Xem mẫu

  1. Triết học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel Phần II Chương III - TRÍ TUỆ Với trí tuệ, chúng ta nắm được chân lý cao, nhưng vẫn có mâu thuẫn, chân lý ấy lại tự phủ định nó. Chân lý của trí tuệ là những quan hệ toán lý mà chúng ta có thể hiểu biết được ngoài hay trên thế giới cảm giác kinh nghiệm. Với hoạt động trí tuệ, chúng ta xây dựng một thế giới mới, thế giới cao hơn thế giới cảm giác, một thế giới siêu giác. Thế giới siêu giác là chân lý, là thực tế khách quan chân chính ngoài chúng ta. Phân tích nội dung, chúng ta thấy trong ấy có những quan hệ toán lý. Nhưng quan hệ toán lý gì? Căn bản là cách chúng ta tính toán, nó là hoạt động tính toán của ý thức. Chính nó là cái hoạt động của ý thức. Nội dung của nó là chủ quan, mà ta tưởng là ở ngoài ta. Đến đây có mâu thuẫn: hình thức đối tượng khách quan mâu thuẫn với nội dung đối tượng khách quan (tức là chủ quan). Do đó, chân lý khách quan là chủ quan. Thế giới khách quan không có gì là khác mình. Ý thức chuyển lên ý thức bản ngã, và chính thế giới khách quan cũng là ý thức thôi. Hegel đã đi thêm một bước nữa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa duy tâm. Phê phán: Lập luận biện chứng này là gì?
  2. l) Thực tế trong lịch sử loài người, cũng có một lúc khoa học định nghĩa thế giới khách quan bằng toán lý. Nhưng có phải nó chấm dứt với ý nghĩa tri giác không? Những quan hệ toán lý nó đặt ra là trên cơ sở kinh nghiệm. Quy luật này, quy luật kia, là quy luật của thế giới vật chất xuất hiện trong kinh nghiệm. Còn nội dung toán lý thật ra thì có phần chủ quan, vì do hoạt động tính toán của chúng ta. Nhưng hoạt động tính toán của chúng ta cũng là phản ánh một quá trình cơ giới thực sự mà chúng ta nắm trong kinh nghiệm máy móc. Không có sản xuất máy móc, không có tính toán, và tính toán chỉ là một cách phản ánh cái hoạt động máy móc đã có, và dự tính quá trình lao động máy móc sau này. Nội dung thực sự là thực tế khách quan của thế giới vật chất. 2) Đến trình độ trí tuệ, Hegel nói chính đối tượng ý thức ấy là mình (ý thức biến thành ý thức bản ngã). Điểm này cũng phản ánh một hiện tượng thực tế. Vì ý thức bản ngã là gì? làm sao mà tôi có ý thức bản ngã được. Trong quá trình lịch sử, ý thức bản ngã phát triển với hoạt động sở hữu hóa. Tôi là tôi có của. Quá trình sở hữu hóa có thể cá thể hay tập thể. Thời thị tộc, tôi tức là tôi tập thể. Bản ngã có tính chất cá thể xuất hiện với chế độ sở hữu cá thể, tách biệt người này với người kia. Của của tôi không phải là của của anh. Quá trình sở hữu hóa tự phát đến chế độ tư bản mới có tính chất tự giác. Chính đấu tranh của giai cấp tư bản chống giai cấp phong kiến nhằm chế độ tư hữu mới, có ý thức, đấu tranh chống lại những đặc quyền của giai cấp phong kiến. Trái lại, đấu tranh của nô lệ chống chủ nô, hay phong kiến mới chống Nhà nước chủ nô cũ, không có ý thức rõ rệt về nội dung thực sự, tức là thay đổi chế độ sở hữu. Sở dĩ bọn tư bản có ý thức như vậy là vì lần đầu tiên có một tổ chức sản xuất mà người chỉ huy sản xuất có thể nắm được rõ rệt quá trình của nó. Phương thức sản xuất tư bản chủ
  3. nghĩa là một phương thức có ý thức, bọn tư bản tính toán quá trình sản xuất một cách chi tiết. Tất nhiên không phải là tính toán toàn bộ, họ chỉ trong phạm vi cục bộ tư hữu thôi, chứ không phải toàn bộ, cho nên sinh ra hẹp hòi, duy tâm, trừu tượng. Nhưng trong giới hạn ấy, nó có nắm được quá trình sản xuất. Trong giới hạn ấy, bọn tư bản nắm được hoạt động của con người theo hình thức kỹ thuật trừu tượng. Vì họ nắm được như vậy, cho nên ý thức sở hữu của họ rất rõ rệt. Chính tổ chức sản xuất với cách vận dụng trí tuệ của nó gây ra ý thức sở hữu và cuộc đấu tranh giai cấp của tư bản chống phong kiến. Hegel đã phản ánh quá trình này trong phạm vi tinh thần. Hegel nói: những mâu thuẫn của trí tuệ đưa đến ý thức bản ngã. Thực tế, nó là quá trình phương thức tư bản chủ nghĩa chuyển lên đấu tranh chống phong kiến, tranh giành quyền tư hữu tư bản chủ nghĩa. Nó là một quá trình thực tế trong lịch sử. Nhưng Hegel đã phản ánh một cách hẹp hòi nên kết luận lộn ngược: thế giới là chúng ta tức là không có thế giới, chỉ có chúng ta. Triết học Hegel là duy tâm tuyệt đối, nhưng nó thông qua cả nội dung cụ thể của lịch sử, không để một cái gì ở ngoài cả. Chính nội dung tuyệt đối là do nó phản ánh lịch sử có thật. Nó có cái mà Marx gọi là «hạt nhân duy lý». Mâu thuẫn xuất hiện trong phạm vi tinh thần phản ánh mâu thuẫn thực sự của tự nhiên. Phương pháp nêu mâu thuẫn, vận dụng mâu thuẫn, diễn tả quá trình biến chuyển theo mâu thuẫn là một phương pháp rất đúng mà Hegel đã vận dụng trong phạm vi duy tâm, một cách trái ngược, nhưng căn bản có hình thức đúng. Nội dung ấy đã bị xuyên tạc. Đấu tranh giai cấp thực sự trong xã hội thì Hegel lại quan niệm là quá trình phát sinh của ý thức tự ngã. Nhưng trong lúc mô tả quá trình phát sinh ấy trong phạm vi tinh thần với những khái niệm trừu tượng, thực tế Hegel đã diễn tả những hình ảnh phản ánh cuộc đấu tranh thực sự giành quyền sở hữu của giai cấp tư bản.
  4. Chương IV - Ý THỨC BẢN NGÃ (tức là tự ý thức, B.T) Có thể nói đây là chương nổi tiếng nhất của quyển Hiện tượng luận tinh thần. Chương này được sử dụng rất nhiều. Nó chia làm hai phần: Phần I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã. Phần II - Tự do tính của ý thức bản ngã. Phần I gồm ba tiết: 1 - Ý thức bản ngã trong lòng ham muốn; 2 - Chiến đấu sống chết; 3 - Chủ nô và nô lệ. Phần II gồm 3 tiết: 1 - Khắc kỷ; 2 - Hoài nghi; 3 - Tâm hồn gian khổ. Phần thứ I phản ánh những cuộc đấu tranh phát triển cuối thời thị tộc và quá trình chuyển biến của chế độ nô lệ. Phần II trình bày những chủ nghĩa phát triển cuối thời nô lệ ở Địa Trung Hải. Ba chủ nghĩa: khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ (tức là đạo Gia tô) nhằm đề cao tự do tính của con người. Theo Hegel, những người theo đạo Gia-tô là những người có tâm hồn gian khổ. Tâm hồn họ được cứu thế, nhưng đời này thì tâm hồn đó vẫn gian khổ. Chính trạng thái gian khổ đó gây nên đòi hỏi cứu thế. Hegel đã diễn tả quá trình lịch sử đó trong phạm vi tinh thần.
  5. Phần I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã 1 - Ý thức bản ngã trong lòng ham muốn Biện chứng pháp của ý thức nhằm đối tượng đã đi tới chỗ nhận thấy rằng thế giới khách quan mà ý thức tưởng là có ngoài ta, thực ra cũng chỉ là ta. Đến trình độ trí tuệ, thế giới cũng chỉ là quan hệ toán lý do ý thức đặt ra, nó là một hệ thống quan hệ chủ quan có giá trị khách quan. Như thế, đối tượng khách quan cũng chính là mình thôi. Tức là ý thức chuyển lên ý thức bản ngã. Cái mà tôi trông thấy cũng là tôi thôi. Hình thức đơn giản nhất của ý thức bản ngã Hegel giới thiệu là lòng ham muốn. Trong lòng ham muốn, chúng ta phủ định đối tượng tức là cái mà ta ham muốn. Ham muốn cho là đối tượng độc lập ngoài mình là của mình, do đó mà mình đòi hỏi nó, đem nó hấp thụ vào mình. Lòng ham muốn phủ định vật thể bên ngoài. Đó là hình thức đơn giản nhất ở trình độ sinh vật của ý thức bản ngã. Ý thức bản ngã gặp đối tượng thì lại chỉ thấy mình. Nhưng trong lúc ý thức bản ngã phát triển với hình thức ham muốn, thì nó gặp mâu thuẫn ở chỗ một khi lòng ham muốn đã được thỏa mãn rồi thì lại ham muốn nữa, đối tượng khách quan bao giờ cũng tái lập. Vậy bản ngã, thực tế, không bao giờ phủ định được đối tượng khách quan như ý muốn. Trái lại, đối tượng khách quan cứ xuất hiện mãi, do đó mà lòng ham muốn cũng cứ kéo dài. Điều đó chứng tỏ lòng ham muốn không đủ để phủ định khách quan. Trong quá trình ham muốn chỉ có ý phủ định khách quan, nhưng thực tế không phủ định được nó. Mâu thuẫn đó chỉ giải quyết được bằng cách khách quan tự nó phủ định nó, nó công nhận nó không phải là nó, mà là mình. Ý thức bản ngã chỉ có thể được thỏa mãn bằng quá trình công nhận: ý thức bản ngã được ý thức bản ngã khác công nhận. Nói nôm na là hai người phải công nhận quyền sống của mỗi bên. Chỉ trong trường hợp hai bên công nhận lẫn nhau như thế mới thiết lập được một cách chân chính ý thức bản ngã, tức là sự tin tưởng ở mình. Tin tưởng ấy có thực hay không là do chỗ người ta có công nhận mình hay không.
  6. Quá trình được công nhận xuất hiện như thế nào? Nó xuất hiện trong cuộc chiến đấu sống chết. 2 - Chiến đấu sống chết Theo Hegel, buổi đầu hai người gặp nhau, mỗi người tự tin tưởng ở mình và chỉ tin tưởng ở mình thôi, chưa bên nào công nhận bên nào cả. Lúc đó, bên này còn cho bên kia là một vật cần phải phủ định và tiêu diệt. Bên này tiêu diệt bên kia, vì nó chỉ trông thấy có nó. Trong khi tiêu diệt bên kia thì tự nó cũng phải chịu cái nguy hiểm là nó cũng có thể bị tiêu diệt, nghĩa là trong chiến đấu nó cũng có thể chết. Cuộc đấu tranh của đôi bên là đấu tranh vì muốn được công nhận. Mỗi bên phải tiêu diệt bên kia, đồng thời cũng có thể bị tiêu diệt. Có thế mới chứng minh rằng mình mới xứng đáng được công nhận. Nói một cách nôm na, cuộc đấu tranh đó là đấu tranh vì danh dự. Đấu tranh là đấu tranh sống chết, vì nó nhằm cái chết bên kia, đồng thời chứng minh rằng mình không sợ chết. Nhưng đây xuất hiện mâu thuẫn: nếu trong chiến đấu, một bên chết đi hoặc cả hai bên đều chết, thì không còn ai để công nhận, vì bên kia đã chết rồi. Hoặc nếu cả hai bên chết thì hết vấn đề. Đó là mâu thuẫn nội bộ mà bước đầu chỉ có thể giải quyết được bằng cách một bên này công nhận một bên kia. Bên được công nhận tập trung ý nghĩa của ý thức bản ngã, tức là ý nghĩa danh dự của con người. Bên được công nhận đó là chủ nô. Bên phải công nhận thì nhận phần vật chất, biến thành nô lệ. Như thế là phần tinh thần thì thuộc về chủ nô, phần vật chất thì thuộc về nô lệ. Nô lệ chịu làm nô lệ cho chủ nô là đã công nhận phần tinh thần của mình ở bên kia tức là bên chủ nô rồi. Còn bên chủ nô lệ là bên được công nhận thì sử dụng nô lệ như là vật thể của mình. 3 - Chủ nô và nô lệ Biện chứng pháp của chủ nô là bộc lộ mâu thuẫn trong con người chủ nô. Đối với chủ nô, ý thức bản ngã là tinh thần, nó chỉ biết nó, nó coi vật thể tức thế giới vật
  7. chất như là của nó. Nó phủ định thế giới vật chất bằng cách sử dụng nô lệ, bắt nô lệ phải biến thế giới vật chất thành một thế giới cho nó có thể hưởng thụ được, tức là thông qua người nô lệ nó phủ định tính chất khách quan của thế giới vật chất trong quá trình hưởng thụ, làm cho vật thể không còn tính chất độc lập bên ngoài mà chỉ có trong phạm vi mình hưởng thụ nó. Xét bề ngoài thì như thế, nhưng xét bề trong thì cái gì cho phép chủ nô phủ định, hưởng thụ vật thể khách quan? Đó là công trình lao động của nô lệ. Nhờ công trình lao động ấy mà vật thể khách quan đã biến thành một vật thể cho chủ nô hưởng thụ. Chân lý là ở người nô lệ. Đó là nguyên nhân phủ định thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan thành vật thể hưởng thụ. Đó là chân lý của ý thức bản ngã của chủ nô. Tức sự hưởng thụ của chủ nô. Về phía nô lệ, khi công nhận bên kia làm chủ thì đã bị mất tinh thần rồi. Tinh thần của mình đã chuyển sang chủ nô. Mình chỉ còn là vật thể dưới quyền sử dụng của tinh thần của chủ nô. Như thế cũng chỉ là bề ngoài, vì xét đến nội dung thực sự, thì chính trong lúc anh ta tưởng là mất tinh thần tức là mất quyền làm người của mình, thì thực tế anh ta đã run sợ, chứng tỏ có ý thức sâu sắc về ý thức bản ngã. Anh ấy là vật thể đương bị đe dọa. Vật thể đương bị đe dọa chính là anh ta, là mình. Ý thức bản ngã mà tự cảm thấy trong lúc run sợ lại được thành hình vững chắc trong công trình lao động, vì trong cương vị nô lệ anh ta chỉ lao động mà không được hưởng thụ. Trong công trình lao động ấy, anh ta đã tạo ra một con người mới, có quyền lực thực sự đối với giới vật chất. Quyền lực của chủ nô đối với vật chất chỉ là bề ngoài, vì phải thông qua lao động của nô lệ. Chỉ có nô lệ với công trình lao động thực sự của họ, họ mới có quyền thực tế đối với thế giới bên ngoài. Họ mất tinh thần, nhưng thực tế họ đã tự tạo một tinh thần có giá trị thực sự. Cái lý của hưởng thụ mà chủ nô tưởng là của nó, thì thực chất là của nô lệ, do lao động của họ gây nên. Phê phán:
  8. Đó là một biện chứng pháp được nhiều ảnh hưởng về mọi mặt. Biện chứng pháp này trong triết học Âu châu, ngoài phần sử dụng của Marx, bọn triết gia tư sản cũng đem sử dụng với mục đích khác. Ta thấy Hegel có phân tích sâu sắc một quá trình diễn biến tư tưởng, phản ánh một quá trình lịch sử thực, tức là sự xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ, và cuộc suy vong của giai cấp chủ nô, và thắng lợi cuối cùng của nô lệ, tuy rằng trong lịch sử, nó là thắng lợi hữu hạn. Cái thắng lợi đó là cái mà Hegel gọi là chân lý của ý thức chủ nô. Chủ nô tưởng là đã tập trung hết cả quyền lực vào mình, nhưng thực tế thì quyền lực là về bên nô lệ. Chế độ nô lệ tự nó mâu thuẫn với nó, và tự nó phủ định nó. Nhưng trong lúc giới thiệu quá trình diễn biến trong phạm vi tinh thần, Hegel hoàn toàn không đếm xỉa gì đến cơ sở thực tế của nó. Hegel đã trình bày quá trình diễn biến một cách hoàn toàn trừu tượng, thành ra chỉ có trong tinh thần thôi. Do đó, Hegel không những không biết gì đến cơ sở thực tế, mà thực ra lại đảo lộn ý nghĩa chân chính trong tinh thần nữa. Lập luận của Hegel có một phần nói đúng, nhưng chính phần đúng đó cũng bị đảo ngược. Đảo ngược như thế nào? l) Trước nhất, ở chỗ nói lòng ham muốn là biểu hiện của ý thức bản ngã phủ định vật thể bên ngoài, phủ định tính chất khách quan của vật thể, cho vật thể là của mình, là mình. Ở đây, Hegel có mô tả trạng thái ham muốn trong tinh thần. Trong lúc ham muốn, có thể cắt nghĩa là có phủ định tính chất khách quan của vật ta ham muốn, có lôi nó về mình, nhưng trạng thái đó ở đâu ra? Phải chăng là ở quá trình hoàn toàn duy tâm như Hegel trình bày? Thực tế, trước khi có lòng ham muốn thì cũng đã có kinh nghiệm hưởng thụ. Nếu chưa có thì làm sao có ham muốn được. Chỉ ham muốn cái đã từng hưởng thụ. Kinh nghiệm hưởng thụ, xét tới cùng, cũng là xuất phát từ một quá trình vật chất, một quá trình sinh lý. Từ quá trình sinh vật trong cơ thể, và trong những quan hệ thực tế giữa cơ thể và hoàn cảnh, mới gây ra những kinh nghiệm hưởng thụ, mới biết cái gì là hưởng thụ được. Trong tinh thần,
  9. khi lòng ham muốn phủ định tính chất khách quan, độc lập của vật thể, cho nó là mình thôi, thì nó cũng chỉ là lặp lại một quá trình đã có trong thực tế. Khi đã có ham muốn thì mới phủ định tính chất khách quan của đối tượng ham muốn. Cái mà Hegel cho là cơ sở của chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ là sự phản ánh quá trình vật chất. Hegel vì không trông thấy cơ sở thực tế của ý thức ham muốn, thành ra đến lúc chuyển lên vấn đề công nhận thì cũng không làm sao thấy được những lý do thực tế đã đưa đến đó. 2) Hiện tượng chiến đấu sống chết thì có trong kinh nghiệm lịch sử thật. Chiến đấu vì muốn được công nhận. Vì muốn được công nhận thì phải tiêu diệt bên kia, và tự mình cũng nhận phần có thể bị tiêu diệt. Nhưng có phải chỉ vì muốn được công nhận trong ý thức bản ngã của mình mà hai bên tiêu diệt lẫn nhau, chiến đấu với nhau đến chết không? Trong tinh thần có trạng thái chiến đấu đó, nhưng nội dung thực tế có phải như thế không? Trong lịch sử ta thấy rằng: Chiến đấu sống chết lúc đầu không phải là giữa hai cá nhân mà là giữa hai thị tộc với nhau. Ý thức danh dự đây là của tập thể, tức là của thị tộc. Chứ không phải của cá nhân. Cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ cơ sở sản xuất của thị tộc ấy. Nếu không có cơ sở sản xuất ấy, thì không hiểu vì đâu các thị tộc chiến đấu với nhau. Cuộc chiến đấu phát triển thì nó có ý thức chiến đấu sống chết, vì muốn được công nhận. Đó là quá trình duy tâm trong quá trình thực tế; nhưng thực chất của nó vẫn dựa trên cơ sở vật chất. Hegel vì đã tuyệt đối hóa một hiện tượng duy tâm, nên nói rằng hai bên phải tiêu diệt lẫn nhau, và nhận rằng mình cũng có thể bị tiêu diệt. Vì tuyệt đối hóa hiện tượng ấy nên Hegel đã đi tới đề cao chiến đấu vì chiến đấu, lấy chiến đấu sống chết làm điều kiện tất yếu của danh dự con người. Do đấy, sẽ cho rằng chiến tranh có một giá trị huyền bí; đã làm người là phải có chiến tranh; có chiến tranh mới có giá trị. Đây là một đoạn mà bọn phản động ở Pháp, Đức, Ý đã lợi dụng để tuyên truyền chiến tranh từ 100 năm lại nay.
  10. 3) Về nguồn gốc chế độ nô lệ, theo cách trình bày của Hegel, thì sở dĩ có chủ nô và nô lệ là vì cần được công nhận. Như thế thì bên được phải để cho bên kia sống để công nhận nó. Trong thực tế, sở dĩ bên thắng để cho bên bại sống làm nô lệ là vì trình độ sản xuất đã phát triển tới một mức nhất định. Nếu kỹ thuật chưa đến mức dùng nô lệ có lợi thì sẽ không có chuyện dùng nô lệ, mà tù binh bắt được hoặc bị giết đi, hoặc không bị giết thì được kết nạp trong thị tộc. Hegel đã bỏ qua hoàn toàn điều kiện bóc lột của chế độ chiếm hữu nô lệ, do đó đã duy tâm hóa tính chất bóc lột, cho rằng chủ nô đã tập trung phần tinh thần, và nô lệ thành vật thể của chủ nô. Hegel có mô tả những trạng thái tâm lý đã có trong chế độ nô lệ, như: coi nô lệ là vật thể, chỉ có chủ nô mới có tinh thần. Nhưng hiện tượng tâm lý đó là do chế độ áp bức bóc lột gây ra, chứ không phải chế độ áp bức bóc lột xuất hiện từ tinh thần ấy. Hegel đã lộn ngược vấn đề. Do đấy, đã bỏ qua cái quá trình đấu tranh giai cấp thực sự giữa chủ nô và nô lệ, bỏ qua những thủ đoạn áp bức bóc lột của bọn chủ nô, bỏ qua tinh thần chiến đấu và lịch sử chiến đấu của giai cấp nô lệ. Phần nội dung chân chính trong biện chứng pháp của Hegel là có trông thấy chân lý của hưởng thụ của chủ nô chính là do công trình lao động của nô lệ. Nhờ đó mà Hegel đã có ảnh hưởng. Nhưng Hegel lại trình bày phần chân chính đó một cách rất trừu tượng, tách rời khỏi quá trình đấu tranh tích cực của nô lệ chống chủ nô, chỉ trông thấy phần huấn luyện con người của giai cấp nô lệ. Do đó mà nói rằng chính công trình lao động trong cương vị nô lệ, tức quá trình lao động cưỡng bách, đã tạo ra con người mới có sức cải tạo thiên nhiên thực sự. Điều đó có phần đúng, nhưng trình bày trừu tượng như thế thì hình như chế độ nô lệ là một điều kiện tất yếu để tạo ra con người có tài năng thiết thực. Như thế là Hegel đã duy tâm hóa chế độ nô lệ, không biết rằng tuy trong lịch sử chế độ nô lệ có đóng vai trò tiến bộ trong một giai đoạn nào đó, nhưng đây chỉ là do điều kiện lịch sử, tức là sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy. Chế độ nô lệ chỉ tiến bộ trong điều kiện lịch sử ấy, chứ không phải do sự cưỡng bách lao động mới tiến bộ, mới tạo ra con người có tài năng. Sở dĩ lao động lúc đầu tiên phải cưỡng bách, là vì có thế mới nâng cao mức lao động hơn cái mức ở chế độ thị tộc. Nhưng cưỡng bách nhất định không
  11. phải là một bản chất của lao động. Vì duy tâm hóa điều kiện lịch sử này, nên cho rằng cưỡng bách là một điều kiện để tạo ra con người có kỷ luật, có tài năng. Đấy là điểm rất sai của Hegel. Thực tế, ta đã thấy trong những điều kiện lịch sử khác, chế độ thị tộc có thể chuyển sang một chế độ không có áp bức bóc lột mà vẫn không phải thông qua chế độ nô lệ. Thực tế, không phải là phải có áp bức bóc lột người ta mới tạo cho con người có kỷ luật, tài năng. Lập luận của Hegel chính là di tích của quan niệm thống trị cũ. Bề ngoài, Hegel hình như có đề cao giai cấp mới, mà thực sự có đề cao thật, nhưng xét thực chất thì Hegel đề cao nó một cách rất trừu tượng, rất duy tâm. Hegel đã đề cao công trình lao động của nô lệ với hình thức cưỡng bách của nó, mà không phải đề cao công trình lao động của nô lệ trong phần chống cưỡng bách ấy. Lối đề cao của Hegel cũng tựa như một số người cho rằng có chế độ thực dân thì ta mới có một số kỹ thuật, mới học tập được một số kiến thức. Như thế là đã phê phán chế độ thực dân trong phạm vi chế độ thực dân. Đó là một sai lầm nguy hại. Chính Hegel vì đã đề cao công trình lao động nô lệ trong phạm vi nô lệ, trong cương vị người nô lệ, thành ra không có giải pháp thực tế. Nếu đã nhận giai cấp nô lệ là chân lý của giai cấp chủ nô, chủ nô có được cái gì là nhờ nô lệ cả, thì sẽ không thể duy trì được mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ. Nhưng Hegel không đi xa hơn kết luận tiêu cực ấy. Đến lúc cần một giải pháp tích cực, thì Hegel chỉ có thể đưa ra những giải pháp duy tâm của giai cấp chủ nô đã đề ra cuối thời kỳ chiếm hữu nô lệ, tức là khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ.
nguon tai.lieu . vn