Xem mẫu

  1. TRIẾT LÝ GIÁO DỤC NHÂN VĂN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY TS. Đậu Thị Hồng Khoa Chính trị - Luật, Trường Đại học Hà Tĩnh Tóm tắt Trong xu hướng toàn cầu hóa, giáo dục Việt Nam đang đứng trước bối cảnh hội nhập quốc tế với mục tiêu đào tạo ra công dân toàn cầu. Đặc tính của giáo dục là tính đổi mới cùng với những thay đổi chóng mặt của xã hội. Trong tất cả mọi thời đại, mục đích của giáo dục để hình thành những con người hội tụ các điều kiện mà xã hội yêu cầu trong các bối cảnh khác nhau. Với triết lý giáo dục có nhiệm vụ đào tạo con người phát triển toàn diện nhân cách, giáo dục nhân văn ngày càng có tính phổ quát đối với các nền giáo dục khác nhau trên thế giới. Vấn đề là ở mỗi quốc gia, mỗi hệ thống giáo dục khác nhau sự vận dụng của triết lý giáo dục nhân văn có những điểm khác nhau để phù hợp với thực tiễn. Đối với Việt Nam, việc tiếp tục nghiên cứu các triết lý giáo dục tạo ra cơ sở cho những chính sách và giải pháp phù hợp là điều kiện cần thiết. Bài viết đề cập ở 3 nội dung: 1/Vai trò của triết lý giáo dục đối với nền giáo dục Việt Nam; 2/Triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay và sự cần thiết đề cao giáo dục nhân văn; 3/Sự thích ứng của nền giáo dục Việt Nam trước yêu cầu của xã hội. Từ khóa: Giáo dục, giáo dục nhân văn, triết lý giáo dục, đổi mới, nhân cách 1. Đặt vấn đề Giáo dục và đào tạo có vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong mọi thời đại. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nhờ dựa vào triết lý giáo dục phù hợp cùng với các chính sách đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Ở Mỹ chủ trương “tập trung cho đầu tư giáo dục - đào tạo và thu hút nhân tài” được đưa ra từ rất lâu hay chính quyền Liên xô trước đây cũng đã khẳng định “Chính sách về con người là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của mọi chính sách kinh tế - xã hội”. Ở Châu Á tiêu biểu như Nhật Bản với quan điểm coi “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu; cần kết hợp hài hoà giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri thức Phương Tây hiện đại”; hay Singapore với phương châm “Thắng trong cuộc đua về giáo dục sẽ 528
  2. thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế”. Đây đều là những quốc gia có sự phát triển nhanh và ổn định. Đối với Việt Nam, sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Song để giáo dục hoàn thành được sứ mệnh cao cả của mình, không thể không có một triết lý giáo dục phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc xây dựng một triêt lý giáo dục phù hợp với nền giáo dục nước nhà đồng thời có thể hội nhập được với giáo dục thế giới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao. 2. Vai trò của triết lý giáo dục Liên quan đến khái niệm triết lý giáo dục, trong tiếng Anh có thuật ngữ philosophy of education hay education philosophy, sau khi dịch sang tiếng Việt thường được hiểu là triết học giáo dục hay triết học về giáo dục và triết lý giáo dục. Tuy nhiên, cần có sự phân biệt giữa khái niệm triết học giáo dục và triết lý giáo dục. Việc phân biệt nội hàm hai thuật ngữ này đã được nhiều nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục quan tâm bàn luận. Thái Duy Tuyên cho rằng: “Triết học giáo dục là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu và vận dụng các phương pháp triết học để giải quyết các vấn đề về giáo dục, là những nguyên tắc phương pháp luận chủ yếu và chung nhất làm cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học và cải tạo thực tiễn giáo dục. Còn triết lý giáo dục là những quan điểm phản ánh những vấn đề giáo dục thông qua con đường trải nghiệm từ cuộc sống để chỉ đạo sự suy nghĩ và hành động của con người về các vấn đề giáo dục”1. Bàn về khái niệm này, ở nước ngoài, có các quan điểm cơ bản như sau: John Dewey (1859-1952) trong Dân chủ và giáo dục (1916) cho rằng: Triết lý giáo dục không phải là sự áp dụng các tư tưởng sẵn có từ bên ngoài vào một hệ thống thực hành có nguồn gốc và mục đích khác biệt về cơ bản: triết lý giáo dục chỉ đơn giản là sự phát biểu rõ ràng về các vấn đề của sự đào tạo các thói quen tinh thần và đạo đức đúng đắn trong mối liên quan đến những trở ngại nằm trong đời sống xã hội đương thời: triết lý là lý luận giáo dục xét trên phương diện phổ biến nhất 2. Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn 1 Thái Duy Tuyên (2007), Triết học giáo dục Việt Nam, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội 2 John Dewey (2008), Dân chủ và Giáo dục, Bản dịch của Phạm Anh Tuấn, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr.389 529
  3. Anh Tuấn thì cho rằng, “Triết lý giáo dục là tư tưởng chỉ đạo giáo dục của một đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể nhằm đạt được những kỳ vọng của đất nước với từng công dân, và trách nhiệm của công dân đối với đất nước” 3 Ở Việt Nam, vấn đề “triết lý giáo dục” được các nhà nghiên cứu đề cập khá nhiều trong những năm gần đây bởi tính cấp thiết của vấn đề liên quan đến các phương diện giáo dục.Trong lịch sử, các nhà nghiên cứu đều thừa nhận, Việt Nam có triết lý giáo dục thể hiện qua tư tưởng của một số nhân vật tiêu biểu: Chu Văn An, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiểu… và Hồ Chí Minh. Đặc biệt là Hồ Chí Minh, đã chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu… Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta”, “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”, xây dựng nền văn hoá, con người Việt Nam theo hướng “dân tộc, khoa học, đại chúng” và còn nhiều quan điểm khác đã thể hiện triết lý giáo dục Hồ Chí Minh, kết tinh trong đó cả truyền thống dân tộc và tinh hoa giáo dục của nhân loại, vừa khoa học, vừa hiện đại, nhiều luận điểm còn đi trước thời đại khá sớm. Theo tôi, triết lý giáo dục chính là suy nghĩ về đích đến của giáo dục, thực chất đó là hình dung về sản phẩm của quá trình giáo dục chính là những con người mà nền giáo dục muốn tạo ra. Hiểu theo nghĩa hẹp, triết lý giáo dục là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đối với lĩnh vực giáo dục như vị trí, vai trò của giáo dục; mục đích và nội dung giáo dục; phương pháp giáo dục; nhà trường, nhà giáo và người học nhằm hướng đến hiệu quả của sự nghiệp giáo dục trong từng phạm vi giáo dục và môi trường giáo dục nhất định. Và vì thế, có thể nói triết lý giáo dục bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau sẽ có mục tiêu, định hướng khác nhau đối với giáo dục nhằm thực hiện được yêu cầu của quá trình phát triển quốc gia trong từng giai đoạn đó. Như vậy, triết lý giáo dục phải được xây dựng từ chính thực tiễn của từng giai đoạn lịch sử, phù hợp với hoàn cảnh của từng thời kỳ lịch sử, và không thể có triết lý giáo dục chung chung phù hợp với tất cả các môi trường đặc thù cũng như ở mọi thời đại. Và như thế, không thể áp dụng triết lý giáo dục của dân tộc này cho dân tộc khác, hay của giai đoạn lịch sử này cho giai đoạn lịch sử khác.Triết lý giáo dục chỉ có thể đúng đắn và phát huy được tác dụng chỉ đạo giáo dục - đào tạo khi nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, môi trường và điều kiện, mục tiêu cụ thể của mỗi nước, dân tộc hoặc đơn vị, tổ chức nhất định nào đó mà thôi. 3 Nguyễn Anh Tuấn, Triết học với việc xây dựng triết lý giáo dục trong đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay 530
  4. Nói như thế không có nghĩa là mỗi đơn vị, tổ chức giáo dục có những triết lý giáo dục riêng và không bị chi phối hay ảnh hưởng của triết lý chung. Trên thực tế, triết lý giáo dục của một đất nước sẽ là định hướng căn bản cho triết lý giáo dục của các đơn vị, tổ chức giáo dục cụ thể trong đất nước đó. Tuy nhiên, căn cứ vào mục tiêu giáo dục - đào tạo của từng đơn vị, tổ chức trong những giai đoạn lịch sử cụ thể để điều chỉnh triết lý giáo dục của đơn vị mình cho phù hợp với thực tiễn, nhằm hướng đến những kỳ vọng, mong mỏi của đơn vị, tổ chức đối với mỗi công dân trong việc đóng góp trí tuệ, sức lực, trách nhiệm bản thân cống hiến cho đơn vị, tổ chức và trên hết là đất nước mình. Quay trở lại vấn đề sự khác biệt giữa triết học nghiên cứu về giáo dục và triết lý giáo dục để chúng ta nhận diện tính đặc trưng của triết lý giáo dục và từ đó hiểu hơn về bản chất của triết lý giáo dục. Triết học giáo dục nghiên cứu giáo dục như một chỉnh thể thống nhất, từ đó sẽ đưa các phạm trù lý luận có tính khái quát cao, tính hệ thống và tính lôgíc chặt chẽ. Triết lý là những tư tưởng cốt lõi được đúc kết từ một lĩnh vực hoạt động thực tiễn cụ thể hoặc rút ra từ các hệ thống triết học có thể chỉ đạo cho suy nghĩ và hành động của con người trong một lĩnh vực nhất định. Triết lý có thể thể hiện ở những phát biểu ngắn gọn, súc tích dưới dạng ngôn ngữ, và có thể được chuyển tải thông qua các loại hình văn học nghệ thuật. Và vì thế triết lý giáo dục thường là sự bàn bạc những vấn đề cụ thể, phong phú, tản mạn, nó là sự phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng vấn đề của giáo dục chưa có tính hệ thống, tính lôgíc chặt chẽ như ở triết học giáo dục. Trong bối cảnh hiện nay, các nhà nghiên cứu giáo dục đều khẳng định vai trò quan trọng của triết lý giáo dục. Phạm Minh Hạc khẳng định giá trị bản thân là nét đặc trưng của triết lý giáo dục thời đại, lấy người tài làm đầu tàu, nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục là giúp thế hệ trẻ hình thành, phát huy giá trị bản thân - lực lượng bản chất - tâm lực, trí lực, thể lực của từng người. Giá trị bản thân là giá trị sống của mỗi người, gồm: tâm lực, trí lực, thể lực. Trong Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, Phạm Minh Hạc cho rằng: Triết lý giáo dục là thực tế giáo dục đã được con người, cộng đồng, xã hội trải nghiệm - cái đã trải qua và nghiệm thấy, tức là đã cảm nhận, biết đến, hiểu ra, ý thức được - được đúc kết lại thành một giá trị được biểu đạt trong câu ngắn gọn, ca dao, tục ngữ, cụm từ… nhằm truyền đạt, tiếp thu và thể hiện trong cuộc sống, mang lại một giá trị nhất định cho con người, cộng đồng, xã hội, duy trì và làm này nở cái đúng, tốt đẹp, ngăn ngừa, sửa chữa, loại trừ cái sai, cái ác, cái xấu4. 4 Phạm Minh Hạc (2011), Triết lý giáo dục Thế giới và Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 531
  5. 3. Sự cần thiết tạo lập triết lý nhân văn trong giáo dục Năm 1996, vấn đề triết lý giáo dục của thời đại đã được Jacques Delors, chủ tịch Uỷ ban về giáo dục của UNESCO đưa ra xoay quanh 4 vấn đề: Học để biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung sống. Báo cáo của chủ tịch Uỷ ban về giáo dục của UNESCO chính là tuyên ngôn triết lý về giáo dục thế kỷ XXI, trong đó chứa đựng những nội dung phản ánh các mối quan hệ: Quan hệ giữa giáo dục đào tạo và quyền con người Quan hệ giữa giáo dục đào tạo và lao động, việc làm Quan hệ giữa giáo dục đào tạo và văn hóa, xã hội Quan hệ giữa giáo dục đào tạo và nghiên cứu, khoa học công nghệ Quan hệ giữa giáo dục đào tạo và phát triển bền vững Trong các mối quan hệ đó, quan hệ giữa giáo dục đào tạo và quyền con người cùng với các vấn đề văn hóa chính là vấn đề cốt lõi của giáo dục để hình thành nên con người phát triển đúng với bản chất văn hóa của mình. Nói cách khác, giáo dục định hướng tạo ra con người nhân văn với các đặc điểm thuộc tính người đặt trong các mối quan hệ xã hội mà không một thực thể sinh vật nào trên thế giới này có được. Trên cơ sở mục tiêu lý tưởng xã hội xã hội chủ nghĩa và định hướng về giáo dục và đào tạo của Đảng, ta có thể khái quát triết lý giáo dục Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: Giáo dục nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tư tưởng trên của Đảng về giáo dục và đào tạo đáp ứng được yêu cầu của triết lý giáo dục, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đất nước. Tuy nhiên, theo chúng tôi đây vẫn là những mục tiêu khá chung. Như TS. Giáp Văn Dương, cho rằng triết lý giáo dục không là gì khác ngoài câu trả lời cho câu hỏi mấu chốt: Toàn bộ hoạt động của hệ thống giáo dục hướng đến đào tạo ra con người nào, và vì sao lại như vậy? Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, con người cần có những phẩm chất và năng lực như thế nào để thích ứng và đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập? Trả lời cho câu hỏi này chúng ta sẽ lý giải được tại sao lại đặt vấn đề sự cần thiết phải tạo lập và đề cao triết lý nhân văn, khai phóng trong giáo dục. Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng, nguồn gốc của mọi của mọi sự phát triển trước hết phải xuất phát từ dân trí và nhân lực, nhân tài của mỗi quốc 532
  6. gia. Giáo dục là chìa khóa để kích hoạt các năng lực thiên bẩm của con người mà nếu không có giáo dục thì nó không thể thăng hoa thậm chí không có cơ hội để xuất hiện. Xét ở góc độ xã hội, giáo dục cũng là chìa khóa để mở toang cánh cửa trí thức. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, con người cần được giáo dục toàn diện cả về trí dục (trí tuệ), đạo đức, giáo dục kỹ năng, giáo dục tay nghề (giáo dục lao động), giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất. Các mục tiêu và nhiệm vụ này cần được đồng bộ nhằm phát triển toàn diện con người – đó cũng là mục tiêu của phát triển con người bền vững. Giáo dục nhân văn trong triết lý giáo dục là hướng con người tới việc nắm vững các nguyên tắc và những chuẩn mực đạo đức xã hội, là giúp con người khẳng định bản chất người của mình và từ đó những kinh nghiệm, kỹ năng, phẩm chất khác được hoàn thiện. Sự khác biệt giữa con người với động vật chính là tính nhân văn mang bản chất xã hội được thể hiện qua các hoạt động thực tiễn. Đặt trong bối cảnh Việt Nam, yêu cầu cần thiết của nguồn nhân lực hiện tại và tương lai là sự phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe cường tráng, năng lực thực tiễn, phương pháp tư duy độc lập, tác phong làm việc hiệu quả, tự tin, năng động, đời sống tinh thần phong phú và có ý chịu trách nhiệm. Phẩm chất nhân cách trong thời đại mới không đơn thuần là các giá trị đạo đức của con người mà còn là năng lực thực tiễn, phương pháp tư duy độc lập và trách nhiệm công dân. Bởi vì, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi ở con người năng lực làm chủ, khả năng linh hoạt và những kỹ năng mềm, tức là cần con người hành động với năng suất và hiệu suất cao, có đầu óc và trải nghiệm phong phú về văn hóa, khoa học, tinh thần dân chủ, ý thức quảng bác, tinh thần tiến bộ, nhân văn. Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục Việt Nam có những điều kiện để hướng đến những giá trị, phẩm chất căn cốt nhất của con người, vì con người. 4. Sự thích ứng của giáo dục Việt Nam và một số khuyến nghị về việc đề cao triết lý nhân văn trong giáo dục Với sự phát triển nhảy vọt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất, chuyển sang nền kinh tế tri thức cùng xu thế toàn cầu hóa. Các nước có trình độ phát triển cao, đã nhanh chóng dẫn đầu vào xu thế đó, bên cạnh đó, nhiều nước xuất phát thấp hơn cũng chớp cơ hội, đi tắt đón đầu vào nền kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó, hầu hết tất cả các nước đều đưa ra chủ trương xem tài nguyên con người là chìa khóa cho tăng trưởng và phát triển bền vững 533
  7. Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Để tiếp tục thực hiện thành công lý tưởng xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã cụ thể hóa mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thành tám đặc trưng, trong đó đặc trưng xây dựng xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là đặc trưng xuyên suốt. Đồng thời Cương lĩnh cũng đã định hướng: giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực bồi dưỡng nhân tài góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo cho nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Một số những biểu hiện của việc thiết lập và đề cao triết lý nhân văn, khai phóng trong giáo dục ở Việt Nam hiện nay Thứ nhất, những năm gần đây các trường học nhất là các trường đại học, căn cứ vào sứ mạng/chức năng, nhiệm vụ cũng như đặc thù của trường (loại hình, lĩnh vực) và địa phương, khu vực đã xây dựng nên triết lý giáo dục phù hợp với trường đáp ứng yêu cầu phát triển dài hạn của trường trong tương lai. Đây là nội dung thể hiện tầm chiến lược của các trường đại học để hướng tới sự phát triển ổn định, bền vững. Cụ thể như nhiều trường đại học lựa chọn triết lý giáo dục khai phóng hướng đến tự do học thuật, tự chủ và trách nhiệm giải trình, dân chủ, sáng tạo. Đây cũng là một xu hướng của giáo dục đại học thế giới hiện đại (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Ngoại Thương, Đại học Việt Nhật, Đại học An Giang,…). Hay nhiều trường lựa chọn triết lý giáo dục vì cộng đồng (phụng sự, phục vụ cộng đồng) như một phương châm phát triển của trường. Điều này sẽ phát huy tính nhân dân, tính đại chúng của giáo dục đại học (Đại học Bình Dương, Đại học Khoa học tự nhiên tp Hồ Chí Minh, Đại học Công nghệ thông tin thuộc ĐHQG tp Hồ Chí Minh, Đại học quốc tế Miền Đông,…). Hay nhiều trường chọn tính nhân văn/ nhân bản làm triết lý giáo dục của mình, đề cao giáo dục để làm người, đây cũng là một xu hướng phù hợp với bối cảnh xã hội đang đối mặt với những vấn đề của sự tha hóa nhân tính/đạo đức, sự phi nhân bản đang có xu hướng gia tăng (Đại học Quốc tế miền Đông, Đại học Duy Tân, Đại học Sư phạm Kỹ thuật tp Hồ Chí Minh,…). 534
  8. Thứ hai, triết lý giáo dục của các trường đã đăng tải trên website/cổng thông tin thể hiện trong Sứ mạng, Tầm nhìn, Giá trị cốt lõi và Chiến lược phát triển. Việc tuyên bố chính thức minh bạch sẽ giúp các trường có sự hoạch định và định hướng các hoạt động theo các triết lý giáo dục của mình. Điều này sẽ thể hiện tư duy đổi mới và cách tiếp cận chuyên nghiệp, nghiêm túc để hòa vào sự phát triển của giáo dục trên toàn thế giới. Đây cũng là sự gợi mở để các trường học ở các cấp có cách thức tiếp cận mới trong giáo dục, vừa đảm bảo được định hướng chung vừa mang tính chuyên nghiệp và khác biệt trong giáo dục. Nó cũng mở ra nhiều lựa chọn cho phụ huynh và học sinh, cho người học trong bối cảnh xã hội hóa giáo dục như hiện nay. Thứ ba, phần nhiều triết lý giáo dục của các trường đã có sự thích ứng với điều kiện mới, có xu hướng tích hợp, kế thừa có chọn lọc nhiều giá trị khác nhau từ các triết lý giáo dục hiện đại trên thế giới cũng như truyền thống Việt Nam mà không phải tập trung vào 1 triết lý đơn nhất chủ đạo. Điều này rất phù hợp với tính đa dạng, phong phú của các xu hướng phát triển giáo dục trên thế giới. Tuy nhiên, cũng cần tránh sự phân tán, thiếu trọng điểm và thiếu bản sắc. Một số khuyến nghị nhằm đề cao triết lý nhân văn trong giáo dục ở Việt Nam Một là, cần có sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu giáo dục, giáo viên trực tiếp giảng dạy các cấp trong việc hoàn thiện triết lý giáo dục phù hợp với bối cảnh hiện nay. Ở Việt Nam hiện nay, có một thực tế dễ nhận thấy là chưa có một triết lý mang tính chính thống, được sự nghiên cứu vào cuộc của các ban ngành, các nhà nghiên cứu giáo dục, các nhà quản lý giáo dục. Cho nên, sự tản mạn và không thống nhất là điểm nổi bật trong việc khẳng định triết lý giáo dục nhằm định hướng cho nền giáo dục. Vì thế, hơn bao giờ hết, cần có sự phối hợp trong việc nghiên cứu lý luận cũng như từ đó đưa ra các chiến lược, chính sách phù hợp Hai là, ban hành triết lý giáo dục thống nhất. Đây là giải pháp nhằm tác động vào những điều kiện trực tiếp, quy trình cụ thể, nội dung chi tiết của triết lý giáo dục. Về phía Bộ Giáo dục - Đào tạo cần có một văn bản pháp quy, quy định những nội dung về triết lý giáo dục vừa mang tính định hướng, chỉ đạo, vừa gợi mở những giải pháp tổng thể cho các cấp giáo dục. Ở cấp trường, trên cơ sở định hướng mỗi trường phải xây dựng những cách tiếp cận giáo dục phù hợp (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) Ba là, cần chú trọng mục tiêu giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, trong đó chú trọng những phẩm chất mới cần thiết bên cạnh các cách tiếp cận truyền thống. Chúng ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hóa hội nhập quốc tế cùng với những yêu cầu khắt khe của bối cảnh phát triển 535
  9. mới đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao. Mặt khác, những biến động mới của cuộc sống con người, những xung đột của chính con người tạo ra hay sự tác động của thiên nhiên đã đặt con người trước sự “thức tỉnh” để tìm về chính bản ngã của mình cũng như loài người tìm về những giá trị nhân văn nguyên thủy. Khi khoa học phát triển vượt bậc thì những vấn đề nhân sinh và nhân văn lại cần được cất lên tiếng nói để bảo vệ con người. Đó là lúc triết lý nhân văn trong giáo dục cần được đề cao hơn bao giờ hết. Bốn là, chương trình giáo dục cần được thay đổi phù hợp với cách tiếp cận mới. Thực tế, Bộ giáo dục đã có những bước đi trong việc đổi mới chương trình ngày càng phù hợp. Qúa trình đổi mới này chính là sự đổi mới trong cách tiếp cận vấn đề giáo dục, đổi mới cách tiếp cận chứ không phải thay đổi các nội dung hay modul cụ thể. 5. Kết luận Giáo dục con người là một quá trình lâu dài với những bước đi thích hợp nhưng cũng cần có những bước nhảy vọt. Triết lý giáo dục cần được nhận thức là một hệ giá trị nền tảng có vai trò chi phối toàn bộ các hoạt động giáo dục, có tính quyết định đến sự phát triển của nền giáo dục. Vì thế, nếu chưa hình thành được một triết lý giáo dục phù hợp có nghĩa rằng chúng ta chưa tìm thấy con đường để đi đến mục tiêu của giáo dục. Sự nhận thức đó giúp chúng ta có hướng đi để giải quyết nhiều vấn đề còn bế tắc và khó khăn trong nhiệm vụ giáo dục. Ở hướng tiếp cận này, chúng tôi tiếp tục đề xuất định hướng giáo dục nhân văn trong cách tiếp cận triết lý giáo dục nhằm khẳng định hơn nữa sự cần thiết giáo dục các giá trị con người bởi muốn thành tài trước hết phải “thành người”. Đó cũng là truyền thống trong suốt hàng nghìn năm xây dựng và phát triển của ông cha ta. Sự kết hợp giữa nhân văn và khai phóng như là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại cho hướng đi mới của giáo dục con người Việt Nam hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. John Dewey, Về giáo dục, Nxb Trẻ, Tp. HCM, 2012. 2. Phạm Minh Hạc (2013), Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia 3. Nguyễn Anh Tuấn, Triết học với việc xây dựng triết lý giáo dục trong đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay, tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/.../Triet%20ly%20giao%20duc.do 4. Thái Duy Tuyên (2007) Triết học giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội 2007. 536
nguon tai.lieu . vn