợ bởi Đối tác
Accel. Mục tiêu của AIS là chuẩn bị cho 12 sinh viên có hàm Tiến sĩ công
nghệ của Stanford trở thành những nhà lãnh đạo có tinh thần khởi nghiệp
bằng cách đào tạo họ thông qua việc cung cấp các diễn giả, tổ chức dự án,
các chuyến đi thực địa và hội thảo. Sinh viên tham gia sẽ có các cố vấn
trong ngành liên quan đến lĩnh vực học tập của họ.
Văn phòng cấp li-xăng Công nghệ của Stanford (Office of Technology
Licensing, OTL), được thành lập năm 1969, đã hỗ trợ thêm cho việc thương
mại hóa nghiên cứu của giảng viên và sinh viên để lập ra các công ty có lợi
- 118 Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống ĐMST quốc gia:...
nhuận. Mục tiêu của OTL là tạo ra nhiều hạt giống bằng cách chuyển giao
công nghệ cho càng nhiều công ty càng tốt, với hy vọng rằng một số công
nghệ này sẽ phát triển mạnh. Kể từ khi thành lập, hơn 200 công ty (bao
gồm Google) đã phát triển dựa trên công nghệ được cấp phép thông qua
OTL của Stanford. Ngày nay, đã có hơn 18.000 công bố sáng chế, hơn
10.000 đơn xin cấp bằng sáng chế được nộp và hơn 5.000 giấy phép được
cấp (xem Hình 2).
Văn phòng cấp li-xăng Công nghệ của Stanford cố gắng trở thành đối tác
cho sinh viên và giáo sư, thay vì đe dọa đến sự khởi nghiệp của họ. Ví dụ,
OTL tổ chức Trại đổi mới sáng tạo (Innovation Farm) bán thường niên, ở
đó, sinh viên, các đơn vị liên kết, cựu sinh viên, và nhà sáng chế của
Stanford gặp nhau để thảo luận về việc sử dụng tiềm năng các công nghệ
của Đại học Stanford khi được áp dụng trong nhiều ngành công nghiệp.
Những lợi ích của việc tham gia Chương trình này bao gồm từ tiềm năng
của việc thành lập một công ty mới đến tích cực học hỏi việc thương mại
hóa, khởi nghiệp và phát triển công nghệ bên ngoài lớp học.
Nguồn: Ernestine Fu và Tim Hsia, 2014
Hình 2. Lịch sử Stanford - Chu kỳ công nghệ - Công ty IPO
(giai đoạn từ năm 1939 đến năm 2012)
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 119
3.6. Hỗ trợ của Chính phủ
Một khía cạnh thường ít được xem xét trong việc nghiên cứu và ĐMST của
Đại học Stanford là sự hỗ trợ rất lớn của Chính phủ trong việc tài trợ cho
các nghiên cứu tiên tiến (xem Hình 3). Stanford cơ bản là một trường đại
học nghiên cứu, ngân sách cho nghiên cứu của trường chủ yếu là nhận từ
Chính phủ Liên bang, đặc biệt là Viện Y tế quốc gia (NIH), (Quỹ Nghiên
cứu quốc gia (NSF), Bộ Quốc phòng và một số cơ quan liên bang khác. Khi
Fredrick Terman làm Trưởng Khoa Kỹ thuật, ông đã tìm kiếm nguồn tài trợ
của Chính phủ vì nguồn tiền này ít bị hạn chế và là nguồn tài trợ đáng kể để
xây dựng các chương trình nghiên cứu hàn lâm, trái ngược với các nhà tài
trợ trong ngành công nghiệp khi chỉ muốn tài trợ cho công việc liên quan
trực tiếp đến lợi ích riêng của họ.
Nguồn: Ernestine Fu và Tim Hsia, 2014
Hình 3. Ba nhóm tương tác ở Thung lũng Silicon
4. Kinh nghiệm một số quốc gia học tâp mô hình Đại học Stanford và
Thung lũng Silicon
Trong những cố gắng học hỏi, mô phỏng kinh nghiệm của Stanford và
Thung lũng Silicon, nhiều nước đã đưa ra các chương trình, dự án và kế
hoạch thiết lập các khu theo tinh thần tương tự. Một số kinh nghiệm của các
nền kinh tế châu Á đã cho thấy sự thành công nhất định.
Ở Đài Loan, Khu công nghệ cao Tân Trúc có lẽ là một trong số ít những
trường hợp thành công với vai trò trung tâm của Đại học Thanh Hoa (Đài
Loan). Các yếu tố quan trọng như hỗ trợ tài chính từ nguồn của Chính phủ,
sự hợp tác của Khu với các doanh nghiệp hàng đầu như TSMC, Acer; các
phong trào và hoạt động của hiệp hội cựu sinh viên Đại học Thanh Hoa là
những yếu tố tác động quan trọng. Một đặc điểm nổi bật của Đại học Thanh
- 120 Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống ĐMST quốc gia:...
Hoa là rất nhiều các chuyên gia công nghệ của Đài Loan tốt nghiệp tại các
trường đại học Hoa Kỳ, trong đó có Stanford, và khi trở về nước làm việc
đã mang theo văn hóa chấp nhận rủi ro, điều này đã giúp cho Đại học
Thanh Hoa giữ được vai trò then chốt trong ĐMST và khởi nghiệp tại Khu
công nghệ cao Tân Trúc.
Tại Trung Quốc, trường hợp của khu công nghệ cao như Khu Trung Quan
Thôn với trung tâm là Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa (Bắc Kinh)
cũng có được một số các yếu tố tương tự như nguồn vốn dồi dào của Chính
phủ, các mối tương tác giữa các sinh viên của Đại học Thanh Hoa, liên kết
với các tập đoàn công nghệ lớn như Huawei và Alibaba. Mạng lưới các cựu
sinh viên, sự kết nối với các nguồn vốn dồi dào của khu vực tư nhân, đặc
biệt là khối Hoa kiều trên toàn thế giới, là những yếu tố quan trọng cho sự
thành công của các đại học trong Khu Trung Quan Thôn. Sự bền bỉ trong
kinh doanh, khả năng chấp nhận những thất bại và vượt lên làm lại với
những cố gắng mới là đặc tính văn hóa của cộng đồng người Hoa cũng giúp
cho các Đại học Bắc Kinh và Thanh Hoa trở thành các trung tâm ĐMST
của Khu Trung Quan Thôn.
Trong trường hợp của Ấn Độ, khu vực Bangalore nổi lên như một thành
công về công nghệ mới với trung tâm là mạng lưới của Viện Công nghệ Ấn
Độ (Indian Institute of Technology). Sự đầu tư của Chính phủ, mạng lưới
kiều dân Ấn Độ mạnh mẽ ở nước ngoài và đang nắm nhiều vị trí chủ chốt
trong nhiều công ty công nghệ lớn trên thế giới là những yếu tố đóng góp
vào sự thành công của Bangalore. Các mối liên kết hợp tác chặt chẽ của
viện đại học với các doanh nghiệp lớn của Ấn Độ như Infosys, Wipro đảm
bảo tương tác thúc đẩy ĐMST cho khu vực thành phố điện tử (Electronic
City) của Bangalore.
5. Bài học gợi suy cho Việt Nam
Cuộc cách mạng công nghệ ở Thung lũng Silicon đã được Mike Maples của
Floodgate Fund so sánh với thời kỳ Phục Hưng. Tương tự như vậy, giáo sư
Tom Byers của Stanford đã cho rằng các kỹ sư và doanh nghiệp khởi
nghiệp ngày nay tương đương với các nghệ sĩ thời Phục Hưng (Ellis, 2013).
Ông nhấn mạnh rằng, những ĐMST lớn bắt đầu ở Thung lũng Silicon đã
tác động đến xã hội một cách rộng lớn theo cách mà các nghệ sĩ thời Phục
Hưng vào thời kỳ của mình cũng đã gây ảnh hưởng đối với dân chúng nói
chung. Việc Đại học Stanford và Thung lũng Silicon có xứng đáng được so
sánh với thời Phục Hưng hay không sẽ được để lại cho các nhà sử học
nghiên cứu, nhưng điều mà mọi người có thể đồng ý là mối quan hệ chặt
chẽ giữa Stanford với Thung lũng Silicon và hệ sinh thái khởi nghiệp của
Stanford thì không đâu có thể sánh bằng.
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 121
Nhiều quốc gia và trường đại học trên khắp thế giới đang tìm cách mô
phỏng xây dựng theo mô hình tương tự Thung lũng Silicon. Sẽ là khôn
ngoan khi xem xét căn nguyên các yếu tố thành công của Thung lũng
Silicon và khía cạnh không thể thiếu của Đại học Stanford trong khu vực
trước khi đưa ra một nỗ lực như vậy. Stanford là một trường đại học khác
biệt, nhưng không nên coi đó chỉ như là một khu vực trường học mà đó còn
là một cộng đồng - được xây dựng dựa trên mối quan hệ thành công giữa
trường đại học, chính phủ và ngành công nghiệp.
Như bài viết này cho thấy, việc chọn ra một khu vực địa lý đơn thuần và bố
trí một viện nghiên cứu nào đó sẽ là không đủ. Để xây dựng một cộng đồng
như Stanford, đòi hỏi phải có một số yếu tố quan trọng như năng lực lãnh
đạo; tài trợ của Chính phủ; sự tham gia của những sinh viên hàng đầu trong
lĩnh vực nghiên cứu tiên tiến; nguồn vốn tư nhân cho các doanh gia khởi
nghiệp; hợp tác giữa ngành công nghiệp và giới học thuật; sự phát triển của
sinh viên đa ngành, các sinh viên có hiểu biết sâu rộng; một cộng đồng tìm
cách giúp đỡ thế hệ doanh gia khởi nghiệp tiếp theo; và một nền văn hóa
chấp nhận rủi ro.
Có thể nói, ở các mức độ khác nhau, sáu yếu tố thành công của Đại học
Stanford trong việc trở thành trung tâm của ĐMST và khởi nghiệp tại
Thung lũng Silicon đã được mô phỏng và xuất hiện tại nhiều điểm khác
nhau trên thế giới, nhưng chưa ở nơi nào có được sự phát triển toàn diện
của tất cả sáu yếu tố này như tại Đại học Stanford ở Thung lũng Silicon.
Cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang tìm cách xây dựng các đại
học nghiên cứu là trung tâm của ĐMST và khởi nghiệp theo cách của riêng
mình, là thành tố then chốt của các khu công nghệ nói riêng và của hệ thống
ĐMST quốc gia nói chung. Đã từng có những đề xuất, dự kiến thiết lập các
khu công nghệ cao xoay quanh trung tâm là một đại học lớn như trường
hợp của Khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh sẽ gắn với sự tồn tại và
hoạt động của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Cũng đã từng có
những ý tưởng đề xuất thiết lập hành lang công nghệ Đại Cồ Việt gắn với
Đại học Bách khoa Hà Nội, hoặc Trung tâm công nghệ Cầu Giấy, Hà Nội
gắn với một số đại học trong khu vực. Khu công nghệ cao Hòa Lạc được
thiết kế gắn với một trong những thành tố trung tâm là Đại học Quốc gia Hà
Nội. Tuy nhiên cho đến nay, do những nguyên nhân khác nhau, chưa có
một đại học nào ở Việt Nam trở thành một trung tâm then chốt cho sự phát
triển của các khu công nghệ.
Trong điều kiện của Việt Nam, ngoại trừ sự hỗ trợ của Chính phủ tuy còn
khiêm tốn nhưng đang được tăng lên theo thời gian, các yếu tố khác giúp
cho một trường đại học trở nên một trung tâm của ĐMST và khởi nghiệp
còn chưa thực sự mạnh. Liên kết của các đại học Việt Nam với khu vực
- 122 Trường đại học và hệ sinh thái khởi nghiệp trong hệ thống ĐMST quốc gia:...
công nghiệp (doanh nghiệp) nói chung còn yếu, nguồn vốn tư nhân tài trợ
cho đại học không thực sự dồi dào, mạng lưới cựu sinh viên chưa đủ khả
năng để đóng vai trò các nhà đầu tư mạo hiểm và tư vấn. Đặc biệt là văn
hóa chấp nhận rủi ro chưa thực sự có môi trường phù hợp để phát triển.
Trong bối cảnh của Việt Nam, có thể rất khó để lập ra được một Thung
lũng Silicon thứ hai. Tuy vậy, hoàn toàn có thể tham khảo được những
nguyên tắc, bài học về yếu tố thành công để tái tạo tinh thần kiểu như
Thung lũng Silicon với hạt nhân là Đại học Stanford qua các hình thức khác
nhau như chương trình, dự án, các mối liên kết, liên minh cho ĐMST, khởi
nghiệp công nghệ và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Các yếu tố được
phân tích ở trên sẽ giúp cung cấp một số gợi ý về lộ trình và cách tạo ra một
hệ sinh thái phát triển doanh nghiệp đặc biệt là hình thức khởi nghiệp dựa
trên ĐMST như vậy./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Chilean Economic Development Organization (2012). Start-up Chile. par.1
2 Eesley, C & Miller, W. (2012). Impact: Stanford university’s economic impact via
innovation and entrepreneurship. October. http://engineering.stanford.edu/sites/default/
files/SNcEH1C3UXSaTcNMHNLGNuLZqjGKbSrEMZurQQS83t02412_1.pdf.
3 Ellis, G. (2013). Stanford Professor Tom Byers on humanity as the core of
entrepreneurial success. The Dish Daily. March 5.
4 Fu. E. & Hsia, T. (2014). Universities and entrepreneurial ecosystems: elements of
the Stanford-Silicon Valley success. Kaufman Fellows report. Vol.5.
5 Graham, P. (2006). How to be Silicon Valley. Essay from a keynote at XTech. May.
Para “universities”.
6 Lenoir, T. (2004). Myths about Stanford’s interactions with industry. Sepember 6.
7 Lewin, T. (2013). Report says Stanford is first university to raise $1 billion in a single
year. The New York Times. February 20.
8 Perez-Pena, R. (2013). Building a better tech school. The New York Times. April 12.
9 Stanford Univeristy (2008). Steve Jobs’ 2005 Stanford commencement address.
March 7.
10 Tajnai, C. (1985). Fred Terman, the Father of Silicon Valley. Stanford Forum. May.
11 Wolfe, A. (2012). Silicon Valley’s Stanford connection. Departures. September.
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 123
ĐỊNH HƯỚNG CỦA TRUNG QUỐC TRONG PHÁT TRIỂN
TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ĐẾN NĂM 2030
VÀ BÀI HỌC GỢI SUY CHO VIỆT NAM1
Bạch Tân Sinh2
Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo
Tóm tắt:
Chúng ta đang hướng tới thế giới thông minh và kết nối mà ở đó IoT là sự cảm nhận, dữ
liệu lớn là nguồn năng lượng mới và trí tuệ nhân tạo là bộ não để nhận diện tương lai của
một thế giới mới. Bài báo phân tích định hướng của Trung Quốc trong phát triển trí tuệ
nhân tạo đến năm 2030 nhằm khẳng định vị thế đứng đầu thế giới. Từ phân tích đó, bài
báo đề xuất một số bài học gợi suy cho Việt Nam trong định hướng phát triển AI phù hợp
với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Từ khóa: Trí tuệ nhân tạo; Phát triển trí tuệ nhân tạo; Nhân lực trí tuệ nhân tạo.
Mã số: 19080801
1. Định hướng phát triển trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc đến năm 2030
1.1. Trung Quốc khát vọng dẫn dắt thế giới về trí tuệ nhân tạo (AI)
Vào tháng 7/2017, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã ban hành “Kế hoạch
phát triển trí tuệ nhân tạo thế hệ mới” (AIDP)3 (sau đây gọi tắt là Chiến
lược AI của Trung Quốc). Văn bản này - cùng với “Made in China 2025”4
được ban hành vào tháng 5/2015 - tạo thành nền tảng cho kế hoạch mang
tính chiến lược phát triển AI của Trung Quốc. Cả hai văn bản, cũng như
vấn đề về AI đã nhận được nhiều sự chú ý từ các cấp lãnh đạo cao nhất của
Trung Quốc trong đó có Chủ tịch Tập Cận Bình.
Vào tháng 10/2018, Chủ tịch Tập Cận Bình tại cuộc họp của Bộ Chính trị
bàn về AI đã nhắc lại các kết luận chính của AIDP và “Made in China
2025”, đó là Trung Quốc cần dẫn đầu thế giới về công nghệ AI và giảm sự
lệ thuộc của các công nghệ chính và thiết bị tiên tiến vào các quốc gia bên
ngoài (Allen, G.C. 2019).
1
Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài "Xu hướng phát triển, triển vọng ứng dụng và các khuyến nghị
chính sách phát triển IoT ở Việt Nam cho giai đoạn đến năm 2025" do Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi
mới sáng tạo chủ trì.
2
Liên hệ tác giả: sinhbt@gmail.com
3
https://www.newamerica.org/cybersecurity-initiative/digichina/blog/full-translation-chinas-newgeneration-
artificial-intelligence-development-plan-2017/.
4
http://www.cittadellascienza.it/cina/wp-content/uploads/2017/02/IoT-ONE-Made-in-China-2025.pdf.
- 124 Định hướng của Trung Quốc trong phát triển trí tuệ nhân tạo…
Chiến lược AI quốc gia Trung Quốc tháng 7/2017 đặt mục tiêu đến năm
2020 ngành công nghiệp AI của Trung Quốc dẫn đầu thế giới. Trên thực tế,
Trung Quốc đã đạt được mục tiêu này vào giữa năm 2018. Tại Diễn đàn
Hòa bình Thế giới, Giáo sư Xue Lan của Đại học Tsinghua đã trình bày
tóm tắt báo cáo chính của Đại học Tsinghua về tình hình phát triển của
ngành AI ở Trung Quốc. Nghiên cứu này cho thấy, Trung Quốc đã đạt vị trí
hàng đầu thế giới trong phát triển công nghệ, ứng dụng thị trường và đang
trong cuộc đua của “hai người khổng lồ” với Hoa Kỳ. Báo cáo cũng cho
thấy, Trung Quốc đã là: (i) số 1 về số lượng bài nghiên cứu và chỉ số trích
dẫn trong lĩnh vực AI; (ii) số 1 về bằng sáng chế AI; (iii) số 1 về đầu tư vốn
mạo hiểm cho AI; (iv) số 2 về số lượng công ty AI; và (v) số 2 về số lượng
nhân tài trong AI (Allen, G.C. 2019).
Sự gia tăng về trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc đã trở thành hiện thực. Cho
dù số liệu được xem xét từ góc độ số lượng các kết quả nghiên cứu, bằng
sáng chế và mức đầu tư, Trung Quốc đã tỏ rõ khả năng cạnh tranh với - và
thậm chí có thể vượt qua - Hoa Kỳ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (Hình 1).
Trong thời gian hiện tại, Hoa Kỳ có thể giữ được lợi thế cạnh tranh, nhưng
trong dài hạn khó có thể duy trì được được lợi thế cạnh tranh.
Nguồn: Kế hoạch chiến lược về NC&TK trong lĩnh vực Trí tuệ Nhân tạo, tháng 10/2016.
Hình 1. Trung Quốc đang dẫn đầu trong nghiên cứu về AI trên thế giới.
Có thể là một sai lầm khi đánh giá thấp khả năng cạnh tranh của Trung
Quốc dựa trên giả định có vấn đề, thậm chí là nguy hiểm khi cho rằng
Trung Quốc “không thể” đổi mới, chỉ dựa vào việc làm theo và đánh cắp tài
sản trí tuệ. Đó là một nhận định đã lỗi thời và mâu thuẫn với những gì đang
diễn ra. Đúng là Trung Quốc đã theo đuổi hoạt động gián điệp công nghiệp
quy mô lớn, thông qua phương tiện trên mạng và con người, và sẽ tiếp tục
tận dụng cơ hội của chuyển giao công nghệ, đầu tư ra nước ngoài và tìm
kiếm các công nghệ chiến lược tiên tiến. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là
khả năng theo đuổi sự đổi mới độc lập của Trung Quốc đã tăng lên đáng kể.
Điều này được chứng minh một cách hợp lý bởi những tiến bộ vượt bậc của
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 125
Trung Quốc trong các công nghệ mới nổi, bao gồm trí tuệ nhân tạo, máy
tính hiệu năng cao, khoa học thông tin lượng tử và công nghệ truyền thông
di động thế hệ 5 (5G).
Thành công của Trung Quốc trong nghiên cứu và triển khai (R&D) và
thương mại hóa kết quả nghiên cứu đạt được nhờ khả năng tiếp cận thị
trường và nghiên cứu công nghệ toàn cầu. Mặc dù nhiều thành tựu AI có
thể do Trung Quốc tạo lập nhưng thực sự những thành tựu đó đến từ các
nhóm nghiên cứu và công ty đa quốc gia. Tuy vây, hợp tác quốc tế trong AI
đóng vai trò rất quan trọng đối với tiến trình nghiên cứu của Trung Quốc.
Theo Đại học Tsinghua nghiên cứu về hệ sinh thái AI của Trung Quốc, hơn
một nửa số bài báo về AI của Trung Quốc là các ấn phẩm chung quốc tế, có
nghĩa là các nhà nghiên cứu AI của Trung Quốc - tầng lớp nhân tài cao nhất
thường nhận bằng cấp ở nước ngoài - là đồng tác giả với các cá nhân không
phải là người Trung Quốc. Ngay cả thành công của Trung Quốc cũng được
xây dựng dựa trên các công nghệ nguồn mở thường được các nhóm quốc tế
phát triển (Allen, G.C. 2019).
Theo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13, Trung Quốc đã đưa ra một siêu dự án trí
tuệ nhân tạo mới - “Trí tuệ nhân tạo 2.0”. Siêu dự án này sẽ thúc đẩy một
kế hoạch đầy tham vọng của Trung Quốc trị giá hàng tỉ USD để đạt được
ưu thế trong lĩnh vực công nghệ quan trọng, thông qua việc tài trợ rộng rãi
cho nghiên cứu và triển khai, ứng dụng trong thương mại và quân sự. Trung
Quốc cũng đã thành lập Phòng thí nghiệm Quốc gia dưới sự điều hành của
Baidu5, qua đó sẽ theo đuổi các nghiên cứu bao gồm học sâu, điện toán
nhận thức và thị giác máy tính nhận dạng sinh trắc học, các hình thức tương
tác giữa người và máy tính mới.
Những tiến bộ trong tương lai của Trung Quốc trong lĩnh vực trí tuệ nhân
tạo cũng có thể được triển khai nhờ những lợi thế về hệ thống, bao gồm độ
lớn dữ liệu và đội ngũ tài năng sẵn có, cũng như quy mô thị trường của
Trung Quốc. Đến năm 2030, Trung Quốc sẽ sở hữu 30% số liệu của thế
giới (theo một báo cáo gần đây của CCID Consulting). Ngoài các tài năng
sẵn có ở Trung Quốc - ước tính khoảng 43% các nhà khoa học về AI đã
được đào tạo trên thế giới - các công ty công nghệ lớn của Trung Quốc
đang tích cực cạnh tranh thu hút nhân tài từ Thung lũng Silicon. Ví dụ, cả
Baidu và Tencent đều thành lập phòng thí nghiệm trí tuệ nhân tạo ở Thung
lũng Silicon. Đồng thời, Chương trình Tài năng Thiên tài của Trung Quốc
cũng tập trung vào việc tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài hàng đầu.
Những “nhà khoa học chiến lược”, được đào tạo ở các tổ chức hàng đầu thế
giới, có ý định đóng góp cho các ngành công nghệ cao và mới nổi này của
Trung Quốc (Allen, G.C. 2019; Elsa Kina. 2017b).
5
Baidu thường được xem là Google của Trung Quốc và là Công ty tiên phong trong lĩnh vực liên quan đến trí tuệ
nhân tạo như nhận diện giọng nói. Trong năm 2017, Baidu đã tham gia một phòng thí nghiệm hợp tác giữa Chính
phủ và doanh nghiệp. Có một số nhà nghiên cứu khoa học đã từng làm việc trong Dự án hợp tác nghiên cứu về
người máy phục vụ quân đội của Trung Quốc hiện đang làm việc trong Phòng thí nghiệm này.
- 126 Định hướng của Trung Quốc trong phát triển trí tuệ nhân tạo…
1.2. Những điểm yếu của Trung Quốc trong AI
Bên cạnh những thành tựu của Trung Quốc đạt được trong lĩnh vực R&D,
thương mại hóa kết quả nghiên cứu và phát triển công nghiệp AI như đã
nêu trên, Trung Quốc hiện đang có 4 điểm yếu mấu chốt trong lĩnh vực AI
bao gồm: (i) Nhân tài; (ii) Tiêu chuẩn kỹ thuật; (iii) Nền tảng và khung
phần mềm; và (iv) Siêu bán dẫn (Allen, G.C. 2019).
Nhân tài
Báo cáo AI của Đại học Tsinghua Trung Quốc6 đã thực hiện một nghiên
cứu đáng chú ý về phân phối nhân tài AI toàn cầu kết luận rằng, vào cuối
năm 2017, nhóm nhân tài AI quốc tế bao gồm 204.575 cá nhân, trong đó,
Hoa Kỳ có 28.536 cá nhân và Trung Quốc ở vị trí thứ hai với 18.232 cá
nhân. Tuy nhiên, Trung Quốc xếp thứ tám trên thế giới về nhân tài AI hàng
đầu, chỉ có 977 cá nhân so với Hoa Kỳ là 5.518 cá nhân.
Tiêu chuẩn kỹ thuật
Việc xác định và áp dụng chung các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế là chìa
khóa giúp tạo ra khả năng tương tác công nghệ và tăng trưởng thị trường.
Chẳng hạn, việc áp dụng phổ biến các tiêu chuẩn wifi cho phép sự hình
thành đa dạng, rộng rãi của modem, bộ định tuyến, điện thoại di động và
máy tính để kết nối với nhau một cách hiệu quả qua mạng wifi. Trong lịch
sử, các công ty và tổ chức thuộc chính phủ Trung Quốc sản xuất rất ít sáng
chế cần thiết mang tính tiêu chuẩn (SEP - Standard Essential Patents),
nhưng Trung Quốc đã đạt được tiến bộ nhanh chóng trên mặt trận này.
Huawei, ZTE và Học viện Công nghệ Viễn thông Trung Quốc đã sản xuất
hàng trăm SEP liên quan đến tiêu chuẩn tế bào thế hệ thứ năm (5G).
Các tiêu chuẩn kỹ thuật AI hiện nay chưa phát triển như tiêu chuẩn kỹ thuật
đã được áp dụng cho mạng di động. Rút kinh nghiệm từ xây dựng tiêu
chuẩn cho mạng di động cũng như sự hạn chế xuất khẩu đối với công ty
như ZTE7, Trung Quốc có kế hoạch dẫn đầu trong việc xây dựng tiêu chuẩn
kỹ thuật AI thông qua việc khẳng định vai trò đóng góp tài sản và sản phẩm
trí tuệ cho phát triển AI, qua đó tác động đến tăng trưởng kinh tế và an ninh
quốc gia của Trung Quốc trong tương lai.
Nền tảng và khung phần mềm
Các nhà phát triển hệ thống AI hiếm khi bắt đầu từ đầu, họ thường tận dụng
các chương trình được viết sẵn do người khác phát triển và chia sẻ các thư
viện mã. Điều này cho phép các nhà phát triển tập trung vào các chi tiết cụ
6
China Institute for Science and Technology Policy, “China AI Development Report 2018”.
7
Công ty khổng lồ viễn thông Trung Quốc ZTE đã đồng ý trả 892 triệu USD tiền phạt và nhận tội vi phạm lệnh
trừng phạt của Hoa Kỳ đối với Iran và cản trở công lý, chấm dứt một cuộc điều tra kéo dài 5 năm làm gia tăng
căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Đây là một trong số hình phạt lớn nhất từ trước đến nay
được áp dụng đối với nhà sản xuất viễn thông giao dịch công khai lớn nhất Trung Quốc vì đã dàn dựng một âm
mưu kéo dài sáu năm để có được công nghệ của Hoa Kỳ. Shanshan Du, “China Integrated Circuit Ecosystem
Report,” SEMI Industry Research and Statistics October 2018, page 5, .
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 127
thể duy nhất về yêu cầu sử dụng ứng dụng của họ, thay vì giải quyết các
vấn đề chung mà tất cả các nhà phát triển AI phải đối mặt. Một số tổ chức
đã kết hợp các thư viện mã máy học với các công cụ phát triển phần mềm
AI khác thành các khung phần mềm học máy trưởng thành, nhiều trong số
đó là nguồn mở. Các khung máy học phổ biến bao gồm, TensorFlow
(Google), Spark (Apache), CNTK (Microsoft) và PyTorch (Facebook).
Đáng chú ý, hiện nay ở Trung Quốc chưa có khung phần mềm máy học phổ
biến nào được phát triển. Sự vắng mặt của các công ty AI Trung Quốc trong
số các nhà phát triển khung AI chính và cộng đồng phần mềm AI nguồn mở
được xác định là một điểm yếu đáng chú ý của hệ sinh thái AI Trung Quốc.
Ngoài ra, cuốn Sách trắng về Trí tuệ nhân tạo và An ninh của Viện Hàn lâm
Trung Quốc về Công nghệ Thông tin và Truyền thông và Viện Nghiên cứu
về Thông tin và An ninh truyền thông xuất bản tháng 09/2018 nhận định
rằng, hiện tại, nghiên cứu & triển khai, và ứng dụng các sản phẩm trí tuệ
nhân tạo trong nước, chủ yếu dựa trên Google và Microsoft8.
Siêu bán dẫn
Hầu hết các sản phẩm điện tử tiêu dùng trên thế giới đều mang nhãn hiệu
“Made in China”. 65% máy tính cá nhân, máy tính xách tay và máy tính
bảng thế giới, cũng như gần 85% điện thoại di động của thế giới, được sản
xuất tại Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm trong số này được lắp ráp
với chip bán dẫn có giá trị cao được thiết kế tại Hoa Kỳ, được sản xuất tại
Đài Loan hoặc Hàn Quốc và chạy phần mềm do các công ty của Hoa Kỳ
như Google, Microsoft và Apple phát triển. Ví dụ, iPhone mang nhãn hiệu
Made in China, nhưng chỉ sản xuất và lắp ráp linh kiện hàng hóa với kỹ
năng thấp và chi phí ít tại Trung Quốc. Một nghiên cứu cho thấy các khoản
đóng góp của Trung Quốc chiếm chưa đến 2% tổng chi phí của iPhone9.
1.3. Sự hợp nhất quân sự và dân sự10
Trung Quốc tìm cách đảm bảo rằng, những tiến bộ trong trí tuệ nhân tạo có
thể được chuyển giao nhanh chóng để sử dụng trong bối cảnh quân sự
thông qua một chiến lược quốc gia về nhất thể hóa/hợp nhất giữa quân sự
và dân sự. Chương trình nghị sự này đã trở thành một ưu tiên cao do Ủy
ban Phát triển Hội nhập Dân sự - Quân đội chỉ đạo, được thành lập vào đầu
năm 2017 dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình. Khái niệm “sự hợp
nhất quân sự và dân sự”, được thực hiện thông qua chương trình nghị sự về
chính sách mở rộng, là một phần nỗ lực của Trung Quốc nhằm thúc đẩy nền
công nghiệp quốc phòng. Ngay cả khi Trung Quốc cố gắng xây dựng năng
8
China Academy for Information and Communications Technology (CAICT) and China Institute of Information
and Communications Security. “Artificial Intelligence and Security” September 2018.
.
9
Jason Dedrick and Kenneth L. Kraemer, “Intangible assets and value capture in global value chains: the
smartphone industry,” World Intellectual Property Organization Working Paper, November 2017,
.
10
Phần này sử dụng thông tin có được từ Elsa Kina. 2017a.
- 128 Định hướng của Trung Quốc trong phát triển trí tuệ nhân tạo…
lực “đổi mới” quốc gia cho khu vực quân sự và dân sự, việc chuyển giao
công nghệ vẫn tiếp tục và có thể vẫn là một khía cạnh của nỗ lực này. Theo
Trung tướng Liu Guozhi, Giám đốc Ủy ban KH&CN của Ủy ban Quân sự
Trung ương, Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) nên theo đuổi cách tiếp cận
“chia sẻ trong xây dựng và chia sẻ trong sử dụng” cho trí tuệ nhân tạo là
một phần của chương trình tích hợp quân sự-dân sự. Về vấn đề này, ngay cả
những tiến bộ rõ rệt về dân sự trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo cuối cùng
cũng được PLA khai thác và tận dụng triệt để.
PLA tìm cách tận dụng sự chuyển đổi chiến tranh thông tin hiện nay thành
chiến tranh “thông minh hóa” trong tương lai. Khi PLA tăng cường tập
trung vào chiến tranh “thông minh hóa” trong tương lai, khả năng tận dụng
tất cả các nguồn lực sẵn có và những tiến bộ công nghệ mới nhất sẽ là rất
quan trọng. Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc dự định thiết lập và bình
thường hóa cơ chế truyền thông, phối hợp giữa các viện nghiên cứu khoa
học, trường đại học, doanh nghiệp và các đơn vị quân sự. Đặc biệt, Trung
Quốc muốn áp dụng hệ thống AI mới để hỗ trợ ra lệnh, ra quyết định, khấu
trừ quân sự, trang thiết bị phòng thủ và các khu vực khác.
Trung tướng Liu Guozhi dự đoán rằng trí tuệ nhân tạo sẽ dẫn đến một cuộc
cách mạng quân sự sâu sắc. Cho đến nay, tư duy ban đầu của PLA về trí tuệ
nhân tạo trong chiến tranh đã bị ảnh hưởng bởi nghiên cứu gần đây về các
sáng kiến đổi mới quốc phòng của Hoa Kỳ. Bộ Quốc phòng đã tập trung
vào trí tuệ nhân tạo và tự trị, bao gồm hợp tác giữa con người và máy móc
(ví dụ: thông qua Dự án Maven, Bộ Quốc phòng cố gắng sử dụng phân tích
dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, học máy, tầm nhìn máy tính và mạng nơ-ron
xoắn, bao gồm trong một dự án “tìm kiếm” đầu tiên sẽ tự động hóa và tăng
cường dữ liệu video được thu thập bởi UAVs). Tuy nhiên, cách tiếp cận
phát triển của PLA đối với trí tuệ nhân tạo trong chiến tranh có thể sẽ khác
với Hoa Kỳ. Ví dụ, PLA đặc biệt tập trung vào các tiện ích/ứng dụng của trí
tuệ nhân tạo trong việc ra quyết định, trò chơi chiến tranh và mô phỏng,
cũng như đào tạo.
1.4. Kế hoạch phát triển AI thế hệ kế tiếp11
Ngày 20/7/2017, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã ban hành Kế hoạch
phát triển AI Trung Quốc với một chương trình đầy tham vọng sẽ dẫn đầu
thế giới trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Trung Quốc dự kiến triển khai Kế
hoạch này với tư cách là “quốc gia đầu tiên trở thành Trung tâm đổi mới về
AI của thế giới” vào năm 2030. Với Kế hoạch này, Trung Quốc sẽ thực
hiện Chương trình nghị sự “Ba trong một” về phát triển AI: nhằm giải quyết
các vấn đề chính trong nghiên cứu và triển khai (R&D), theo đuổi một loạt
các sản phẩm và ứng dụng, cũng như xây dựng một ngành công nghiệp về
AI. Trong tiến trình này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn chớp lấy “cơ
11
Phần này sử dụng thông tin có được từ Elsa Kina. 2017b
- JSTPM Tập 9, Số 2, 2020 129
hội chiến lược lớn” để phát triển ngành công nghiệp AI này, có khả năng
vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2030.
Văn phòng Hỗ trợ Kế hoạch phát triển AI Trung Quốc thuộc Bộ KH&CN
Trung Quốc là cơ quan triển khai kế hoạch mới này với mục tiêu phát triển
AI trong ba giai đoạn.
Giai đoạn 1 - Từ năm 2017 đến năm 2020: trình độ công nghệ và ứng dụng
AI của Trung Quốc cần phải theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới, trong
khi ngành công nghiệp AI của Trung Quốc phải trở thành động lực quan
trọng cho tăng trưởng kinh tế. Đến thời điểm này, Trung Quốc hy vọng sẽ
đạt được những tiến bộ quan trọng trong các công nghệ AI thế hệ tiếp theo,
bao gồm dữ liệu lớn, tình báo nảy nở, trí tuệ lai tạo năng động, và hệ thống
trí tuệ tự trị. Tại thời điểm đó, giá trị ngành công nghiệp cơ bản trong lĩnh
vực AI của Trung Quốc sẽ vượt quá 150 tỷ Nhân dân tệ (RMB) (trên 22 tỷ
USD), với các lĩnh vực liên quan đến AI có trị giá 1 nghìn tỷ RMB (gần
148 tỷ USD). Đồng thời, Trung Quốc mong muốn thu hút các nhân tài hàng
đầu và thiết lập các khuôn khổ ban đầu về luật pháp, quy định, đạo đức và
chính sách về AI.
Giai đoạn 2 - Từ năm 2020 đến năm 2025: Trung Quốc cần đạt được những
bước đột phá quan trọng trong lĩnh vực AI để đạt được vị trí hàng đầu, với
việc AI trở thành động lực chính cho các tiến bộ trong ngành công nghiệp
của Trung Quốc và sự chuyển đổi kinh tế. Tại thời điểm đó, Trung Quốc dự
định trở thành quốc gia đi đầu thế giới trong nghiên cứu và triển khai về AI,
đồng thời, có năng lực ứng dụng AI trong các lĩnh vực từ sản xuất đến y tế
và an ninh quốc gia. Ngành công nghiệp AI chính của Trung Quốc cần vượt
qua 400 tỷ RMB (khoảng 59 tỷ USD), với các lĩnh vực liên quan đến AI
vượt quá 5 nghìn tỷ RMB (khoảng 740 tỷ USD). Thêm vào đó, Trung Quốc
có kế hoạch đạt được tiến bộ trong việc đưa ra các luật và quy định cũng
như các chuẩn mực đạo đức và chính sách cùng với việc thành lập các cơ
chế đánh giá an toàn về AI.
Giai đoạn 3 - Từ năm 2025 đến năm 2030: Trung Quốc dự định trở thành
trung tâm đổi mới hàng đầu của thế giới về AI. Tại thời điểm đó, Trung Quốc
tin rằng có thể đạt được những bước đột phá lớn trong nghiên cứu và triển
khai để “chiếm giữ được đỉnh cao trong công nghệ AI”. Ngoài ra, AI cần
được mở rộng và sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, bao gồm quản trị xã
hội và quốc phòng. Vào thời điểm đó, ngành công nghiệp AI của Trung Quốc
sẽ đạt giá trị hơn 1 nghìn tỷ RMB (148 tỷ USD), các lĩnh vực liên quan đến
AI với tổng trị giá 10 nghìn tỷ RMB (1,48 nghìn tỷ USD). Để hỗ trợ tính ưu
việt của AI, Trung Quốc có kế hoạch tạo ra sự đổi mới sáng tạo và thành lập
cơ sở đào tạo nhân sự hàng đầu về AI, đồng thời, xây dựng các khuôn khổ
luật pháp, quy định, đạo đức và chính sách về AI toàn diện hơn.
nguon tai.lieu . vn