Xem mẫu

  1. TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM Vũ Văn Nhật* 1 Tóm tắt: Cấu trúc Trung tâm Tri thức số trong thư viện khoa Việt Nam có thể thiết kế trên cơ sở vận dụng các nguyên lý, phương pháp luận và thực tiễn tổ chức xây dựng thư viện khoa học truyền thống của Việt Nam và thế giới. Phát triển mô hình Trung tâm Tri thức số cho các thư viện khoa học là một bước phát triển mới góp phần phát triển văn hóa thư viện hiện đại nước nhà. Bài viết này cũng phác họa bước đầu về tổ chức và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo đảm bảo xây dựng và phát triển bền vững mô hình Trung tâm Tri thức số cho các thư viện khoa học Việt Nam. Từ khóa: Tổ chức thư viện; Cấu trúc thư viện; Thiết chế thư viện; Trung tâm Tri thức số; Thư viện khoa học Việt Nam; Văn hóa thư viện; Hệ thống đổi mới sáng tạo. 1. THƯ VIỆN KHOA HỌC LÀ MỘT THIẾT CHẾ XÃ HỘI ĐẶC THÙ Các thư viện khoa học nói chung, trong đó có các thư viện khoa học tổng hợp và chuyên ngành đã trải qua một tiến trình lịch sử hình thành và phát triển khá lâu dài qua nhiều thập kỷ trên thế giới và ở nước ta. Chúng trở thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia và quốc tế. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, các thư viện khoa học của Việt Nam và thế giới cần phải có bước phát triển mang tính cách mạng để có thể thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của mình trong tình hình mới. Theo quan ∗ Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Khoa Thông tin – Thư viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
  2. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 696 điểm của chúng tôi, cũng như nhiều nhà khoa học trên thế giới, hiện nay hai vấn đề cụ thể: Cấu trúc mô hình Trung tâm Tri thức số của thư viện và ứng dụng công nghệ tin học cho thư viện khoa học Việt Nam là hai vấn đề mang tính khoa học và thực tiễn; đồng thời phù hợp với tư tưởng chính trị và chiến lược phát triển sự nghiệp thư viện Việt Nam đã được ghi trong Luật Thư viện Việt Nam 2019. Luật Thư viện Việt Nam được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2019 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2020, đã giải thích rõ bản chất của thư viện và thư viện số trong Điều 3: “1. Thư viện là thiết chế văn hóa, thông tin, giáo dục, khoa học thực hiện việc xây dựng, xử lý, lưu giữ, bảo quản, cung cấp tài nguyên thông tin phục vụ nhu cầu của người sử dụng. 2. Thư viện số là thư viện hoặc bộ phận của thư viện có tài nguyên thông tin được xử lý, lưu giữ dưới dạng số mà người sử dụng thư viện truy cập, khai thác thông qua thiết bị điện tử và không gian mạng.” Luật thư viện quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của thư viện tại Điều 4: “1. Xây dựng, xử lý, lưu giữ, bảo quản, kết nối và phát triển tài nguyên thông tin phù hợp với người sử dụng thư viện. 2. Tổ chức sử dụng chung tài nguyên thông tin, sản phẩm thông tin và dịch vụ thư viện; truyền bá tri thức, giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại; phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, giải trí; góp phần hình thành và phát triển kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, năng lực của người sử dụng thư viện. 3. Ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, hiện đại hóa thư viện. 4. Phát triển văn hóa đọc và góp phần tạo môi trường học tập suốt đời cho Nhân dân, xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí, xây dựng con người Việt Nam toàn diện.” Như vậy theo Luật Thư viện Việt Nam hiện hành: Thư viện thực hiện 4 chức năng trọng tâm chủ yếu: Xây dựng, xử lý, lưu giữ, cung cáp tài liệu và thông tin; tuyên truyền chính trị - tư tưởng; giáo dục văn
  3. Trung tâm Tri thức số - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC Việt Nam 697 hóa, khoa học và công nghệ và tổ chức việc đọc cho mọi thành viên trong toàn xã hội. 2. CẤU TRÚC CỦA TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ Trên nền tảng phương pháp luận khoa học và những cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có của thư viện khoa học truyền thống, mô hình Trung tâm Tri thức số - Bộ phận cấu thành của thư viện khoa học có thể được tổ chức theo cấu trúc hai bộ phận chính: - Bộ phận dữ liệu tài nguyên thông tin (Nguồn lực thông tin); - Bộ phận tra cứu thông tin số hóa (Bộ máy tra cứu thông tin). 2.1. Bộ phận dữ liệu tài nguyên thông tin (Nguồn lực thông tin) * Khái niệm: Tài nguyên thông tin của Trung tâm Tri thức số là vốn tri thức được bao gói dưới dạng thức vật chất khác nhau (Tài liệu, tư liệu, số liệu, thông tin…) dưới dạng số hóa được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau vào Trung tâm Tri thức số, phù hợp với chức năng và nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và người dùng tin, nó trở thành tài sản riêng của thư viện. * Đặc trưng của tài nguyên thông tin: - Đặc trưng tính vật lý (Hình thức bao gói); - Đặc trưng tính nội dung (Lĩnh vực tri thức cụ thể); - Đặc trưng tính tổ chức (Cơ cấu tổ chức sắp xếp theo một nguyên tắc nhất định); - Đặc trưng tính truy cập (Mỗi tài liệu có mã tìm kiếm và truy cập cụ thể); - Đặc trưng tính chia sẻ (Có thể trao đổi và chia sẻ trong hoặc ngoài hệ thống); • Các loại hình tài nguyên thông tin Căn cứ váo nội dung tri thức, hình thức bao gói và đối tượng phục vụ người dùng tin, nguồn tài nguyên thông tin được phân chia thành các loại:
  4. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 698 - Tài liệu nghiên cứu khoa học: Toàn tập, tuyển tập, tập riêng biệt; Sách chuyên khảo; Tập bài báo và tiểu luận khoa học; Kỷ yếu; Chuyên san khoa học; Tạp chí khoa học; Luận án khoa học, phục vụ cho các nhà nghiên cứu - triển khai trong lĩnh vực khoa học. - Tài liệu học tập: Sách giáo khoa và sách tham khảo học tập, phục vụ cho các giảng viên và sinh viên trong các trường từ cao đẳng đến đại học và trên đại học. - Tài liệu kỹ thuật sản xuất: Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và tài liệu thông tin kỹ thuật sản xuất, phục vụ cho các chuyên gia trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ. - Tài liệu khoa học phổ thông: Về lý thuyết khoa học, thành tựu khoa học, cuộc đời và sự nghiệp của các nhà khoa học và các tài liệu hướng dẫn những người hoạt động khoa học nghiệp dư, phục vụ cho mọi đối tượng người dùng tin trong xã hội. - Tài liệu tra cứu: Bách khoa toàn thư tổng hợp và chuyên ngành; các từ điển (Từ điển giải nghĩa các thuật ngữ khoa học, từ điển ngôn ngữ, từ điển danh nhân…); Sách tra cứu kỹ thuật sản xuất (các loại sách cẩm nang); Các bản thư mục, mục lục liên hợp, các tạp chí tóm tắt và tổng luận, tổng quan do các cơ quan thông tin - thư viện trong và ngoài nước biên soạn và xuất bản, đáp ứng nhu cầu tra cứu của mọi người dùng tin trong xã hội - Các tài liệu chuyên dạng: Các tài liệu chỉ đạo về xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội (Phục vụ cho các nhà quản lý lãnh đạo); Tài liệu sáng chế phát minh và giải pháp hữu ích (Phục vụ cho các nhà sáng chế, phát minh khoa học …); Các bản tiêu chuẩn kỹ thuật (Phục vụ cho các chuyên gia công nghệ và các nhà sản xuất kinh doanh dịch vụ…), các bản mục lục kỹ thuật, quảng cáo các sản phẩm và dịch vụ phục vụ cho kinh doanh dịch vụ thương mại và thị trường. 2.2. Bộ phận tra cứu thông tin số hóa (Bộ máy tra cứu tin) Bộ phận tra cứu thông tin số hóa bao gồm các tiểu bộ phận sau: - Bộ sưu tập các tài liệu tra cứu bảo quản các loại hình tài liệu tra cứu của thư viện: Các tài liệu chỉ đạo của Đảng và Nhà nước; Các tài
  5. Trung tâm Tri thức số - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC Việt Nam 699 liệu kinh điển; Các bộ bách khoa toàn thư tổng hợp và chuyên ngành; Các bộ từ điển (Từ điển giải nghĩa các thuật ngữ, từ điển danh nhân khoa học và từ điển ngôn ngữ…); Các sản phẩm thông tin – thư mục của các cơ quan thông tin – thư viện trong và ngoài nước biên soạn và xuất bản,… - Các hệ thống mục lục phản ánh nội dung tài nguyên thông tin (vốn tài liệu) của thư viện: Mục lục chữ cái, mục lục phân loại, mục lục chủ đề, mục lục bài trích báo tạp chí, mục lục địa chí… - Bộ phiếu tổng hợp, Bộ phiếu chuyên ngành (thông tin thư mục và thông tin dữ kiện chuyên ngành): phản ánh các tài liệu bên trong và cả bên ngoài thư viện nhưng phù hợp với diện phục vụ của trung tâm thông tin - thư viện và Bộ phiếu bổ trợ: Phản ánh về địa chỉ các cơ quan và tổ chức tương ứng, về địa chỉ của các nhà khoa học hoặc các chuyên gia nổi tiếng trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, khoa và công nghệ,… tương ứng với diện phục vụ của thư viện. 3. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TIN HỌC TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM Vào những năm nửa cuối thế kỷ XX, với sự ứng dụng các thành tựu khoa học hiện đại, đặc biệt là kỹ thuật cơ giới hóa và tự động hóa để xây dựng và phát triển bộ máy tra cứu thư viện truyền thống thành bộ máy tra cứu thư viện hiện đại mang tính cơ giới hóa và bán tự động hóa mà người ta thường gọi là bộ máy tra cứu hiện đại của thư viện. Nó bao gồm hai bộ phận: Bộ máy tra cứu truyền thống: Kho tài liệu tra cứu; Các hệ thống mục lục; Các bộ phiếu tổng hợp, chuyên ngành (Thư mục và dữ kiện); Bộ phiếu bổ trợ và Bộ máy tra cứu hiện đại: Các CSDL, NHDL, CD-ROM, Mạng INTERNET, LAN, WAN,… Qua việc nghiên cứu và khảo sát thực tế chúng tôi thấy, trong hầu hết các thư viện trên thế giới, đặc biệt là các thư viện Việt Nam đều có bộ máy tra cứu tin với cơ cấu bao gồm hai bộ phận cơ bản: Bộ máy tra cứu tin truyền thống và Bộ máy tra cứu tin hiện đại. Trên cơ sở nền tảng vật chất - kỹ thuật hiện có của thư viện truyền thống, cùng với sự ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để phát
  6. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 700 triển nâng cấp nó thành Trung tâm Tri thức số cần phải đảm bảo các yếu tố sau đây: - Xây dựng bộ sưu tập số tài nguyên thông tin Như đã nói ở phần trên, bộ sưu tập số là một tập hợp có tổ chức nhiều tài liệu đã được số hoá dưới nhiều hình thức khác nhau (văn bản, hình ảnh, audio, video…) về một chủ đề. Mặc dù mỗi loại hình tài liệu có sự khác nhau về cách thể hiện, nhưng nó đều cung cấp một giao diện đồng nhất mà qua đó các tài liệu có thể truy cập, tìm kiếm dễ dàng. Các nguồn tin số hoá tạo điều kiện cần thiết cho việc quản lý các thư viện được tin học hoá, đảm bảo việc quản lý các nguồn số hoá gắn liền với sự phản ánh trong các mục lục thư viện truyền thống. Có 3 cách để tạo lập bộ sưu tập số: + Tự tiến hành số hoá nguồn tư liệu trên giấy của Thư viện. Tức là chuyển tài liệu hiện có sang dạng số bằng phương pháp quét hay nhập lại thông tin từ bàn phím... đây là hướng phải đầu tư lớn, đầu tư liên tục và tốn kém thời gian, tiền của, công sức; + Bổ sung/tích hợp nguồn tin điện tử thông qua việc mua, trao đổi tài liệu điện tử đang được xuất bản (bản tin, tạp chí điện tử, các chế bản điện tử trước khi in ra trên giấy). Chúng ta đều biết: hầu hết các ấn phẩm hiện nay đều vừa xuất bản trên giấy vừa tồn tại dưới dạng điện tử và nếu tận dụng được nguồn này, ta sẽ tiết kiệm được nhiều công sức, thời gian; + Xây dựng các liên kết (tạo khả  năng  truy  cập) đến các nguồn  tài liệu trên INTERNET, nhất là  nguồn của các cơ quan có cùng diện chuyên đề bao quát. - Hạ tầng cơ sở vật chất - kỹ thuật: Mạng Intranet có tốc độ kết nối nhanh với INTERNET; Hệ thống máy chủ lớn thực hiện việc quản trị và các dịch vụ khác nhau (Máy chủ Web, Máy chủ FPT, Mail, các Máy chủ lưu,  bảo trì dữ liệu;  Máy chủ Firewall, Máy chủ cho các ứng dụng khác...); Hệ thống máy trạm để cập nhật, khai thác thông tin; Các thiết bị công nghệ chuyên dụng cho TVĐT: mã vạch, quản lý và in thẻ, máy quét, máy sao CD...
  7. Trung tâm Tri thức số - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC Việt Nam 701 - Về phần mềm: Trên thế giới có nhiều phần mềm phục vụ cho việc xây dựng và phát triển Trung tâm Tri thức số. Mỗi phần mềm đều có những ưu, nhược điểm riêng nhưng thông thường một phần mềm khả dĩ phải có các module chính của thư  viện, như: Bổ sung; Biên mục; Quản lý kho; Phục vụ bạn đọc; Mục lục trực tuyến; Phân hệ lưu hành; Quản lý tài liệu điện tử; Truy hồi và trình bày thông tin; Mượn liên thư viện; Quản trị hệ thống. Ngoài ra, để tổ chức Trung tâm Tri thức số ta cũng cần có: Phần mềm hệ thống: Hệ điều hành và Hệ quản trị các CSDL; Phần mềm xuất bản điện tử, xuất bản CD/ROM. Trên thị trường, sản phẩm công cụ điện tử và tin học ở nước ta đã có bán rộng rãi các thiết bị số hóa tài liệu của công nghệ KIRTAS APT 1200, công nghệ này cùng với thiết bị  BookScan APT 1200 có thể giúp các thư viện có thể số hóa nguồn tài liệu với số lượng lớn, giá cả hợp lý và đảm bảo chất lượng, thiết bị nhận dạng quang học OCR. Đặc biệt là công nghệ KIRTAS APT 1200 có một phần mềm biên tập BookScan Editor cho phép tự động biên tập, tạo siêu dữ liệu theo yêu cầu; BookScan APT 1200 không làm hư hỏng tài liệu gốc do không phải tháo gáy tài liệu đối với tài liệu có độ dày trang khi thực hiện Scan. - Nhân viên thông tin - thư viện: Trong thời đại công nghệ thông tin và để đáp ứng được những yêu cầu cao trong việc tiếp cận và khai thác, quản lý tài liệu, trang thiết bị thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin – thư viện phải có trình độ chuyên môn thư viện kết hợp với chuyên môn công nghệ thông tin. Những nhân viên thông tin – thư viện này vô cùng quan trọng khi chúng ta đã xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và kho tài liệu số hóa, nguồn lực này sẽ vận hành và phát triển Trung tâm Tri thức số để phù hợp với tốc độ phát triển của cuộc cách mạng công nghệ thông tin, đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ và ngành thông tin - thư viện nước nhà. Xây dựng các thư viện điện tử, thư viện số, thư viện thông minh, hay Trung tâm Tri thức số cho thư viện là sự phát triển cần thiết khách quan phù hợp với xu thế chung của thời đại mới. Tuy nhiên chúng ta không được lãng quên những nguyên lý, những nguyên tắc tư tưởng và bản chất, cũng như chức năng và nhiệm vụ đặc thù của thư viện
  8. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 702 tiến bộ, khoa học và cách mạng; luôn cảnh giác với “Tư tưởng kỹ trị” của các học giả và các chuyên gia thông tin – thư viện phương tây tồn tại từ những năm giữa thế kỷ XX. Đến ngày nay nó vẫn còn tồn tại dưới các hình thức rất tinh vi ảnh hưởng xấu đến một bộ phận không nhỏ những chuyên gia thông tin – thư viện của nhiều nước trên thế giới. Như vậy theo quan điểm chúng tôi, trên cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có của thư viện khoa học và trên nền tảng lý luận, phương pháp luận, kỹ thuật và các chuẩn nghiệp vụ thư viện, đặc biệt là các chuẩn xử lý phân tích - tổng hợp tài liệu (thông tin) và chuẩn phục vụ bạn đọc của thư viện khoa học, chúng ta có thể vận dụng công nghệ thông tin hiện đại để chuyển nó thành một Trung tâm Tri thức số. Ngược lại, các phương pháp công tác và công cụ công nghệ thông tin hiện đại của Trung tâm Tri thức số sẽ góp phần quan trọng đổi mới và thúc đẩy phát triển thư viện khoa học lên tầm cao mới thành các Trung tâm thông tin - Thư viện điện tử – Tri thức số trong xu thế chung của thời đại, nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin và cuộc cách mạng công nghệ 4.0. 4. XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN KHOA HỌC GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA THƯ VIỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM • Khái niệm về văn hóa thư viện: Văn hóa thư viện khoa học là tổng hòa mang tính chất chung nhất, chỉ đạo nhất về cách nhận thức, các quan niệm, giá trị, tiêu chuẩn đạo đức, niềm tin, triết lý hoạt động, quy phạm hành vi, ý tưởng hoạt động; phương thức quản lý; các quy tắc quy định thái độ và cách thức ứng xử được tập thể các thành viên chấp nhận, tuân theo và phát triển trong thực tiễn hoạt động thư viện. • 10 yếu tố của văn hóa thư viện: - Một tầm nhìn rõ ràng; - Một sứ mệnh và nhiệm vụ cụ thể; - Kiên định hướng đến mục tiêu; - Mạnh mẽ trong lãnh đạo;
  9. Trung tâm Tri thức số - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC Việt Nam 703 - Tuyển những người tải giỏi; - Tự do trong hợp tác; - Nhân viên có quyền được chia sẻ; - Coi trọng bạn đọc và người dùng tin; - Mọi ý tưởng đều được xem xét và cân nhắc; - Các thành công được ghi nhận. • Văn hóa thư viện khoa học có thể được thể hiện qua các tính chất cơ bản sau đây: - Các quy định về hành vi được thể hiện bằng các ngôn ngữ, thuật ngữ và nghi thức thông thường; - Các tiêu chuẩn về công việc được phản ánh bằng mức độ hoàn thành công việc hoặc mức độ hợp tác với cán bộ quản lý và nhân viên thư viện để đạt được mục tiêu chung; - Các giá trị chủ đạo mà các nhà lãnh đạo của thư viện ủng hộ và mong muốn mỗi thành viên trong thư viện chia sẻ với nhau như là đảm bảo uy tín, có tinh thần trách nhiệm, năng suất lao động cao, chất lượng phục vụ tốt, không nghỉ việc tự do và làm việc có hiệu quả; - Những hành vi của mỗi cá nhân trong thư viện nên hoặc không nên đối xử với nhân viên và người dùng tin của thư viện; - Môi trường và không khí làm việc thông qua các quy định về hành vi làm việc của từng cá nhân, quan hệ giữa các nhân viên với nhau, giữa nhân viên với NDT, nhân viên và cán bộ quản lý lãnh đạo. 5. HỆ THỐNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO ĐẢM BẢO PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN KHOA HỌC Trong những năm gần đây, trên thế giới khái niệm “Đổi mới sáng tạo” đã xuất hiện trong khá nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ và thông tin truyền thông xã hội. Theo chúng tôi, trong lĩnh vực thông tin - thư viện: Đổi mới sáng tạo là một sản phẩm dịch vụ hoặc một quy trình công nghệ thông
  10. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 704 tin - thư viện nào đó được làm mới, được cải tiến đưa vào phục vụ bạn đọc và người dùng tin nhanh nhất, chính xác nhất với chất lượng cao nhất. Với sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ 4.0, một số thư viện khoa học nước ta cũng đã có bước đi ban đầu đổi mới sáng tạo trong việc ứng dụng công nghệ tin học nhằm mục đích hiện đại hóa các quy trình công nghệ và sản phẩm dịch vụ thư viện. Xây dựng và phát triển các thư viện điện tử, thư viện số, thư viện thông minh, Trung tâm Tri thức số là một xu hướng mới vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực tiễn có giá trị cao, rất đáng khích lệ trong lĩnh vực thông tin - thư viện nước nhà. Theo chúng tôi, vấn đề cấp bách hiện nay, để khắc phục sự phát triển lẻ tẻ, tự phát hiện nay, chúng ta phải tạo ra hệ thống đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực thư viện . Mô hình hệ thống đổi mới sáng tạo trong thư viện khoa học, tùy vào tình hình thực tế, hiện nay chúng ta cần nghiên cứu xây dựng một mô hình đổi mới sáng tạo trong thư viện khoa học. Thí dụ: Mô hình đổi mới sáng tạo hệ thống thư viện đại học nước ta có thể được thiết kế: - Trung tâm Thông tin - Thư viện ĐHQGHN làm thành viên trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo - Các trung tâm Thông tin - Thư viện, các trung tâm học liệu, các thư viện… của các trường đại học và cao đẳng là các thành viên chính có quan hệ trực tiếp hữu cơ với thành viên trung tâm và giữa chúng có quan hệ ngang với nhau. - Các trung tâm thông tin - thư viện, thông tin tư liệu của các học viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, của các doanh nghiệp, tổng công ty, tập đoàn doanh nghiệp, cơ quan quản lý khoa học và công nghệ của chính phủ là các thành viên quan trọng của hệ thống có quan hệ ngang và quan hệ dọc với thành viên trung tâm và các thành viên khác của hệ thống đổi mới sáng tạo - Nhóm người dùng tin tiêu biểu là thành viên đặc thù của hệ thống có mối quan hệ trực tiếp với thành viên trung tâm và quan hệ ngang và dọc với tất cả các thành viên khác của hệ thống đổi mới sáng tạo thông tin - thư viện khoa học.
  11. Trung tâm Tri thức số - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC Việt Nam 705 Tóm lại: Thư viện khoa học đã trải qua sự tồn tại và phát triển hàng trăm năm tuổi, đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp văn hóa - giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin… của nhân loại. Sự ra đời và phát triển của Trung tâm Tri thức số là “Mốc son”, là bước phát triển vượt bậc, tất yếu khách quan của tiến trình lịch sử phát triển sự nghiệp thư viện thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Trung tâm Tri thức số có sự kế thừa và phát triển các thành tựu lý luận, phương pháp luận, mục đích, chức năng và cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có của thư viện khoa học. Ngược lại, thư viện khoa học lại tiếp thu được phương pháp công nghệ mới, hiện đại của Trung tâm Tri thức số để nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Hiện nay trên thế giới cũng như ở nước ta, xu thế liên kết hòa nhập thư viện khoa học, trung tâm thông tin khoa học công nghệ, thư viện điện tử, thư viện số và Trung tâm Tri thức số thành một thiết chế xã hội: Trung tâm thông tin – thư viện điện tử, hoặc Trung tâm Tri thức số là một bộ phận cấu thành hữu cơ đặc biệt quan trọng của thư viện khoa học, là tất yếu khách quan tùy vào điều kiện phát triển của từng quốc gia, của từng ngành và của từng thư viện khoa học cụ thể. Để đảm bảo thực hiện nguyên lý thư viện học, thư mục học và thông tin học Việt Nam và phù hợp với tình hình thực tiễn nước nhà, thư viện điện tử, thư viện số, Trung tâm Tri thức số và thư viện khoa học truyền thống hòa đồng vào nhau thành một thể thống nhất: Trung tâm Thông tin – Thư viện khoa học là phù hợp với sự phát triển tất yếu khách quan của tiến trình lịch sử thư viện thế giới và Việt Nam. Xây dựng một hệ thống đổi mới sáng tạo thông tin - thư viện khoa học là cơ sở và tiền đề quan trọng cho sự phát triển nhanh và bền vững của Trung tâm Tri thức số của các thư viện khoa học Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Văn Nhật, “Mối quan hệ giữa thư viện điện tử và thư viện truyền thống”, Xây dựng và phát triển thư viện số Việt Nam quá khứ - Hiện tại – Tương lai (Sách chuyên khảo), Hà Nội, NXB ĐHQGHN, 2017, tr.390-412 2. Vũ Văn Nhật, Thông tin thư mục khoa học kỹ thuật (Giáo trình đại học thông tin thư viện khoa học), Hà Nội, NXB ĐHQGHN, 1999, 203 tr. 3. Luật Thư viên, Quốc hội, Luật số: 46/ 2019/ QH 14.
  12. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 706 4. Nguyễn Huy Chương, Nguyên lý và chính sách phát triển thư viện số, Xây dựng và phát triển thư viện số Việt Nam quá khứ - Hiện tại – Tương lai (Sách chuyên khảo), Hà Nội, NXB ĐHQGHN, 2017, tr.64-75 5. Xây dựng và phát triển thư viện số Việt Nam, Sách chuyên khảo, Hà Nội, NXB ĐHQGHN, 2017, 627 tr. 6. Thư viện thông minh 4.0 Công nghệ - dữ liệu - Con người, Sách chuyên khảo, Hà Nội, NXB ĐHQGHN, 2018, 617 tr. 7. Tối ưu hóa quản trị tri thức số Chính phủ - Doanh nghiệp, Sách chuyên khảo, Hà Nội, NXB ĐHQGHN, 2019, 786 tr. 8. Phát triển mô hình mạng quản lý thư viện chia sẻ chung và thống nhất: Cơ hội và thách thức, Xây dựng và phát triển thư viện số Việt Nam, Sách chuyên khảo, Hà Nội, NXB ĐHQGHN, tr. 93-103 9. Đổi mới sáng tạo và những xu hướng phát triển mới (Tổng luận khoa học công nghệ kinh tế), Hà Nội, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, 2020, 36 tr. 10. What  are  digital  libraries?/Donald  J.  Waters//  CLIR,  No  4,  July/August 1999. URL:http://WWW.clir.org/pubs/issues/issue04.html. 11. Digital  libraries:  Definitions,  issues  and  challenges / Gary  Cleveland // UDT Occasional paper #8. URL: 12. BROOKING A. (1997), “The management of intellectual capital”, Long Range- Planning, 30 (3), pp. 364 – 365. 13. Quintas, P., Lefrere, P., Jones, G. (1997), “Knowledge management: a stra- tegic agenda”, Journal of Long Range Planning, Vol. 30 No.3, pp.385-91. 14. BROOKING A. (1997), “The management of intellectual capital”, Long Range- Planning, 30 (3), pp. 364 – 365. 15. Quintas, P., Lefrere, P., Jones, G. (1997), “Knowledge management: a strategic agenda”, Journal of Long Range Planning, Vol. 30 No.3, pp.385-91.
nguon tai.lieu . vn