Xem mẫu

  1. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 92 93 46 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC r ằng bản thân sở hữu tư nhân chỉ đơn thuần dựa vào ý chí tư M ỗi khi sự phát triển của công thương nghiệp tạo ra những hình thức giao tiếp mới, chẳng hạn như những công ty bảo hiểm, nhân, vào sự tuỳ tiện định đoạt các vật thôi. Trong thực tế, khái niệm abuti1* có những giới hạn kinh tế rất xác định đối với người tư v.v., thì luật pháp buộc phải luôn luôn chấp nhận đó là những hình thức mới của việc chiếm hữu sở hữu. hữu, nếu như anh ta không muốn rằng sở hữu của anh ta, và cùng với sở hữu đó là jus abutendi2* của anh ta, chuyển vào tay người khác; vì [ 3. Những công cụ sản xuất tự nhiên và những nếu chỉ xem xét vật trong những mối quan hệ của nó với ý chí của công cụ sản xuất do nền văn minh tạo ra người tư hữu thì vật hoàn toàn không phải là vật mà chỉ trong quá và các hình thức sở hữu] trình giao tiếp và độc lập đối với quyền (mối q uan hệ m à các nhà triết học gọi là ý niệm3 * ) thì vật mới trở thành vật, thành một sở ... 1* T ừ điểm thứ nhất, chúng ta có được tiền đề là sự phân công hữu hiện thực. Khi quan hệ sở hữu phát triển hơn nữa thì cái ảo lao động đã phát triển và một nền thương nghiệp rộng lớn; từ điểm tưởng pháp lý đó, cái ảo tưởng quy quyền và độc một mình ý chí, thứ hai, chúng ta có tính địa phương. Trong trường hợp thứ nhất, không tránh khỏi đưa đến tình hình là một người nào đó có thể có các cá nhân phải được tập hợp lại với nhau; trong trường hợp thứ một quyền lực pháp lý nào đó đối với một vật mà trên thực tế lại hai, bản thân họ xuất hiện với tư cách là công cụ sản xuất bên không chiếm hữu vật đó. Ví dụ, do cạnh tranh một miếng đất nào đó cạnh những công cụ sản xuất đã có. Thế là ở đây, xuất hiện sự không đem lại địa tô nữa, nhưng người sở hữu miếng đất vẫn tiếp tục khác nhau giữa những công cụ sản xuất tự nhiên và những công cụ có quyền lực pháp lý cùng với jus utendi et abutendi đối với miếng sản xuất do nền văn minh tạo ra. Ruộng (nước, v.v.) có thể coi là đất ấy. Nhưng quyền ấy chẳng được tích sự gì cho anh ta cả: với tư công cụ sản xuất tự nhiên. Trong trường hợp thứ nhất, nghĩa là cách là người sở hữu ruộng đất, anh ta chẳng có gì hết nếu như ngoài với những công cụ sản xuất tự nhiên thì các cá nhân bị phụ thuộc ra, anh ta lại không có đủ vốn để cày cấy mảnh đất của mình. Ảo vào tự nhiên; trong trường hợp thứ hai, họ bị phụ thuộc vào một tưởng ấy của các luật gia giải thich vì sao họ và bất cứ bộ luật nào sản phẩm của lao động. Vì vậy, trong trường hợp thứ nhất, sở cũng đều cho rằng việc những cá nhân đặt quan hệ với nhau, như ký hữu (sở hữu ruộng đất) cũng xuất hiện ra là sự thống trị trực tiếp kết giao kèo chẳng hạn, là thuần túy ngẫu nhiên, và coi những quan hệ và tự nhiên; còn trong trường hợp thứ hai, sở hữu xuất hiện ra là đó là những quan hệ mà người ta có thể tùy ý tham gia hay không sự thống trị của lao động, đặc biệt là của lao động tích luỹ, của và nội dung của những quan hệ ấy là hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn tư bản. Trường hợp thứ nhất giả định trước rằng các cá nhân tùy tiện có tính chất cá nhân của những bên ký kết. được liên hiệp lại với nhau bằng một mối liên hệ nào đó - hoặc là gia đình, bộ lạc, hay thậm chí đất đai, v.v.; trường hợp thứ hai giả định trước rằng họ khô ng p hụ thuộc lẫn nhau và chỉ gắ n bó với nhau bằng sự trao đổi thôi. Trong trườn g hợp thứ nhất, 1* - lạm dụng 2* - quyền lạm dụng 3* Mác ghi ở ngoài lề: "Quan hệ đối với các nhà triết học = ý niệm. Họ chỉ biết có quan hệ "của con người" với bản thân con người và vì thế đối với họ, tất cả 1* mọi quan hệ hiện thực đều trở thành ý niệm". Ở đây, thiếu mất bốn trang bản thảo
  2. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 94 95 47 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC s ự trao đổi thì chủ yếu là trao đổi giữa người với tự nhiên, một có thể tạo ra mâu thuẫn đó. Như vậy là chỉ với công nghiệp lớn, mới có khả năng xoá bỏ được sở hữu tư nhân. sự trao đổi trong đó lao động của con người được đổi lấy sản phẩm của tự nhiên; trong trường hợp thứ hai thì chủ yếu là Trong công nghiệp lớn và trong cạnh tranh, tất cả các điều trao đổi giữa người với người. Trong trường hợp thứ nhất, con kiện tồn tại, tất cả những tính quy định, tất cả những tính phiến người chỉ cần có một trí tuệ trung bình là đủ, hoạt động chân tay diện của các cá nhân đều hoà vào trong hai hình thức đơn giản và hoạt động trí óc còn hoàn toàn chưa tách rời nhau; trong nhất; sở hữu tư nhân và lao động. Tiền tệ làm cho mọi hình thức trường hợp thứ hai, sự phân công giữa lao động trí óc và lao giao tiếp và bản thân sự giao tiếp trở thành cái ngẫu nhiên đối với động chân tay phải được hoàn thành trong thực tiễn rồi. Trong các cá nhân. Như vậy là, tiền tệ đã bao hàm điều sau đây: mọi sự trường hợp thứ nhất, sự thống trị của người có sở hữu đối với giao tiếp trước đây chỉ là những sự giao tiếp của các cá nhân trong những điều kiện nhất định, chứ không phải là những sự giao tiếp những người không có sở hữu có thể dựa vào những quan hệ con giữa các cá nhân với tư cách là những cá nhân. Những điều kiện ấ y người, vào một dạng nào đó của thể cộng đồng [Gemeinwesen], rút lại chỉ còn có hai: lao động tích luỹ hay sở hữu tư nhân, và lao trong trường hợp thứ hai, sự thống trị ấy đã phải mang hình thức động hiện thực. Nếu một trong hai điều kiện ấy không còn nữa thì vật chất, thể hiện dưới dạng một cái thứ ba, - tiền. Trong trường sự giao tiếp cũng ngừng lại. Bản thân những nhà kinh tế học hiện hợp thứ nhất, công nghiệp nhỏ tồn tại nhưng phụ thuộc vào việc đại - như Xi-xmôn-đi, Séc-buy-li-ê, v.v. - cũng đem association des sử dụng những công cụ sản xuất tự nhiên, vì vậy ở đây không có individus 1* đ ối lập với association des capitaux 2* . Mặt khác, bản sự phân phối lao động giữa những cá nhân khác nhau; trong thân các cá nhân cũng hoàn toàn bị sự phân công lao động chi trường hợp thứ hai, công nghiệp dựa vào phân công lao động và phối, và do đó họ ở vào hoàn cảnh hoàn toàn phụ thuộc lẫn nhau. chỉ nhờ sự phân công lao động đó mới tồn tại được. Sở hữu tư nhân, trong chừng mực mà trong khuôn khổ của lao động Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn xuất phát từ công cụ sản xuất, nó đối lập với lao động, thì phát triển lên do sự cần thiết phải tích và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của sở hữu tư nhân ở những luỹ. Lúc đầu, đại bộ phận của nó vẫn tiếp tục duy trì hình thức cộng giai đoạn phát triển công nghiệp nhất định. Trong industrie đồng [Gemeinwesen], nhưng trong sự phát triển về sau, nó ngày càng extractive 1 * , sở hữu tư nhân còn hoàn toàn ăn khớp với lao động; xích gần lại hình thức hiện đại của sở hữu tư nhân. Ngay từ đầu, sự trong công nghiệp nhỏ và trong toàn bộ nông nghiệp, cho tới phân công lao động đã bao hàm sự phân chia điều kiện l ao động, công cụ lao động và vật liệu, và do đó cũng bao hàm cả sự chia nhỏ nay, sở hữu là hậu quả tất yếu của những công cụ sản xuất hiện tư bản tích luỹ giữa những người sở hữu khác nhau, và do đó bao hàm có; trong công nghiệp lớn thì mâu thuẫn giữa công cụ sản xuất cả sự chia cắt giữa tư bản và lao động, cũng như những hình thức khác và sở hữu tư nhân chỉ là sản vật của nền công nghiệp lớn, và nền nhau của bản thân chế độ sở hữu nữa. Sự phân công lao động càng công nghiệp lớn này phải đạt đến một trình độ phát triển cao mới 1* - sự liên hợp của các cá nhân 1* 2* - công nghiệp khai khoáng - sự liên hợp của những tư bản
  3. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 96 97 48 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC p hát triển và tích luỹ ngày càng tăng thì sự chia cắt ấy càng trở k ỳ trước kia, sự tự mình hoạt động và sự sản xuất ra đời sống vật chất bị tách rời nhau chỉ vì chúng rơi vào những người khác nhau nên rõ rệt. Bản thân lao động chỉ có thể tồn tại với điều kiện có sự và vì sự sản xuất ra đời sống vật chất còn được coi là một phương chia cắt đó. thức thứ yếu của sự tự mình hoạt động do tính hạn chế của bản Như vậy là ở đây biểu lộ hai sự kiện1*. Một là, những lực lượng thân các cá nhân mà ra, thì hiện nay sự tự mình hoạt động và sự sản sản xuất xuất hiện như một cái gì đó hoàn toàn độc lập và tách rời xuất ra đời sống vật chất đã tách rời nhau đến mức nói chung, đời các cá nhân như một thế giới riêng, ở bên cạnh các cá nhân; sở dĩ sống vật chất xuất hiện với tính cách là mục đích, còn sự sản xuất như vậy là vì các cá nhân, mà lực lượng sản xuất là lực lượng của ra đời sống vật chất ấy, tức là lao động, (hiện nay lao động là hình họ, tồn tại với tư cách là những cá nhân phân tán và đối lập với thức duy nhất có thể có, nhưng như chúng ta thấy, là hình thức phủ nhau, trong khi đó thì mặt khác, những lực lượng ấy chỉ là lực định của sự tự mình hoạt động) xuất hiện với tính cách là phương lượng hiện thực trong sự giao tiếp và sự liên hệ giữa các cá nhân tiện. ấy. Như vậy, một mặt chúng ta có một tổng thể những lực lượng Như vậy, tình hình hi ện nay đã đi đến chỗ là các cá nhân phải sản xuất, nó mang một hình thức tựa như một hình thức vật chất và chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất hiện có, không những đối với bản thân các cá nhân, nó đã không còn là lực lượng của các chỉ để thực hiện sự tự mình hoạt động, mà nói chung là để bảo cá nhân nữa mà là lực lượng của sở hữu tư nhân và do đó chỉ là lực đảm sự tồn tại của mình. Sự chiếm hữu đó trước hết được quy định lượng của các cá nhân chừng nào những cá nhân này là những kẻ tư bởi đối tượng cần chiếm hữu, ở đây là những lực lượng sản xuất hữu. Trong bất cứ thời kỳ nào trước kia, không bao giờ những lực đã phát triển thành một tổng thể xác định và chỉ tồn tại trong lượng sản xuất lại mang hình thức ấy, một hình thức không có liên khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến. Dưới góc độ này, sự chiếm quan gì với sự giao tiếp giữa các cá nhân với tư cách là các cá nhân, hữu đó đã nhất thiết phải có tính chất phổ biến, phù hợp với vì sự giao tiếp ấy còn là sự giao tiếp hạn chế. Mặt khác, đối lập với những lực lượng sản xuất và với sự giao tiếp. Bản thân sự chiếm những lực lượng sản xuất ấy, ta thấy có đa số các cá nhân mà hữu những lực lượng đó chẳng phải là cái gì khác hơn là sự phát những lực lượng ấy đã bị tách khỏi, do đó những cá nhân ấy bị tước triển những năng lực cá nhân cho phù hợp với những công cụ sản mất mọi nội dung hiện thực của đời sống của họ, và trở thành xuất vật chất. Chỉ riêng vì lẽ đó thôi, sự chiếm hữu một tổng thể những cá nhân trừu tượng, nhưng cũng chính do đó, họ mới có khả nhất định những công cụ sản xuất cũng đã là sự phát triển một năng liên hệ với nhau với tư cách là những cá nhân . tổng thể nhất định những năng lực trong bản thân các cá nhân. Mối liên hệ duy nhất còn gắn liền họ với lực lượng sản xuất và Ngoài ra, sự chiếm hữu đó còn được quy định bởi những cá nhân với sự tồn tại của bản thân họ - tức là lao động - đã mất chiếm hữu. Chỉ có những người vô sản thời nay, hoàn toàn bị mọi vẻ bề ngoài là sự tự mình hoạt động và chỉ duy trì đời sống tước mất mọi sự tự mình hoạt động, mới có khả năng đạt tới sự của họ bằng cách làm cho nó tàn lụi đi. Trong khi ở những thời tự mình hoạt động đầy đủ, không hạn chế, đó là sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất và do đó, phát triển tổng thể các năng lực. Tất cả những sự chiếm hữu cách mạng trước kia đều bị hạn chế. Những cá nhân, mà sự tự mình hoạt động bị hạn chế 1* Ăng-ghen ghi ở ngoài lề:"Xi-xmôn-đi".
  4. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 98 99 49 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC lập của bản thân các cá nhân, tức là con đường kiếm kế sinh nhai b ởi một công cụ sản xuất hạn chế và một sự giao tiếp hạn chế, đã riêng biệt của mỗi người, lại trở thành ngẫu nhiên. chiếm hữu công cụ sản xuất hạn chế ấy và do đó chỉ đạt đến một sự hạn chế mới. Công cụ sản xuất của họ trở thành sở hữu của họ, Những cá nhân không còn lệ thuộc vào sự phân công lao động nhưng bản thân họ vẫn lệ thuộc vào sự phân công lao động và vào nữa được các nhà triết học coi là điều lý tưởng và đặt tên là "Con công cụ sản xuất của chính họ. Trong tất cả những sự chiếm hữu người", và toàn bộ quá trình phát triển mà chúng ta đã miêu tả được đã qua, một khối lớn các cá nhân vẫn lệ thuộc vào một công cụ họ coi là quá trình phát triển của "Con người", đến mức là trong sản xuất duy nhất; trong sự chiếm hữu của những người vô sản, mỗi giai đoạn lịch sử đã qua, họ đem "Con người" thay cho những một khối lượng lớn các công cụ sản xuất phải nhất thiết lệ thuộc cá nhân đã tồn tại và đã coi "Con người" là động lực của lịch sử. vào từng cá nhân, còn sở hữu thì phải lệ thuộc vào tất cả mọi cá Như vậy, toàn bộ quá trình được họ coi là quá trình tự tha hoá của nhân. Sự giao tiếp phổ biến hiện đại không thể bị lệ thuộc vào "Con người"; sở dĩ như vậy là vì về cơ bản, họ đã luôn luôn đem cá từng cá nhân bằng bất cứ cách nào, mà chỉ bằng cách lệ thuộc nhân trung bình của giai đoạn sau thay cho những cá nhân của giai vào mọi cá nhân. đoạn trước và đem ý thức của thời sau gắn cho các cá nhân của thời trước. Nhờ sự đảo ngược ấy, một sự đảo ngược ngay từ đầu Ngoài ra, sự chiếm hữu còn được quy định bởi phương thức thực hiện sự chiếm hữu. Sự chiếm hữu chỉ có thể được thực hiện đã gạt bỏ những điều kiện hiện thực, mà người ta đã có thể biến bằng sự liên hợp, - do tính chất của bản thân giai cấp vô sản, toàn bộ lịch sử thành một quá trình phát triển của ý thức. sự liên hợp này chỉ có thể là một sự liên hợp phổ biến, - và bằng * một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng này một mặt lật đổ thế lực ** của phương thức sản xuất và của sự giao tiếp trước đó và cả của cơ cấu xã hội cũ và mặt khác, phát triển tính phổ biến của giai cấp vô sản Sau cùng, quan niệm lịch sử mà chúng ta vừa trình bày còn và nghị lực mà giai cấp vô sản cần có để thực hiện sự chiếm hữu ấy, cho chúng ta kết luận như sau: 1) Trong quá trình phát triển của hơn nữa cuộc cách mạng này sẽ làm cho giai cấp vô sản trút bỏ được những lực lượng sản xuất có một giai đoạn mà trong đó xuất hiện mọi cái rơi rớt lại từ địa vị xã hội cũ của mình. những lực lượng sản xuất và những phương tiện giao tiếp chỉ có thể gây tác hại trong khuôn khổ những quan hệ hiện có, và đã Chỉ tới giai đoạn đó thì sự tự mình hoạt động mới ăn khớp với không còn là những lực lượng sản xuất nữa mà lại là những lực đời sống vật chất, điều đó tương ứng với sự phát triển của các cá lượng phá hoại (máy móc và tiền). Gắn liền với sự kiện này, xuất nhân thành những cá nhân hoàn chỉnh và với sự xoá bỏ mọi tính tự hiện một giai cấp buộc phải chịu đựng tất cả gánh nặng của xã hội phát. Và hệt như vậy sự chuyển hoá của lao động thành sự tự mình hoạt động thì tương ứng với sự chuyển hoá của sự giao tiếp bắt mà không được hưởng những phúc lợi của xã hội, một giai cấp bị buộc trước kia thành sự giao tiếp của các cá nhân với tư cách là gạt ra ngoài xã hội nên không khỏi đối lập một cách kiên quyết những cá nhân. Những cá nhân liên hợp mà chiếm hữu toàn bộ nhất với tất cả các giai cấp khác, một giai cấp do đa số thành viên tổng thể những lực lượng sản xuất thì chế đ ộ tư hữu cũng bị thủ của xã hội họp thành và là giai cấp sản sinh ra ý thức về tính tất tiêu. Nếu như trong lịch sử từ trước tới nay, mỗi điều kiện yếu của một cuộc cách mạng triệt để, ý thức cộng sản chủ nghĩa, ý riêng biệt bao giờ cũng là ngẫu nhiên, thì bây giờ chính sự biệt
  5. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 100 101 50 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC t hức mà dĩ nhiên là sự quan sát tình cảnh của giai cấp đó có thể làm s ạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt theo mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội 1* . nảy sinh ra trong các giai cấp khác; 2) những điều kiện trong đó những lực lượng sản xuất nhất định có thể được sử dụng, là những điều kiện thống trị của một giai cấp nhất định trong xã hội, giai cấp [ C. CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN - SỰ SẢN XUẤT RA mà quyền lực xã hội của nó - quyền lực do sở hữu của nó mang lại, BẢN THÂN HÌNH THỨC GIAO TIẾP] - thường có sự biểu hiện duy tâm - thực tiễn dưới hình thức nhà nước riêng của mỗi thời kỳ, và vì vậy, mọi cuộc đấu tranh cách Chủ nghĩa cộng sản khác với tất cả các phong trào trước kia mạng đều nhằm chống giai cấp đã thống trị cho đến lúc bấy giờ 1* ; ở chỗ nó đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp 3) trong hết thảy các cuộc cách mạng trước đây, tính chất hoạt động trước kia, và lần đầu tiên nó coi một cách có ý thức tất cả những bao giờ cũng vẫn nguyên như cũ, - và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối lao động mới cho những người khác; trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống lại t ính chất hoạt động trước đây, nó xoá bỏ 1* T iếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: "Trong lúc tất cả những người cộng l ao động 2* v à thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản sản, ở Pháp cũng như ở Anh và ở Đức, từ khá lâu đều đã nhất trí công nhận tính tất thân các giai cấp, vì nó được thực hiện bởi một giai cấp không còn yếu ấy của cách mạng, thì thánh Bru-nô vẫn cứ yên tĩnh theo đuổi giấc mơ của được coi là một giai cấp trong xã hội nữa, không được thừa nhận là mình và nghĩ rằng nếu người ta đặt "chủ nghĩa nhân đạo hiện thực", tức là chủ giai cấp và đã biểu hiện sự tan rã của mọi giai cấp, của mọi dân tộc, nghĩa cộng sản, "vào vị trí của chủ nghĩa duy linh" (chủ nghĩa này chẳng có một vị trí nào cả) thì chỉ là để cho chủ nghĩa đó được tôn trọng mà thôi. Lúc đó - ông tiếp v.v., trong khuôn khổ xã hội ngày nay; và 4) để cho ý thức cộng sản tục giấc mơ của ông - "nhất định là sự giải thoát sẽ đến, trái đất sẽ trở thành thiên chủ nghĩa đó nảy sinh ra được trong đông đảo quần chúng, cũng đường và thiên đường sẽ trở thành trái đất". (Nhà thần học của chúng ta không tài như để đạt được chính ngay mục đích ấy thì cần phải có một sự nào quên được thiên đường). "Lúc đó thì niềm hân hoan và lạc thú đời đời sẽ vang biến đổi của đông đảo quần chúng, sự biến đổi này chỉ có thể lên giữa những sự hài hoà thiên giới" (tr.140). Đức cha thiêng liêng sẽ hết sức kinh thực hiện được trong một phong trào thực tiễn, trong c ách mạng ; ngạc khi cái ngày phán quyết cuối cùng đến một cách bất ngờ đối với ngài, cái ngày trong đó tất cả những điều đó sẽ được thực hiện, - cái ngày mà buổi bình do đó, cách mạng là tất yếu không những vì không thể lật đổ giai minh sẽ là ánh lửa của những thành phố rực cháy, khi mà giữa những "sự hài hoà cấp t hống trị b ằng một phương thức nào khác mà còn vì chỉ có thiên giới" đó, sẽ vang lên âm điệu của bài "Mác-xây-e" và bài "Các-ma-nô-la" có trong cách mạng giai cấp đ i l ật đổ giai cấp khác mới có thể quét kèm theo tiếng gầm tất nhiên của súng đại bác, còn máy chém thì sẽ đánh nhịp; còn "quần chúng" ti tiện sẽ gào lên Ça ira, Ça ira và sẽ thủ tiêu cái "tự ý thức" bằng cái cột đèn19 . Thánh Bru-nô có rất ít cơ sở để vẽ nên bức tranh an ủi lòng người về "niềm hân hoan và lạc thú đời đời" ấy. Chúng ta không muốn thích thú được xây 1* dựng a priori thái độ của thánh Bru-nô vào ngày phán xét cuối cùng. Thật khó mà Mác ghi ở ngoài lề: "Những người ấy quan tâm đến duy trì tình trạng sản xuất quyết định dứt khoát được là có nên quan niệm những người vô sản đang làm cách hiện tại". mạng như là một "thực thể", như là "khối đông" muốn lật đổ sự phê phán, hay như 2* Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: "hình thức hiện đại của hoạt động "sự thăng hoa" của tinh thần, một sự thăng hoa vẫn còn thiếu nồng độ cần thiết để mà dưới đó sự thống trị của..." tiêu hoá được những tư tưởng của Bau-ơ, không?".
  6. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 102 103 51 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC t iền đề xuất hiện một cách tự phát là những sáng tạo của những n hững lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp là quan hệ giữa thế hệ trước đó và nó tước bỏ tính chất tự nhiên của những tiền đề ấy hình thức giao tiếp với hành động hay hoạt động của các cá và đặt chúng dưới quyền lực của các cá nhân đã liên hợp lại. Vì nhân. (Hình thức cơ bản của hoạt động ấy đương nhiên là hình vậy, việc thiết lập chủ nghĩa cộng sản, về thực chất, là có tính thức vật chất, cái hình thức vật chất mà mọi hoạt động khác: tinh chất kinh tế: nó là sự sáng tạo vật chất ra những điều kiện cho sự thần, chính trị, tôn giáo, v.v., đều phụ thuộc vào đó. Đương liên hợp ấy; nó biến những điều kiện hiện có thành những điều nhiên là trong mọi trường hợp, các hình thức khác nhau của đời kiện của sự liên hợp. Tình trạng mà chủ nghĩa cộng sản tạo ra, sống vật chất đều phụ thuộc vào những nhu cầu đã phát triển và chính là cái cơ sở hiện thực loại trừ tất cả những cái gì tồn tại bản thân việc sản xuất ra những nhu cầu ấ y, cũng như việc thoả độc lập đối với các cá nhân trong chừng mực tình trạng hiện có mãn chúng, lại là một quá trình lịch sử không từng thấy có ở con chỉ là một sản phẩm của sự giao tiếp trước đó giữa các cá nhân cừu hay con chó (lập luận chủ yếu của Stiếc-nơ a dversus với nhau. Như vậy là trong thực tiễn, những người cộng sản coi h omi nem1* mà ông ta nêu lên một cách dai dẳng) mặc dầu cả cừu những điều kiện do nền sản xuất và sự giao tiếp trước họ tạo ra lẫn chó, dưới hình thức hiện nay của chúng, đều là những sản là những nhân tố không hữu cơ, nhưng đồng thời họ hoàn toàn phẩm của một quá trình lịch sử, malgré eux2* ). Chừng nào mà mâu không tưởng tượng rằng chủ tâm và sứ mệnh của những thế hệ đã thuẫn kể trên còn chưa xuất hiện thì những điều kiện trong đó các qua là ở chỗ cung cấp vật liệu cho họ, và không cho rằng những cá nhân giao tiếp với nhau đều là những điều kiện thuộc về cá tính điều kiện ấy là không hữu cơ đối với những cá nhân đã tạo ra của họ, đều không phải là một cái gì ở bên ngoài họ; đó là những chúng. Sự khác biệt giữa cá nhân với tư cách là con người với cá điều kiện mà chỉ có trong đó những cá nhân nhất định và tồn tại nhân ngẫu nhiên không phải là một sự khác biệt thuần tuý lô- trong những mối quan hệ nhất định, mới có thể sản xuất ra đời gích, mà là một sự kiện lịch sử. Sự khác biệt ấy có ý nghĩa khác sống vật chất của mình và mọi thứ liên quan với đời sống ấy; thành nhau trong những thời kỳ khác nhau, chẳng hạn như hồi thế kỷ thử đó là những điều kiện của sự tự mình hoạt động của những XVIII, đẳng cấp, và plus ou moins 1* cả gia đình nữa, là một cái cá nhân ấy, và do sự tự mình hoạt động ấy của họ tạo ra 3 * . Như ngẫu nhiên đối với cá nhân. Đó là một sự khác biệt, không phải do vậy là chừng nào mà mâu thuẫn kể trên còn chưa xuất hiện thì chúng ta đề ra cho mỗi thời đại, mà là do bản thân mỗi thời đại tự những điều kiện nhất định trong đó con người tiến hành sản xuất, đề ra giữa những yếu tố khác nhau mà nó thấy có sẵn, và nó đề ra là phù hợp với tính hạn chế thực tế của họ, với sự tồn tại phiến như vậy không phải theo một quan niệm, mà do sức ép của những diện của họ, sự tồn tại mà tính chất phiến diện chỉ bộc lộ ra khi xung đột vật chất của đời sống. Trong số tất cả những cái xuất mâu thuẫn xuất hiện và do đó, chỉ tồn tại đối với những thế hệ hiện như là ngẫu nhiên đối với thời đại sau, ngược lại với thời đại sau. Lúc bấy giờ, điều kiện xuất hiện với tư cách là một trở ngại trước, ngay cả trong những yếu tố mà thời đại sau kế thừa của thời đại trước, - có cả hình thức giao tiếp phù hợp với một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ giữa 1* - chống lại con người 2* - trái với ý muốn của chúng 1* 3* - ít nhiều Mác ghi ở ngoài lề: "Sự sản xuất ra bản thân hình thức giao tiếp".
  7. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 104 105 52 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC n gẫu nhiên, và cái quan điểm cho rằng nó là một trở ngại, cũng khi hình thức giao tiếp tương ứng của nó đã bị thay thế bằng hình được gán cho thời kỳ trước. thức giao tiếp phù hợp với lợi ích có sau, - trong một thời gian dài vẫn tiếp tục nắm một quyền lực truyền thống trong cộng đồng hư ảo Những điều kiện khác nhau ấy lúc đầu là những điều kiện của và độc lập đối với các cá nhân (nhà nước, pháp luật), - quyền lực mà sự tự mình hoạt động, và sau đó, là trở ngại đối với sự tự mình hoạt rốt cuộc, chỉ có cách mạng mới có thể đập tan được. Điều đó cũng động, thì làm thành, trong toàn bộ sự tiến triển lịch sử, một chuỗi giải thích rằng tại sao trong một số vấn đề cho phép chúng ta trình chặt chẽ những hình thức giao tiếp mà mối liên hệ là ở chỗ người bày khái quát hơn thì ý thức đôi khi dường như đi trước những ta thay thế hình thức giao tiếp cũ đã trở thành một trở ngại bằng một hình thức mới phù hợp với những lực lượng sản xuất đã phát quan hệ kinh nghiệm đương thời, đến nỗi trong những cuộc chiến triển hơn, và do đó phù hợp với phương thức hoạt động tiên tiến đấu của một thời đại sau, người ta có thể dựa vào quyền uy của hơn của các cá nhân; hình thức mới này à son tour 1 * l ại trở thành những nhà lý luận của thời trước. trở ngại và lại được thay thế bằng một hình thức khác. Vì ở mỗi Ngược lại, trong những nước như Bắc Mỹ là những nước bắt giai đoạn của sự phát triển lịch sử, những điều kiện ấy là phù đầu sự phát triển của mình ngay bằng một thời đại lịch sử đã phát hợp với sự phát triển đồng thời của những lực lượng sản xuất, triển thì sự phát triển diễn ra rất nhanh. Những nước đó không có nên lịch sử của những điều kiện ấy cũng là lịch sử của những lực tiền đề tự nhiên nào khác hơn là những cá nhân đến sinh cơ lập lượng sản xuất đang phát triển và được mỗi thế hệ mới nắm lấy, nghiệp ở đó và đã phải đến đó vì những hình thức giao tiếp trong và do đó cũng là lịch sử phát triển của những lực lượng của bản các nước cũ không còn phù hợp với những nhu cầu của họ nữa. thân các cá nhân. Như vậy, những nước đó bắt đầu bằng những cá nhân tiên tiến Vì sự phát triển ấy diễn ra một cách tự phát, tức là vì nó nhất của những nước cũ, và do đó bằng hình thức giao tiếp phát không phụ thuộc vào một kế hoạch chung của những cá nhân liên triển nhất phù hợp với những cá nhân ấy, ngay cả trước khi hình hợp một cách tự do với nhau, nên nó xuất phát từ nhiều địa thức giao tiếp ấy được thiết lập trong những nước cũ1 ) . Đó là phương, bộ lạc, dân tộc, ngành nghề, v.v. khác nhau, lúc đầu phát trường hợp của tất cả các thuộc địa trong chừng mực chúng triển độc lập với nhau và chỉ liên hệ dần dần với nhau. Hơn nữa, không phải chỉ đơn thuần là những căn cứ quân sự ha y thương sự phát triển ấy chỉ tiến triển rất chậm; những giai đoạn và lợi ích nghiệp. Các-ta-giơ, những thuộc địa của Hy Lạp và Ai-xơ-len hồi khác nhau không bao giờ bị hoàn toàn vượt quá mà chỉ bị lệ thuộc thế kỷ XI và XII là những thí dụ về điều đó. Tình hình tương tự vào những lợi ích đang chiến thắng, và chúng vẫn tiếp tục tồn tại lay lắt bên cạnh những lợi ích đó trong hàng thế kỷ. Thành thử ngay trong cùng một dân tộc, những cá nhân, dù không tính đến những điều kiện tài sản của họ, cũng có những quá trình phát 1) Nghị lực cá nhân của những cá nhân thuộc các dân tộc khác nhau - người Đức và người triển hoàn toàn khác nhau, và cũng do đó một lợi ích có trước - Mỹ - nghị lực đã do sự lai tạp chủng tộc mà có, - do đó mà người Đức thật sự là đần độn; ở Pháp, ở Anh, v.v., các dân tộc khác đến lập nghiệp trên một miếng đất đã phát triển và ở Mỹ, các dân tộc khác đến lập nghiệp trên một miếng đất còn mới nguyên; ở Đức, dân bản 1* xứ vẫn hoàn toàn không nhúc nhích gì cả. - đến lượt nó
  8. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 106 107 53 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC xã hội ấy phải biến đổi cho phù hợp với những lực lượng sản xuất c ũng nảy sinh trong trường hợp có sự chinh phục, khi người ta du nhập vào nước bị chinh phục một hình thức giao tiếp có sẵn và đã hiện có. Điều đó giải thích một sự việc mà người ta nhận thấy ở khắp phát triển trên một mảnh đất khác. Trong khi ở quê hương của nó, mọi nơi trong thời gian sau các cuộc di cư là: trên thực tế, hình thức này hãy còn mang nặng những lợi ích và những quan hệ tớ lại là chủ, và kẻ đi chinh phục lại nhanh chóng tiếp thu ngôn ngữ, của các thời đại đã qua, thì ở đây, nó lại có thể và phải được xác văn hoá, và phong tục của dân tộc bị chinh phục. Chế độ phong kiến lập trọn vẹn và không gặp trở ngại nào, dù chỉ là để bảo đảm hoàn toàn không phải là được mang từ nước Đức đến dưới dạng đã quyền lực lâu dài cho kẻ xâm lăng. (Nước Anh và Na-plơ sau khi bị có sẵn; nó bắt nguồn từ tổ chức quân sự của những người man rợ người Noóc-măng chinh phục đã tiếp thu hình thức hoàn bị nhất của ngay trong thời kỳ đi chinh phục, và chỉ sau khi chinh phục,tổ chức tổ chức phong kiến). ấy mới phát triển thành chế độ phong kiến thực sự, nhờ tác động của những lực lượng sản xuất có sẵn trong các nước bị chinh phục. Sự Không có gì thông thường hơn là quan niệm cho rằng trong lịch thất bại trong những mưu toan định đặt ra những hình thứckhác dựa sử từ trước tới nay, dường như vấn đề chỉ là những s ự chiếm đoạt . theo những tàn tích của La Mã thời cổ (Sác-lơ-ma-nhơ Đại đế, v.v.) Những người man rợ chiếm đoạt Đ ế quốc La Mã và người ta chứng tỏ rằng hình thức ấy bị những lực lượng sản xuất quy định tới thường giải thích bước quá độ của thế giới thời cổ sang chế độ mức nào. phong kiến bằng sự chiếm đoạt ấy. Nhưng trong sự chiếm đoạt ấy của người man rợ thì vấn đề là xem vào thời gian đó dân tộc bị chinh phục Như vậy là theo quan điểm của chúng tôi, tất cả mọi xung đột có phát triển những lực lượng sản xuất công nghiệp như trường hợp trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản của các dân tộc hiện đại không hay là những lực lượng sản xuất của xuất và hình thức giao tiếp. Ngoài ra, hoàn toàn không cần thiết là họ chủ yếu lại chỉ dựa độc vào sự liên hợp của họ và hình thức mâu thuẫn đã phải đẩy đến cực độ ở trong một nước, mới gây ra cộng đồng [Gemeinwesen] hiện có thôi. Ngoài ra, sự chiếm đoạt những cuộc xung đột trong nước ấy. Sự cạnh tranh với những nước còn do đối tượng bị chiếm đoạt quyết định nữa. Hoàn toàn không phát triển hơn về mặt công nghiệp, cạnh tranh do sự mở rộng của sự thể chiếm đoạt tài sản của một người chủ ngân hàng gồm những giao tiếp quốc tế gây ra, cũng đủ để gây ra một mâu thuẫn loại đó, chứng khoán, nếu kẻ chiếm đoạt không tuân theo những điều ngay cả ở những nước kém phát triển hơn về mặt công nghiệp (chẳng kiện sản xuất và giao tiếp tồn tại trong nước bị chiếm đoạt. Đối hạn như sự cạnh tranh của công nghiệp Anh đã làm bộc lộ giai cấp với toàn bộ tư bản công nghiệp của bất cứ nước cô ng nghiệp vô sản tiềm tàng ở Đức). hiện đại nào thì cũng như vậy. Và sau cù ng, bất cứ ở đâu, sự Như chúng ta đã thấy, mâu thuẫn ấy giữa những lực lượng sản chiếm đoạt cũng phải nhanh chóng chấm dứt, và khi đã không xuất và hình thức giao tiếp đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ còn gì để chiếm đoạt nữa thì tất nhiên người ta phải bắt ta y vào trước cho đến nay, song vẫn không làm hại đến cơ sở của nó, thì sản xuất. Vì chẳng bao lâu sau, nhất thiết phải tiến hành sản xuất, lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng, đồng thời nên hình thức của chế độ xã hội của những kẻ chinh phục đã ở lại lại mang những hình thức phụ khác nhau như: tổng thể những nơi mình chinh p hục được, phải phù hợp với trình độ p hát xung đột, những sự xung đột giữa các giai cấp khác nhau, những triển của những lực lượng sản xuất mà họ bắt gặp, hoặc nếu mâu thuẫn về ý thức, đấu tranh tư tưởng, v.v., đấu tranh chính như lúc đầu không có ngay sự phù hợp ấy thì hình thức của chế độ
  9. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 108 109 54 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC t rị, v.v.. Đứng trên quan điểm thiển cận, ta có thể nắm lấy một cộng đồng bao gồm những cá nhân chỉ được coi là những cá nhân trong những hình thức phụ đó và coi đó là cơ sở của những cuộc trung bình, chỉ trong chừng mực họ sống trong những điều kiện tồn cách mạng ấy; việc đó càng dễ dàng khi bản thân những cá nhân tại của giai cấp họ, tóm lại, đó là những quan hệ mà họ tham gia, tiến hành cách mạng lại tùy theo trình độ văn hoá của mình và tùy không phải với tư cách là những cá nhân, mà với tư cách là những theo trình độ phát triển của lịch sử mà tự tạo ra cho mình đủ loại thành viên của một giai cấp. Nhưng trong cộng đồng của những ảo tưởng về hoạt động riêng của mình. người vô sản cách mạng là những người kiểm soát được những điều kiện tồn tại của bản thân mình lẫn những điều kiện tồn tại của Sự chuyển hoá những lực lượng cá nhân (quan hệ) thông qua mọi thành viên của xã hội thì tình hình lại ngược lại: các cá nhân phân công lao động, thành những lực lượng vật chất, không thể bị tham gia vào cộng đồng ấy với tư cách là những cá nhân. Nó là xoá bỏ bằng cách loại trừ khỏi đầu óc con người cái quan niệm sự liên hợp của những cá nhân (tất nhiên giả định rằng những lực chung về sự chuyển hoá đó, mà chỉ có thể bị xoá bỏ bằng cách là lượng sản xuất đương thời đã phát triển), một sự liên hợp đặt các cá nhân lại chi phối những lực lượng vật chất ấy và thủ tiêu những điều kiện của sự phát triển tự do và của sự vận động của sự phân công lao động1* . Điều này không thể thực hiện được nếu các cá nhân, dưới sự kiểm soát của nó, - những điều kiện, cho tới không có cộng đồng. Chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được nay, vẫn được phó thác cho ngẫu nhiên và đã tồn tại độc lập đối những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu với các cá nhân riêng lẻ, chính vì họ tách rời nhau với tư cách là của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng, mới có thể có tự do cá những cá nhân và vì họ tất phải liên hợp với nhau, một sự liên nhân. Trong những cộng đồng giả đã tồn tại cho tới nay, - trong nhà hợp do phân công lao động tạo nên nhưng lại trở thành một mối nước v.v. - tự do cá nhân chỉ tồn tại đối với những cá nhân đã phát liên hệ xa lạ đối với họ do họ tách rời nhau. Sự liên hợp từ trước triển trong khuôn khổ của giai cấp thống trị và chỉ trong chừng mực họ tới nay chỉ là sự thoả thuận (hoàn toàn không p hải là tự nguyện, là những cá nhân của giai cấp ấy. Cộng đồng hư ảo, mà các cá nhân như đã được miêu tả trong "Khế ước xã hội" 20 chẳng hạn, mà là đã tập hợp lại trong đó trước đây, bao giờ cũng tồn tại độc lập đối với tất yếu) về những điều kiện trong đó các cá nhân có thể sử dụng họ và vì nó là sự liên hợp của một giai cấp chống lại một giai cấp tính ngẫu nhiên vì lợi ích của mì nh (so sánh chẳng hạn với sự khác, cho nên đối với giai cấp bị trị, nó không những là một cộng hình thành của nhà nước Bắc Mỹ và những nước cộng hoà Nam đồng hoàn toàn hư ảo mà còn là một xiềng xích mới. Trong điều Mỹ). Cái quyền được hưởng tính ngẫu nhiên mà không bị cản trở kiện có cộng đồng thật sự, các cá nhân có được tự do khi họ liên gì trong khuôn khổ những điều kiện nhất định là cái mà cho tới hợp lại và nhờ sự liên hợp ấy. nay người ta gọi là tự do cá nhân. Những điều kiện tồn tại ấy đương nhiên chỉ là những lực lượng sản xuất và những hình thức Từ tất cả những điều trình bày trên đây có thể rút ra rằng giao tiếp hiện hữu. những quan hệ cộng đồng mà những cá nhân của một giai cấp tham gia trong đó, những quan hệ được quy định bởi những lợi ích Nếu người ta xem xét t heo quan điểm triết học s ự phát triển chung của họ chống lại một giai cấp khác, b ao giờ cũng là một ấy của cá nhân, một sự phát triển diễn ra trong khuôn khổ những điều kiện tồn tại chung của những đẳng cấp và giai cấp nối tiếp nhau trong lịch sử, và trong khuôn khổ những quan niệm phổ biến mà do đó họ phải tiếp nhận, thì đương nhiên là người ta có 1* Ăng-ghen ghi ở ngoài lề: "(Phoi-ơ-băc: Tồn tại và bản chất)".
  10. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 110 111 55 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC t hể dễ tưởng tượng rằng Loài hay là Con người đã phát triển trong giai cấp khác và chỉ xuất hiện với bản thân họ khi họ bị phá sản). các cá nhân ấy hoặc là những cá nhân ấy đã phát triển Con người; Trong đẳng cấp (và hơn nữa, trong bộ lạc), điều đó còn bị che giấu: nghĩa là người ta có thể tưởng tượng ra một cái gì đó đúng là sự chẳng hạn người quý tộc bao giờ cũng là người quý tộc, người bình dân nhạo báng khoa học lịch sử1 * . Như thế thì có thể coi những đẳng (roturier) bao giờ cũng vẫn là người bình dân chẳng kể là những điều cấp và giai cấp khác nhau là sự thể hiện riêng biệt của biểu hiện kiện sinh sống khác của họ như thế nào; đó là một phẩm chất gắn liền phổ biến, là những phân chi của Loài, là những giai đoạn phát với cá tính của họ. Sự khác biệt giữa cá nhân con người với cá nhân triển của Con người. trong tư cách là thành viên của một giai cấp, tính ngẫu nhiên, đối với Sự phụ thuộc ấy của những cá nhân vào những giai cấp nhất định cá nhân, của những điều kiện sinh sống, chỉ xuất hiện cùng với sự xuất không thể bị xoá bỏ chừng nào chưa hình thành một giai cấp hiện giai cấp do giai cấp tư sản sinh sản ra. Chỉ có sự cạnh tranh và không phải bảo vệ một lợi ích giai cấp riêng biệt chống lại giai cấp cuộc đấu tranh giữa các cá nhân với nhau mới sinh ra và phát triển thống trị. tính ngẫu nhiên đó. Cho nên dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, Những cá nhân luôn luôn xuất phát từ bản thân mình, - dĩ các cá nhân tưởng rằng được tự do hơn trước vì những điều kiện sinh nhiên là xuất phát từ những cá nhân ở trong khuôn khổ những điều sống của họ là ngẫu nhiên đối với họ; thực ra thì dĩ nhiên là họ ít tự kiện và quan hệ lịch sử nhất định, chứ không xuất phát từ cá nhân do hơn, vì họ bị phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh vật chất. Sự khác "thuần túy" như những nhà tư tưởng vẫn hiểu. Nhưng trong quá biệt với đẳng cấp xuất hiện đặc biệt rõ trong sự đối lập giữa giai cấp trình phát triển của lịch sử, - và chính là do trong điều kiện phân tư sản với giai cấp vô sản. Khi đẳng cấp thị dân, các phường hội, v.v. công lao động, những quan hệ xã hội tất yếu biến thành một cái gì nổi dậy chống quý tộc ruộng đất thì những điều kiện tồn tại của họ - đó độc lập, - xuất hiện sự khác biệt giữa đời sống của mỗi cá nhân tức là động sản và lao động thủ công đã tồn tại một cách tiềm tàng trong chừng mực đó là đời sống cá nhân với đời sống của người trước khi họ tách khỏi hệ thống phong kiến, - xuất hiện như một cái đó trong chừng mực đời sống ấy phụ thuộc vào một ngành lao gì tích cực, đối lập với sở hữu ruộng đất phong kiến và vì vậy chẳng động nào đó và vào những điều kiện liên quan với ngành lao bao lâu, cũng lại mang hình thức phong kiến theo kiểu của nó. Dù động đó. (Không nên hiểu điều này theo nghĩa là người thực lợi sao đi nữa, những nông nô chạy trốn đều coi tình trạng lệ thuộc trước hay nhà tư bản, chẳng hạn, không còn là những cá nhân con kia của họ là một điều ngẫu nhiên đối với cá tính của họ. Song, về người nữa, mà nên hiểu theo nghĩa là cá tính của họ là do phương diện này, họ hành động giống như mọi giai cấp đang tự giải những quan hệ giai cấp hoàn toàn cụ thể qu y đ ịnh và xác định, và sự khác biệt ấy chỉ xuất hiện trong sự đối lập của họ với một phóng khỏi xiềng xích trói buộc mình, và ngoài ra họ tự giải phóng không phải với tư cách là giai cấp, mà tự giải phóng từng người một. Hơn nữa, họ không ra khỏi phạm vi của tổ chức đẳng cấp mà chỉ hình thành một đẳng cấp mới; trong địa vị mới, họ 1* C âu nói mà người ta thường thấy thánh Ma-xơ thốt ra: nhờ có nhà nước mà mỗi người duy trì phương thức lao động cũ của họ và phát triển nó lên bằng đều là tất cả, thì về thực chất chỉ có nghĩa là người tư sản chỉ là một cái mẫu trong loài tư sản mà thôi, một câu giả định trước rằng giai cấp tư sản phải tồn tại trước những cá nhân cách giải p hóng nó khỏi xiềng xích đ ã qua, không còn phù hợp hợp thành giai cấp ấy. (Mác ghi ở ngoài lề: "Với những nhà triết học thì giai cấp là có trước").
  11. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 112 113 56 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I I. PHOI-Ơ-BẮC v ới trình độ phát triển mà họ đã đạt được1). t ừ trước tới nay những cá nhân hợp thành xã hội vẫn biểu hiện mì nh như một chỉnh thể, tức là đối lập với nhà nước, và họ phải Trái lại, ở những người vô sản thì điều kiện sinh sống của bản lật đổ nhà nước để khẳng định bản thân là những cá nhân con thân họ, tức là lao động, và cùng với cái đó, cả những điều kiện tồn người. tại của toàn bộ xã hội hiện nay, đã trở thành một cái gì ngẫu nhiên đối với họ, một cái ngẫu nhiên mà những người vô sản riêng lẻ không hề kiểm soát được, và cũng chẳng có tổ chức xã hội nào có thể cho họ quyền kiểm soát ấy. Mâu thuẫn giữa cá tính của người vô sản riêng lẻ và những điều kiện sinh sống mà anh ta phải chịu nhận, tức là lao động, bây giờ trở thành hiển nhiên đối với bản thân anh ta, nhất là vì ngay từ trước kia, anh ta đã bị hy sinh và trong phạm vi của giai cấp mình, anh ta chẳng bao giờ có cái may mắn đạt được những điều kiện khiến anh ta có thể chuyển sang một giai cấp khác. Như vậy là trong khi những nông nô chạy trốn chỉ muốn tự do phát triển và củng cố những điều kiện tồn tại đã có sẵn của họ và vì thế cuối cùng chỉ giành được lao động tự do thôi, thì những người vô sản muốn tự khẳng định là những con người, phải thủ tiêu điều kiện tồn tại từ trước tới nay của chính họ, đồng thời cũng là của mọi xã hội từ trước tới nay, có nghĩa là phải thủ tiêu lao động. Vì vậy họ đối lập trực tiếp với hình thức mà trong đó 1) N .B. Không nên quên rằng sự cần thiết phải duy trì sự tồn tại của nông nô và tình trạng không có khả năng tiến hành kinh doanh lớn - tình trạng này kéo theo sự phân chia những allotments [những mảnh ruộng nhỏ] cho nông nô, - đã rất nhanh chóng giảm những nghĩa vụ của nông nô đối với chúa phong kiến xuống một mức trung bình về tô hiện vật và lao dịch, khiến cho nông nô có thể tích luỹ động sản, điều này tạo thuận lợi cho họ trốn khỏi trại ấp của chúa đất và mang lại cho họ khả năng trở thành thị dân, đồng thời cũng tạo ra sự phân hoá trong nông nô; thành thử những nông nô chạy trốn cũng đã là nửa thị dân rồi. Vậy rõ ràng là những nông nô có một nghề thủ công nào đó có nhiều cơ hội hơn cả để kiếm được động sản.
  12. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 114 115 57 HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH b ỉ thế giới, ông ta khoác trên mình cái "tự ý thức" của mình. Ông ta " đã đập nát t ôn giáo trong tổng thể của nó và nhà nước trong những biểu hiện của nó" (tr.138) bằng cách nhân danh tự ý thức tối cao mà hà hiếp khái niệm "thực thể". Những điêu tàn của nhà HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH thờ và "những mảnh vở" của nhà nước nằm ngổn ngang dưới chân ông ta, trong khi đó ánh mắt của ông ta "quật" "quần chúng" xuống tan thành. Hoàn toàn giống như thượng đế, ông ta không có T rong tập thứ ba của Tạp chí hàng quý Vi-găng ra năm 1845, cha cũng không có mẹ, ông ta là "vật sáng tạo của bản thân ông ta, đã thực sự diễn ra cuộc chiến đấu của người Hung-nô mà Cau-lơ-bắc 21 đ ã miêu tả một cách tiên tri. Bóng ma của những là tác phẩm của bản thân ông ta" (tr.136). Nói vắn tắt, ông ta là "Na-pô-lê-ông" của tinh thần; trong tinh thần, ông ta là "Na-pô-lê- người bị giết - họ chết rồi nhưng vẫn chưa nguôi giận, - đang ông". Những động tác tập luyện tinh thần của ông ta là ở chỗ ông ta gào thét trên không trung đến nỗi người ta tưởng như những tiếng gầm của chiến trận, những tiếng hô chiến đấu, tiếng chạm luôn luôn "tự hỏi mình và trong sự tự hỏi mình ấy ông ta tìm ra cái nhau của gươm giáo, của khiên mộc và chiến xa. Nhưng cuộc thúc đẩy ông ta đi tới sự tự quy định" (tr.136); vì cái việc tự làm biên chiến đấu được tiến hành trên ấy không phải vì những cái dưới bản về mình nhọc nhằn như thế nên ông ta gầy đi trông thấy. Ông ta trần gian này. Cuộc chiến tranh thần thánh được tiến hành không không chỉ tự "hỏi" bản thân mình, và - như chúng ta sẽ thấy - đôi khi phải vì chế độ thuế quan bảo hộ, vì hiến pháp, vì bệnh của khoai còn "hỏi" cả tạp chí " Westphälisches Dampfboot"22 n ữa. tây, không phải vì ngành ngân hàng hay đường sắt, mà vì những Đứng chễm chệ trước mặt ông ta là thánh Ma-xơ , người mà công lợi ích thần thánh nhất của tinh thần: vì "Thực thể", "Tự ý thức", lao đối với vương quốc của thượng đế là ở chỗ ông ta quả quyết "Sự phê phán", "Kẻ duy nhất", "Con người chân chính". Chúng rằng ông ta đã xác định và chứng minh, trong gần 600 trang giấy, ta đang đứng trước một hội nghị của các đức cha. Vì những đức sự đồng nhất của ông ta với bản thân, rằng ông ta không phải là cha này là những mẫu người cuối cùng của loài người ấy và vì ít người nào đó, không phải là "anh Han-dơ hoặc anh Cun-xơ" nào ra cũng phải hy vọng rằng đây là lần cuối cùng mà sự nghiệp của đó, mà chính là thánh Ma-xơ, chứ không phải là kẻ nào khác. Về đấng tối cao tức là đấng tuyệt đối, được bảo vệ, nên rất đáng ghi cái vòng hào quang của ông ta và những dấu hiệu đặc thù khác thì chép procès-verbal 1 * của cuộc tranh luận. chỉ có thể nói rằng chúng là "vật của ông ta, do đó cũng là sở Đầu tiên, chúng ta thấy t hánh Bru-nô , ta cứ trông c ái gậy c ủa hữu của ông ta", chúng là "duy nhất" và "không gì bì kịp", và ông ta cũng rất dễ nhận ra ông ta ("anh hãy trở thành cái cảm chúng "không thể nào gọi tên lên được" (tr.148). Ông ta vừa là giác được, anh hãy trở thành một c ái gậy ", Vi-găng, tr.130). Đầu "câu nói" lại vừa là "người sở hữu câu nói", vừa là Xăng-xô ông ta đội vòng hào quang của "sự phê phán thuần tuý" và khinh Păng-sa, lại vừa là Đông Ki-sốt. Những động tác tập luyện khổ hạnh của ông ta là những tư tưởng đau buồn về sự không có tư tưởng, là sự trình bày trên nhiều trang giấy những suy nghĩ về 1* - biên bản
  13. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 116 117 58 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH sự không suy nghĩ, là sự thần thánh hoá cái không thần thánh. Song Ngoài việc xem xét những lời buộc tội quan trọng ấy người ta chúng ta chẳng cần phải tán tụng dài dòng về những phẩm chất của còn giải quyết vụ hai vị thánh buộc tội Mô-dét Hét-xơ, và vụ thánh ông ta làm gì, vì về tất cả những đặc tính được đem gán cho ông ta Bru-nô buộc tội những tác giả của "Gia đình thần thánh". Nhưng vì (mặc dù những đặc tính ấy nhiều hơn những tên gọi của những thần những bị cáo ấy còn bận "những việc của trần gian" và do đó không thánh trong đạo Ma-hô-mét), ông ta có thói quen nói: Tôi là tất cả ra trước santa casa1* đ ược24 nên họ bị kết án vắng mặt là vĩnh viễn bị và hơn thế nữa. Tôi là tất cả của cái không ấy và là cái không đuổi ra khỏi vương quốc của tinh thần trong suốt cuộc đời trần gian của cái tất cả ấy. Ông ta hơn hẳn đối thủ sầu thảm của ông ta có của họ. " tính vô tư " trịnh trọng nào đó và đôi khi cắt đứt những điều trầm Cuối cùng, cả hai vị thầy vĩ đại ấy lại nghĩ ra một số âm mưu kỳ tư mặc tưởng nghiêm túc của mình bằng một "tiếng hoan hô có lạ với nhau và chống lại nhau2* . tính phê phán ". Hai vị thầy vĩ đại ấy của Toà án tôn giáo thần thánh, triệu kẻ dị giáo Phoi-ơ-bắc ra trước toà buộc tội nghiêm khắc ông này là theo chủ nghĩa khả tri. Thánh Bru-nô "lên giọng sấm sét": tên dị giáo Phoi-ơ-bắc có hyle1* , có thực thể trong tay, nhưng không chịu trả lại, nhằm làm cho tự ý thức vô hạn của ông ta không được phản ánh trong đó. Tự ý thức buộc phải lang thang như bóng ma chừng nào nó chưa thu về cho bản thân nó tất cả những vật sản sinh ra từ nó và chảy vào nó. Và thế là, nó đã nuốt toàn bộ thế giới, chỉ trừ cái hyle ấy, tức là cái thực thể mà Phoi-ơ-bắc, kẻ theo chủ nghĩa khả tri, giữ chặt và không muốn buông ra. Thánh Ma-xơ buộc tội kẻ theo chủ nghĩa khả tri này là đã hoài nghi giáo lý do miệng mình tiết lộ ra, cái giáo lý nói rằng "bất cứ con ngỗng nào, bất cứ con chó nào, bất cứ con ngựa nào" đều là "con người hoàn thiện và thậm chí là con người hoàn thiện nhất, nếu kẻ nào thích những hì nh dung từ cấp cao nhất" (Vi-găng, tr.187 23 : "Hễ là con người thì không thiếu mảy may cái làm cho con người trở thành con người. Quả thật, đối với bất cứ con ngỗng nào, đối với bất cứ con chó nào, đối với bất cứ con ngựa nào, thì cũng đều n hư thế cả "). 1* - thánh cung 2* - Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: "Ở hậu trường, xuất hiện Dottore Graziano25 tức là Ác-nôn Ru-gơ, mang danh là "con người sáng suốt lạ 1* - vật chất đầu tiên, còn chưa định hình thường và có đầu óc chính trị" (Vi-găng, tr.192)".
  14. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 118 119 59 HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH. - II. THÁNH BRU-NÔ mì nh đối kháng với hai kẻ đối kháng ấy, và tuyên bố rằng mình là sự thống nhất tối cao của họ, là tinh thần thần thánh. Thánh Bru-nô mở đầu "chiến dịch" của mình bằng một loạt II pháo bắn vào Phoi-ơ-bắc, c'est à dire 1 * b ằng việc in lại, có sửa chữa và bổ sung, một bài luận văn đã đăng trên tờ "Norddeutsche Blätter". Phoi-ơ-bắc được phong Hiệp sĩ của " thực thể " để cho THÁNH BRU-NÔ " tự ý thức " của Bau-ơ càng nổi bật lên hơn. Trước sự hoá thân mới ấy của Phoi-ơ-bắc, sự hoá thân - như người ta nói, - đã được chứng minh bằng tất cả các tác phẩm của Phoi-ơ-bắc, vị thánh 1 . "CHIẾN DỊCH" CHỐNG PHOI-Ơ-BẮC của chúng ta nhảy phắt ngay từ những tác phẩm của Phoi-ơ-bắc viết về Lai-bơ-nít-xơ và Bay-lơ sang "Bản chất đạo Cơ Đốc", bỏ qua bài viết chống lại "các nhà triết học thực chứng" trong T rước khi bàn đến sự tranh luận trang nghiêm giữa tự ý thức "Hallische Jahrbücher" 2 7 . "Sự sơ suất" ấy "thật là đúng chỗ". Vì của Bau-ơ với bản thân nó và với thế giới, chúng ta phải tiết lộ trong bài viết đó, Phoi-ơ-bắc, chống lại những đại diện thực một điều bí mật. Thánh Bru-nô thổi bùng ngọn lửa binh đao và chứng luận của "thực thể", đã vạch trần toàn bộ sự sâu sắc của tung ra những tiếng hô chiến đấu đó, chỉ vì ông ta buộc phải "bảo "tự ý thức", trong khi thánh Bru-nô còn đang đắm mình trong vệ" con người ông ta và sự phê phán đã ế ẩm và có mùi chua của những tư biện về thụ thai trinh khiết. ông ta khỏi bị công chúng bỏ quên một cách vong ơn bội nghĩa, chỉ vì ông ta phải chỉ rõ rằng ngay cả trong những điều kiện đã Vị tất cần phải nhắc lại rằng thánh Bru-nô vẫn còn diễu võ dương thay đổi của năm 1845, sự phê phán vẫn y nguyên và không thay oai trên con chi ến mã phái Hê-ghen già của ông ta. Hãy lắng nghe đổi. Ông ta đã viết tập thứ hai của bộ sách "Sự nghiệp chính nghĩa những lời nói đầu tiên về những khải thị mới nhất của ông ta phát và sự nghiệp của bản thân tôi"26 ; ông ta bảo vệ mảnh đất của ông đi từ vương quốc của thượng đế: ta, ông ta chiến đấu pro aris et focis 1* . Nhưng là một nhà thần học " Hê -ghe n đã k ế t hợp t hự c t hể c ủa Xpi -nô -d a và c á i Tôi c ủa Phi - st ơ l ại t hành thật sự, ông ta che đậy cái mục đích tự thân ấy bằng cái bề ngoài một c hỉ n h t hể ; sự t hố ng n hấ t c ủa cả ha i , sự k ết hợp c ủa ha i l ĩ nh vự c đ ối l ậ p ấ y, dường như ông ta muốn "nói về đặc điểm" của Phoi-ơ-bắc. v. v. , c hí nh l à c ái ha y ri ê ng c ủa t ri ết học Hê -g he n, như ng đ ồn g t hời c ũng l à như ợc đ iể m c ủa nó . M â u t huẫ n ấ y, mâ u t huẫ n t rong đó hệ t hống c ủa Hê -g hen đã vậ n độn g, Người ta đã hoàn toàn quên ông Bru-nô đáng thương và bằng phả i đ ược gi ả i quyế t và x oá b ỏ. Như n g ôn g t a c hỉ c ó t hể t hực hi ệ n đ ư ợc đi ề u đó chứng tốt nhất của điều đó là trong cuộc luận chiến giữa Phoi-ơ- bằ ng c á c h l à m c ho vĩ nh vi ễ n k hô ng t hể đặt ra vấ n đ ề: quan hệ gi ữ a t ự ý t hức v ới bắc và Stiếc-nơ, ông ta hoàn toàn không được nhắc đến. Chính vì t i n h t hầ n tu y ệt đ ối l à gì ... Đi ề u đ ó c ó t hể t hự c hi ệ n t he o ha i hư ớng. Hoặ c l à t ự ý t hứ c bị t hi ê u c há y một l ầ n nữ a t rong n gọ n l ửa c ủa t hự c t hể , t ứ c là qua n hệ t huầ n vậy, ông ta b ám lấy cuộ c luận chiến ấy để có cớ tu yên b ố rằng t ú y c ó t í n h t h ự c t hể p hả i đ ư ợc xá c l ậ p và bả o t ồ n; h oặc l à p h ả i vạ c h rõ rằ n g n hâ n 1* - nghĩa đen là để bảo vệ bàn thờ và bếp; nghĩa bóng là bảo vệ nhà cửa và gia 1* đình của mình, sự nghiệp của mình - tức là
  15. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 120 121 60 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH.- II. THÁNH BRU-NÔ v à mặt khác, đáng lẽ là tự nhiên hiện thực và những quan hệ xã c á c h l à k ẻ sá n g t ạ o ra n h ữ n g t h uộc t í n h và bả n c hấ t c ủa nó , rằ n g k h á i n i ệ m n hâ n hội tồn tại trong hiện thực, thì ở ông ta chỉ còn là cái toát yếu c á c h n ó i c h u ng b a o hà m ý n g hĩ a l à nó p hả i t ự c oi bả n t hâ n nó " ( "k há i ni ệ m" ha y " n hâ n c á c h " ?) "l à bị gi ới h ạ n và l ạ i phả i t i ê u d i ệ t gi ới h ạ n ấ y, c á i gi ới h ạ n mà triết học của tất cả những phạm trù triết học hoặc những tên gọi n hâ n c á c h đã đ ặ t r a d o b ả n c h ất p hổ b i ế n c ủa nó , c hí n h l à vì bả n c hất ấ y c h ỉ l à triết học của những quan hệ ấy, dưới dạng một công thức trần k ế t qu ả c ủ a sự t ự p h â n bi ệ t n ộ i t ạ i c ủa n hâ n c á c h, k ế t q uả c ủa h oạt đ ộ ng c ủa nó " trụi: t hực thể ; vì Bru-nô, cùng với tất cả các nhà triết học và các ( Vi - gă n g, t r . 8 7, 8 8 ). nhà tư tưởng, lầm tưởng rằng tư tưởng và quan niệm, - biểu hiện Triết học Hê-ghen đã được miêu tả, trong "Gia đình thần thánh " tư tưởng độc lập về thế giới hiện có, - là cơ sở của thế giới hiện (tr.220)28 n hư là sự hợp nhất giữa Xpi-nô-da và Phi-stơ, đồng thời có ấy. Dĩ nhiên là sau đó, với hai sự trừu tượng đã bị biến thành mâu thuẫn bao hàm trong sự hợp nhất ấy cũng được nhấn mạnh. vô nghĩa và không nội dung ấy, ông ta có thể làm đủ các thủ Đặc điểm độc đáo của thánh Bru-nô là ở chỗ ông ta, khác với thuật, mà không hề biết đến những con người hiện thực và những những tác giả của "Gia đình thần thánh", không coi vấn đề mối quan hệ của họ. (Ngoài ra, xin xem thêm những điều đã bàn về quan hệ giữa tự ý thức với thực thể là "điểm còn đang tranh luận thực thể trong phần nói về Phoi-ơ-bắc và bàn về "chủ nghĩa tự do t rong t ư biện Hê-ghen", mà là một vấn đề có tính chất lịch sử - thế nhân đạo" và "vật thần thánh" trong phần nói về thánh Ma-xơ). giới và thậm chí còn là một vấn đề tuyệt đối. Đó là hình thức duy Như vậy, ông ta không từ bỏ miếng đất tư biện để giải quyết nhất mà ông ta có thể dùng để nói lên những sự xung đột của thời những mâu thuẫn của tư biện; ông ta vẫn thao tác trên miếng đất đại ngày nay. Ông ta thực sự tin rằng thắng lợi của tự ý thức đối ấy, thậm chí b ản thân ô ng ta còn đứng trên miếng đất đặc thù với thực thể sẽ có ảnh hưởng hết sức chủ yếu chẳng những đối với của Hê-ghen một cách kiên định đến nỗi mối quan hệ của "tự ý thế cân bằng ở châu Âu, mà còn đối với toàn bộ sự phát triển thức" với "tinh thần tuyệt đối" không để ông ta yên. Tóm lại là, tương lai của vấn đề Ô-rê-gôn 29 n ữa. Việc hủy bỏ những đạo luật trước mặt chúng ta, vẫn là cái t riết học về tự ý thức đ ã được về ngũ cốc ở Anh phụ thuộc vào điều đó đến mức độ nào, đến nay tuyên bố trong "Phê phán các cuốn Phúc âm đối quan", đã được người ta còn biết rất ít. trình bày cặn kẽ trong "Chân tướng của đạo Cơ Đốc" và tiếc thay, đã được trình bày trước từ lâu trong "Hiện tượng học" của Những lời lẽ trừu tượng và mù mịt, mà Hê-ghen dù ng để thể Hê-ghen3 0 . Triết học mới này của Bau-ơ đã được phân tích cặn hiện một cách bóp méo những xung đột hiện thực, được cái đầu kẽ trong "Gia đình thần thánh" ở tr.220 và những trang tiếp và óc "phê phán" ấ y coi là bản thân sự xung đột hiện thực. Bru-nô những tr.304 - 307 3 1 . Nhưng ở đây thánh Bru-nô vẫn còn tìm tiếp nhận mâu thuẫn t ư biện v à đem phần nà y đối lập với phần cách vẽ một bức biếm hoạ về bản thân mình, bằng cách lén lút kia. Đối với ông ta, c âu nói t riết học về vấn đ ề hiện thực là b ản đưa "nhân cách" vào, nhằm có thể, cùng với S tiếc-nơ, mô tả thân vấn đ ề hiện thực. Bởi vậy, một mặt đáng lẽ là những con cá nhân thành "sản phẩm của riêng" ông ta, và mô tả S tiếc-nơ người hiện thực và ý thức hiện thực của họ về những quan hệ t hành s ản phẩm của Bru-nô . Bước tiến ấy đáng được nhận xét xã hội của họ, những quan hệ đối lập với họ như một cái gì đó có một cách vắn tắt. vẻ độc lập, thì ở ông ta chỉ còn lại công thức trừu tượng trần trụi Trước hết, độc giả hãy so sánh bức biếm hoạ ấy với nguyên là: t ự ý thức; c ũng như đáng lẽ là sản xuất hiện thực thì ở ông bản, tức là với sự giải thích về tự ý thức trong "Chân tướng của ta chỉ còn là h oạt động đ ã trở thành độ c lập của tự ý thức ấy;
  16. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 122 123 61 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH.- II. THÁNH BRU-NÔ chất và cái Tôi không bản chất" (mặc dù Bru-nô luôn luôn tuyên b ố đ ạo Cơ Đốc", tr.113, sau đó lại so sánh sự giải thích ấy với nguyên cái trừu tượng là cái bản chất và trong khi đem đối lập Sự mẫu của nó, tức là với "Hiện tượng học" của Hê-ghen, tr.575, 583, phê phán với quần chúng, ông ta hình dung sự chia cắt ấ y một v.v.. (Cả hai đoạn đều được in lại trong "Gia đình thần thánh", tr.221, cách cò n k ỳ quặc hơn nhiều so với Phoi-ơ-bắc), rằng phải tiến 223, 22432 ). Nhưng chúng ta hãy nhìn qua bức biếm hoạ: "Nhân hành đấu tranh chống "những tân từ của thượng đế", v.v.. Về vấn cách nói chung"! "Khái niệm"! "Bản chất phổ biến"! "Tự coi bản thân đề tình yêu vụ lợi và tình yêu không vụ lợi, thì Bru-nô, trong khi nó là bị giới hạn và lại phải tiêu diệt giới hạn ấy"! "Sự tự phân biệt luận chiến chống Phoi-ơ-bắc, hầu như sao chép từng câu từng chữ nội tại"! "Kết quả" lớn lao biết bao nhiêu! "Nhân cách nói chung" thì của Stiếc-nơ trong suốt cả ba trang giấy (tr.133 - 135); đúng y hoặc là một sự phi lý "nói chung", hoặc là một khái niệm trừu tượng như ông ta sao chép một cách hết sức vụng về những câu nói sau đây về nhân cách. Vì vậy, "khái niệm" về khái niệm nhân cách ấy bao của Stiếc-nơ:"mỗi một người đều là vật sáng tạo của bản thân mình", hàm việc "tự coi bản thân là bị giới hạn". Cái giới hạn ấy, bao hàm "chân lý là một bóng ma", v.v.. Ngoài ra, ở Bru-nô, "vật sáng tạo" trong "khái niệm" về khái niệm của nó, được nhân cách đặt ra ngay còn biến thành "sản phẩm". Chúng ta sẽ còn nói về việc thánh sau đó, "do bản chất phổ biến của nó". Và sau khi nhân cách lại tiêu Bru-nô lợi dụng Stiếc-nơ như thế nào. diệt giới hạn ấy, thì thấy rằng "chính bản chất ấy" chỉ là " kết quả của Vậy điều thứ nhất mà chúng ta đã phát hiện được ở thánh sự tự phân biệt nội tại của nhân cách". Như vậy, toàn bộ kết quả vĩ Bru-nô, là sự lệ thuộc thường xuyên của ông ta vào Hê-ghen. Tất đại của cái đống trùng lặp rắc rối ấy, rút cuộc lại, là cái thủ thuật nhiên chúng ta không cần bàn thêm về những ý kiến ông ta sao đã biết từ lâu của Hê-ghen về sự tự phân biệt của con người trong chép của Hê-ghen. Chúng ta chỉ nêu thêm một số đoạn khiến cho có tư tưởng, sự tự phân biệt mà ông Bru-nô bất hạnh cứ khăng khăng thể thấy rằng ông ta tin vào uy lực của các nhà triết học một cách tuyên bố là hoạt động duy nhất của "nhân cách nói chung". Trước không thể lay chuyển được và tán thành đến mức nào ảo tưởng của đây khá lâu, thánh Bru-nô đã được người ta thuyết minh cho biết họ cho rằng ý thức đã thay đổi và sự xuất hiện một sắc thái mới rằng cái "nhân cách" mà hoạt động của nó chỉ hạn chế ở những bước trong sự giải thích những quan hệ đang tồn tại, có thể đảo lộn toàn nhảy lô-gích đã trở thành quen thuộc, thì chẳng có ý nghĩa gì cả. bộ thế giới đang tồn tại cho đến nay. Đầy lòng tin ấy, thánh Đồng thời, đoạn này bao hàm một sự thú nhận ngây thơ rằng bản Bru-nô đã khiến cho một người học trò của mình cấp cho mình chất của "nhân cách" của Bau-ơ là khái niệm về một khái niệm, là một giấy chứng nhận - ở quyển IV "Tạp chí hàng quý Vi-găng", sự trừu tượng từ một sự trừu tượng. tr.327, - rằng những lời nói đã được dẫn chứng ở trên của ông ta về nhân cách, những lời mà ông ta đã tuyên bố trong quyển III, là Sự phê phán của Bru-nô đối với Phoi-ơ-bắc nếu có gì mới, thì những "tư tưởng làm rung chuyển thế giới". cũng chỉ là ở chỗ trình bày một cách giả dối những lời Stiếc-nơ trách cứ Phoi-ơ-bắc và Bau-ơ thành những lời của Bau-ơ trách cứ Thánh Bru-nô nói (Vi-găng, tr.95): Phoi-ơ-bắc. Chẳng hạn, ông ta khẳng định rằng "bản chất của con " Triết học c hẳ ng qua chỉ là t hần học được đưa t rở về cái hình thức chung nhất của người là bản chất nói chung và là một cái gì thần thánh", rằng nó, được đưa trở về sự diễn đạt hợp l ý của nó". "con người là thượng đế của con người", rằng loài người là "cái Đoạn sau đây, nhằm c hống lại P hoi-ơ-bắc, được chép hầu như tuyệt đối", rằng Phoi-ơ-bắc chia cắt con người "thành cái Tôi bản từng câu từng chữ trong "Triết học tương lai" của Phoi-ơ-bắc (tr.2):
  17. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 124 125 62 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH.- II. THÁNH BRU-NÔ "Triết học tư biện là thần học chân chính, triệt để, hợp lý". hệ hiện thực của cá nhân phải lệ thuộc vào sự giải thích triết học về Bru-nô nói tiếp: những quan hệ đó. Ông ta không biết một chút gì về mối quan hệ giữa những quan niệm về "tinh thần tuyệt đối" của Hê-ghen " Triết học, liên mi nh với tôn giáo, luôn luôn ra sức đe m lại sự lệ thuộc tuyệt đối của cá nhân và nó đã t hực sự thực hi ện được điều ấy , bằng các h đòi hỏi và gâ y ra t ình và về "loài" của Phoi-ơ-bắc, với thế giới đang tồn tại. t rạng đ ời sống cá thể tiêu tan trong đ ời sống phổ biến, ngẫu nhi ên t iêu tan trong thực t hể, con ngư ời tiêu t an trong t inh thần tuyệt đối". Ở tr.104, Đức cha hết sức ghê tởm cái tà thuyết mà Phoi-ơ-bắc dùng để biến cái tam vị nhất thể thần thánh, tức là lẽ phải, tình yêu P hải chăng "triết học" của Bru-nô, - "trong sự liên minh với" và ý chí, thành một cái gì "tồn tại t rong cá nhân và t rên cá nhân", - triết học Hê-ghen và trong sự tiếp xúc của ông ta với thần học, tựa hồ như ngà y nay, mọi thiên hướng, mọi ham muốn, mọi yêu một sự tiếp xúc đã bị cấm nhưng vẫn tiếp tục, - lại không "đòi cầu khi hoàn cảnh ngăn cản việc thoả mãn chúng, thì không tự hỏi" - mặc dù là cũng không "đạt được" điều này, - "con người phải tiêu tan" trong quan niệm về một trong những "ngẫu nhiên" khẳng định là một lực lượng "tồn tại trong cá nhân và t rên c á của người ấy, tức là trong quan niệm về tự ý thức, được coi là nhân". Nếu như Đức cha Bru-nô thấy đói chẳng hạn mà không có "thực thể", hay sao? Song căn cứ theo cả đoạn ấy thì có thể thấy cách gì làm cho khỏi đói, thì ngay cả cái dạ dày của ông ta cũng rằng Đức cha "ngọt ngào như mật" ấy vẫn tiếp tục tuyên bố một trở thành một lực lượng "tồn tại t rong ô ng ta và t rên ô ng ta". Sai cách hào hứng như thế nào niềm tin "rung chu yển thế giới" của lầm của Phoi-ơ-bắc không phải là ở chỗ ông ta đã nói lên sự thật ông ta vào sức mạnh thần bí của các nhà thần học thần thánh và ấy, mà là ở chỗ ông ta độc lập hoá nó theo lối duy tâm chủ của các nhà triết học. Đương nhiên, đó là vì lợi ích của "sự nghĩa, chứ không coi nó là sản phẩm của một giai đoạn phát triển nghiệp chính nghĩa của tự do và sự nghiệp của bản thân mình". lịch sử nhất định, tạm thời. Ở tr.105, con người kính sợ thần thánh của chúng ta đã cả T r. 111: "Phoi-ơ-bắc l à một nô lệ và t ính chất nô lệ của ông t a không c ho phép ông ta hoàn t hành sự nghi ệp của c on người , không c ho phé p ông t a nhận thức đư ợc bả n c hất gan trách cứ Phoi-ơ-bắc rằng: của tôn gi áo" ("sự nghiệp c ủa c on ngư ời ", thật l à hết chỗ nói !). .. "Ông t a khô ng hiểu nổi " Từ cá nhâ n, t ừ c on ngư ời đã mất cá tí nh c ủa đạ o C ơ Đốc, Phoi-ơ-bắc k hô ng l àm bản chất c ủa tôn gi áo, vì ông t a không biết c ái cầu q ua đó ông ta có t hể đi tới những thành một con người, con người chân chính" (!) "thực hiện" (!!) "nhân xưng" (!!!) ( những n guồn gốc c ủa tôn giáo". t ân từ này l à từ "Gia đình thần t há nh" và Stiếc-nơ mà ra) "mà là một c on ngư ời bị hoạ n, T hánh Bru-nô vẫn tin một cách nghiêm túc rằng tôn giáo có l à một nô lệ", - một "bản chất" riêng của nó. Còn về cái "cầu" mà người ta phải v à qua đó, ông ta cả gan khẳng định một điều phi lý rằng ông đi " qua đó " để tới " nguồn gốc c ủa tôn giáo", thì cái cầu cho lừa 1 * ta, thánh Bru-nô, có thể l àm thành con người bằng đ ầu óc . ấ y tất nhiên phải là cái c ầu dẫn nước . Đồng thời thánh Bru-nô Cũng trong đoạn này, sau đó, ông ta viết: đóng vai một Sa-rông được hiện đại hoá đến buồn cười, hắn nhờ "Theo Phoi-ơ-bắc, cá nhân phải phục tùng loài và phục vụ loài. Loài mà Phoi-ơ-bắc nói, là cái tuyệt đối của Hê-ghen và nó cũng không tồn tại ở đâu cả". Ở đ ây cũng như trong tất cả các đoạn khác, thánh Bru-nô đã 1* Chơi chữ: Eselsbrücke (cầu cho lừa) là bài giải sẵn cho những học sinh tối dạ tô lên cho mình cái vinh quang bằng cách làm cho n hững q uan và lười (tựa như "bài giảng viết sẵn để quay cóp").
  18. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 126 127 63 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH.- II. THÁNH BRU-NÔ việc dựng cầu ấy, đã rút lui về nhà làm tollkeeper 1*, thu halfpenny2* mỗi n gạo mạn - là đáng ghê tởm và ti tiện đối với con mắt của chúa! Các người há không biết rằng những ý nghĩ đến nhục dục là chết, một người qua cầu đi tới cái vương quốc u ám của tôn giáo. còn những ý nghĩ đến tinh thần mới là sự sống và hoà bình; bởi Ở tr. 120, vị thánh ấy nhận xét: vì những ý nghĩ đến nhục dục là sự thù địch với Sự phê phán, và " Phoi-ơ-bắc là m sa o có thể tồn tại được nếu k hông có c hân lý v à nếu châ n lý chỉ là tất cả mọi cái của nhục dục là từ cõi trần này mà ra; các người há một b óng ma " (Stiếc-nơ, hãy cứu giúp!) "mà đến nay con ngư ời vẫn sợ?". không biết rằng sách đã viết: những việc làm của xác thịt thì rõ "Con người" sợ cái "bóng ma" "chân lý" chẳng phải ai khác mà trông thấy: ngoại tình, dâm ô, nhơ bẩn, dâm loạn, sùng bái thần chính là ông Bru-nô đáng tôn kính. Cách đó mười trang, tức là ở tượng, mê hoặc, thù địch, cãi lộn, ghen ghét, tức giận, hay gâ y tr.110, trước "bóng ma" của chân lý, ông ta đã thốt ra tiếng kêu thất sự, bất hoà, lập bè phái, hận thù, giết người, rượu chè, tham ăn, v.v.. Ta nói trước với các người và bây giờ ta nói lại với các thanh làm rung chuyển thế giới sau đây: người rằng những kẻ nào làm những việc như vậy thì không thể " C hân lý, cái t ự nó chưa từng xuất hiện ở đâu với tính cách là khách thể đã có sẵn thừa kế vương quốc của Sự phê phán được; khốn thay cho họ, vì và chỉ trong sự phát t riển của nhân cách, nó mới tự phát triển và đạt tới sự thống nhất". họ đi theo con đường của Ca-in và sự thèm khát hưởng thụ khiến N hư vậy là ở đây, chân lý - cái bóng ma ấy, - không những cho họ sa vào sai lầm của Ba-lam và chết trong khi nổi loạn như biến thành một người đang tự phát triển và đạt tới sự thống nhất, Cô-rát vậy. Những kẻ bất chính ấy phung phí bừa bãi những của mà còn hơn thế nữa, cái trò thủ thuật ấy được thực hiện ở ngoài bố thí của người, đó là những con cừu không người chăn. Đó là chân lý, theo kiểu của con sán, ở một con người thứ ba. Về quan hệ những đám mây không có nước, bay theo làn gió, những cây trơ luyến ái xưa kia của vị thánh ấy với chân lý hồi ông ta còn trẻ và trụi và không ra hoa kết quả, đã chết hai lần và bật rễ, đó là khi tình dục còn sôi sục trong lòng, xin xem "Gia đình thần thánh". những đợt sót biển cuồn cuộn sủi lên những đám bọt sỉ nhục, tr.115 và các trang tiếp 33 . những ngôi sang lang thang, vĩnh viễn phó thân mình cho bóng Hiện giờ, vị thánh đã gột sạch mọi nhục dục và những ham đêm đen tối. Vì chúng ta đã đọc thấy rằng trong những ngày cuối muốn phàm tục đến mức nào, cuộc luận chiến dữ dội của ông ta cùng, sẽ xuất hiện những thời kỳ đáng sợ, những kẻ tự cao tự chống c ái cảm giác được của Phoi-ơ-bắc cho ta thấy điều đó. Bru- đại, những kẻ bất kính, vô độ, ham lạc thú hơn là ham Sự phê nô không hề phản đối cái phương pháp cực kỳ hạn chế mà Phoi-ơ- phán, những kẻ chống đối - nói tóm lại, những tên nô lệ của nhục bắc dùng để thừa nhận c ái cảm giác được . Theo ông ta, cái mưu dục. Những bọn đó, thánh Bru-nô rất ghê tởm vì ông ta đang bận tâm về tinh thần và căm ghét cái vỏ ngoài tội lỗi của nhục dục. toan đã thất bại của Phoi-ơ-bắc - được coi là một mưu toan hòng Vì vậy ông ta kết án Phoi-ơ-bắc, coi Phoi-ơ-bắc là một Cô-rát thoát khỏi hệ tư tưởng, - là một t ội lỗi . Tất nhiên rồi! Cái cảm giác của cuộc nổi dậy, phải ở ngoài cửa cùng với một lũ chó và bọn được là tính dâm dục của con mắt, tính dâm dục của xác thịt và ảo thuật, bọn gian dâm và bọn giết người. "Cái cảm giác được" - thật là ghê tởm! Từ đó chẳng những làm cho Đức cha của chúng ta lên cơn kinh giật dữ dội, mà thậm chí còn làm cho ông ta hát 1* - người thu thuế lên và ở tr. 121 ông ta đã hát "bài thánh ca của sự kết thúc và 2* - nửa xu
  19. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 128 129 64 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH.- II. THÁNH BRU-NÔ c on người. Đó là cái hà ng rà o khô ng thể vư ợt qua đư ợc, vấ p phả i nó, con người không s ự kết thúc của bài thánh ca". Cái cảm giác được nhưng mà anh, thể t ránh khỏi tự giác vào mình m ột đòn đ ến chết". một kẻ bất hạnh, anh có biết cái cảm giác được là gì không? Cái Nhưng con người thần thánh nhất thế giới cũng không phải là cảm giác được, đó là một "cái gậy" (tr.130). Toàn thân vật vã trong trắng! Tất cả bọn họ đều là kẻ có tội và không có cái vinh trong cơn lên kinh gi ật, thánh Bru-nô thậm chí có chỗ lại đấu quang mà trước con mắt của "tự ý thức" họ phải có. Thánh Bru-nô tranh chống một trong những luận đề của mình, như xưa kia Gia- không khỏi bị những trước tác phóng túng của kẻ dị giáo Phoi-ơ-bắc lôi cốp đấu tranh chống thượng đế, chỉ khác một điều là thượng đế cuốn khiến ông ta nghĩ tới người đàn bà và sắc đẹp đàn bà, khi đánh trẹo đùi Gia-cốp, còn người động kinh thần thánh của chúng ông ta nửa đêm vật lộn với cái "thực thể" trong căn phòng cô quạnh ta thì đánh cho rời rạc tất cả những bộ phận và dây chằng của luận của ông ta. Bỗng nhiên, mắt ông ta sa sầm lại; tự ý thức thuần túy đề của ông ta, khiến ông ta có thể lấy một số thí dụ rõ ràng để cắt của ông ta bị vấy bẩn vào trí tưởng tượng nhục dục và tội lỗi làm nghĩa sự đồng nhất của chủ thể và khách thể như sau: cho những hình ảnh dậm dật lượn lờ xung quanh, nhà phê phán băn khoăn lo sợ. Tinh thần thì mẫn tiệp, nhưng xác thịt thì yếu đuối. " Dù P hoi -ơ-bắc c ó nói gì t hì nói ... nhưng k hô ng vì t hế mà ông t a k hô ng t iêu diệt " ( !) " Con ng ười , vì ô ng t a biế n cái t ừ c on ngư ời t hà nh một c âu nói t rống r ỗng. .., vì Bru-nô chuệnh choạng, ông ta ngã, ông ta quên mất rằng ông ta là ô ng t a k hô ng là m ra " (!) " và kh ông sáng tạo ra " (!) " Con ng ười trong tổng th ể của cái quyền lực "có thể trói buộc, giải phóng và thống trị thế giới bằng nó, mà n â ng t oà n bộ l oài ngư ời l ên t hà nh cái t uyệt đối , vì n goài ra , ô ng ta t uyê n bố sức mạnh của mình", rằng những sản vật ấy của trí tưởng tượng r ằng k hôn g ph ải l oài ngư ời m à c ả m gi á c mới là c ơ qua n c ủa cái t uyệt đ ối; ô ng ta c oi của ông ta là "tinh thần của tinh thần của ông ta"; ông ta mất hết đ ối tư ợng của cả m gi ác, c ủa tr ực qua n, c ủa cả m bi ết, - nói vắ n tắt - cái cả mgiá c đư ợc, l à c ái t uyệt đối , c ái hi ển nhi ên, c ái xác t hự c t rực tiế p". Là m như vậ y, P hoi -ơ-bắc, - mọi "tự ý thức" và trong cơn say ngây ngất, ông ta ấp úng ca đâ y là ý ki ế n c ủa t há nh B ru-nô, - "t uy có t hể l à m rung c huyể n c á c l ớp k hô ng k hí, ngợi sắc đẹp đàn bà, "yêu kiều, dịu dàng, yểu điệu", ca ngợi "sự như ng k hông t hể x oá bỏ những hi ện t ượng của bản chất co n người , vì bả n c hất s âu xa đầy đặn và tròn trĩnh của chân tay" và "cơ thể lượn cong, sôi nổi, nhất " ( !) "c ủa c on ngư ời và li nh hồn c ủa c on ngư ời tứ c l à c ái ma ng l ại đ ời sống (... ) nồng nàn, rung rinh, rập rờn như sóng" của người đàn bà. Nhưng sự đã phá hủy t ừ t rư ớc mọi â m t ha nh b ên ngoài " (!) "và l à m c ho nhữ ng â m t ha nh đó trở trong trắng bao giờ cũng tự biểu lộ ra, ngay cả khi nó phạm tội. Ai t hà nh t rống rỗng v à c hối t ai" (tr.12 1). không biết rằng cái "cơ thể, lượn cong, rập rờn như sóng" là một cái gì T hánh Bru-nô tự mình đem lại cho chúng ta một lời giải thích đó mà không mắt ai thấy được, không một tai nào nghe được? Vì vậy, tuy có tính chất thần bí nhưng lại quyết định về những nguyên hãy bình tĩnh, hỡi linh hồn thân yêu, rồi tinh thần sẽ chi phối ngay xác nhân của thái độ vô lý của ông ta: thịt nổi loạn và dựng trước tính nhục dục tràn trề "một hàng rào" " Là m n hư t hể cá i Tô i c ủa t ôi c ũng k hôn g t hể c ó c á i g i ới tí n h x á c đ ịn h, d uy không thể vượt qua, "vấp phải nó" thì tính nhục dục sẽ lập tức giáng n h ất ấ y s o với t ất cả những giới tính khác , và những k hí qua n giới tính xác định và d uy vào mình "một đòn đến chết". nhất ấ y". (Ngoài nhữ ng "khí quan giới t ính d uy nhất " của mì nh, nhâ n vật cao quý này còn có một "giới tính duy nhất" và đặc biệt !). " Nh ờ hi ể u một c á c h phê phá n " Gi a đ ì nh t hầ n t há nh", c uối c ùng vị t há nh đ ã đ i đ ến c hỗ nó i như sa u: "P hoi -ơ- bắc l à một nhà d u y t â m t i ê m n hi ễ m c h ủ n ghĩ a nhâ n G iới tính duy nhất ấy được giải thích ở tr.121 như sau: đ ạo và bị c h ủ n ghĩ a nhâ n đạ o l à m c ho hư h ỏn g, t ứ c là một n g ười duy vậ t c hủ ng hĩ a k hô ng t hể c hị u đ ự n g nổi t rá i đ ất và sự t ồn t ạ i c ủa t rái đất " (thá nh Br u- nô bi ế t một " C á i c ả m gi ác đư ợc , n h ư c o n q uỷ hú t má u, hú t t ấ t c ả t ủy và má u c ủa đ ờ i số ng sự t ồ n t ạ i c ủa t rá i đ ấ t khá c v ới t rá i đ ấ t và cò n bi ế t p hả i l à m như t hế nà o đ ể c ó t hể
  20. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only. 130 131 65 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN. - HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC. TẬP I HỘI NGHỊ TÔN GIÁO LAI-PXÍCH.- II. THÁNH BRU-NÔ " c h ị u đ ựng nổi sự t ồn t ại c ủa t rái đ ất " đ ấ y!) "n hư n g ông t a mu ố n t ự ti nh t hầ n hoá " Nhà phê phán kiên trì con đường của mình, vững tin vào thắng lợi và đã chiến và l ê n trời, và đ ồng t hời ô ng ta l à nhà nhâ n đạ o c hủ nghĩ a k hông t hể nghĩ ra và xâ y t hắ ng. Ngư ời t a phỉ bá ng ô ng ta, - ô ng ta m ỉ m c ười . Ngư ời ta gọi ô ng t a là dị gi á o, - d ự ng được một t hế gi ới tinh t hầ n, như ng là nhà nhâ n đ ạ o c hủ nghĩ a tiê m nhiễ m c hủ ô ng ta m ỉ m c ười . Thế gi ới c ũ t iế n hà nh một cuộc t hậ p t ự c hi nh c hống ô ng ta, - ô ng ta nghĩ a d uy vật, v. v. " (tr.1 23). m ỉ m c ười ". Đ ối với thánh Bru-nô, chủ nghĩa nhân đạo - xét theo những T hánh Bru-nô - điều này thế là đã được xác định, - tiếp tục đi lời trên đây, - là ở chỗ "nghĩ ra" và "xây dựng một thế giới tinh con đường của mình, nhưng ông ta không đi như mọi người, mà thần"; giống hệt như vậy, chủ nghĩa duy vật là như sau: đi bằng bước đi phê phán và ông ta hoàn thành sự nghiệp quan " Người duy vật chủ nghĩ a chỉ thừa nhận cái hiện có t ồn tại hiện thực, tức là v ật trọng ấy v ới một nụ cười . chất ", (l àm như thể con người với tất cả những thuộc tính c ủa con ngư ời, kể cả t ư duy, không phải là " cái hiện có, tồn tại hiện t hực ") "và thừa nhận đ ó l à g iới tự nhiên t ự biểu " Nụ c ư ời c ủa ô ng t a k hiế n c ho k huôn mặ t ô ng t a có nhiề u nế p nhă n hơn c ả những hi ện và tự thực hiện một cách tích cực trong tí nh đa dạng" (tr.123). đ ường gạc h trê n bả n đ ồ t hế gi ới có hai nư ớc Ấn Độ. C ó t hể xảy ra sự việ c như sa u: T rước hết, vật chất l à cái hiện có, tồn tại hiện thực, nhưng một tiể u t hư đá nh ô ng t a một c ái tát tai : nế u c ô t a là m như vậ y, ô ng ta sẽ mỉ m c ư ời và c oi đó l à một nghệ t huật vĩ đại " 3 4 , gi ống như Ma n-vô-li-ô c ủa Sếc h-xpia vậ y. chỉ là cái tự tại, ẩn giấu. Chỉ khi nào nó "tự biểu hiện và tự thực hiện một cách tích cực trong tính đa dạng" ("cái hiện có tồn tại B ản thân thánh Bru-nô chẳng phải nhắc tay động chân chút h iện thực " "tự thực hiện" !!) thì nó mới trở thành g iới tự nhiên . nào để bác bỏ hai đối thủ của mình; ông ta biết một biện pháp Trước hết, có k hái niệm v ề vật chất, một sự trừu tượng, một thuận tiện hơn để thoát khỏi họ, ông ta mặc - divide et impera 1* quan niệm, v.v., và quan niệm nà y tự thực hiện trong tự nhiên - c ho họ cãi nhau. Ông ta đem Con người của Phoi-ơ-bắc (tr.124) ra hiện thực. Thật đúng y hệt lý luận của Hê-ghen về sự tồn tại đối lập với Stiếc-nơ, đem Kẻ duy nhất của Stiếc-nơ (tr.126 trước của những phạm trù có sức sáng tạo. Xét theo quan điểm và những trang tiếp) ra đối lập với Phoi-ơ-bắc; ông ta biết rằng hai đó thì hoàn toàn dễ hiểu rằng thánh Bru-nô đã phạm sai lầm khi bên thù nhau chẳng khác gì hai con mèo ở Kin-ken-ni xứ coi những cô ng thức triết học của những người du y vật chủ Ai-rơ-len ăn lẫn nhau đến nỗi chỉ còn lại hai cái đuôi. Hai cái đuôi nghĩa về vật chất là hạt nhân hiện thực và nội dung của thế giới ấy là đối tượng phán xét của thánh Bru-nô, ông tuyên bố rằng chúng quan của họ. là "thực thể " và vì vậy bị nguyền rủa đời đời. Khi đối lập Phoi-ơ-bắc và Stiếc-nơ, ông ta chỉ lặp lại chính 2. NHỮNG SUY NGHĨ CỦA THÁNH BRU-NÔ VỀ CUỘC ĐẤU điều mà Hê-ghen nói về Xpi-nô-da và Phi-stơ. Như mọi người đều TRANH GIỮA PHOI-Ơ-BẮC VÀ STIẾC-NƠ biết, Hê-ghen nói rằng cái Tôi rút lại thành một chấm là một mặt, Sau khi nói vài lời đích đáng về Phoi-ơ-bắc như vậy, thánh hơn nữa là một mặt vững chắc nhất, của thực thể. Dù trước kia Bru-nô bắt đầu xem xét cuộc đấu tranh giữa Phoi-ơ-bắc và Kẻ duy nhất. Bru-nô công kích chủ nghĩa vị kỷ dữ dội đến đâu đi nữa, thậm chí Cái cách đầu tiên ông dùng để biểu lộ sự quan tâm của mình đến cuộc đấu tranh ấy là một nụ cười được nhắc lại ba lần và được đề lên thành phương pháp. 1* - chia và trị
nguon tai.lieu . vn