Xem mẫu
- Triết gia ĐỀ - CÁC – TƠ
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM
Rêne Đề - các – tơ là nhà triết học, nhà bách khoa toàn tưh vĩ
đại người Pháp, đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVII.
Đề - các – tơ sinh ngày 31- 03 – 1596, ở thị trấn Lahaye xứ
Touraine thuộc miền nam nước Pháp trong một gia đình dòng dõi quý tộc
lâu đời. Ông mồ côi mẹ từ nhỏ, mười tuổi bắt đầu đi học ở trường dòng –
trường của giáo hội, sau đó học luật sư. Triết học Đề - các – tơ bắt nguồn
từ tư duy, triết học đề cao con người chứ không phải đặt con người bên
cạnh tự nhiên như Bê – cơ, Hốp – xơ. Ngoài triết học, tên tuổi Đề - các –
tơ gắn liền với tóan học, vật lý học, sinh vật học với những đóng góp quan
trọng vào các lĩnh vực này.
Ông đặc biệt say mê nghiên cứu những vấn đề triết học và
khoa học tự nhiên. Ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như:
Các quy tắc chỉ đạo lý tính (1637)
-
Thế giới hay là tiểu luận về thế giới (1633)
-
Khúc xạ học (1637)
-
- Sao băng (1637)
Luận về phương pháp (1637)
-
Các nguyên lý của triết học (1644)
-
Vê trạng thái đau khổ của tâm hồn (1649)
-
II. CÁC VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC CỦA ĐỀ - CÁC – TƠ
1. Quan niệm của Đề - các – tơ về bản chất và vai trò của triết
học. Điểm xuất phát của triết học Đề - các – tơ.
a. Quan niệm của Đề - các – tơ về bản chất và vai trò của triết
học.
Đề - các – tơ đề cao vai trò của triết học đối với đời sống của
con người. Theo ông,trình độ phát triển tư duy triết học là tiêu chuẩn quan
trọng nhất để đánh giá mức độ văn minh của con người.
Trong quan niệm của Đề - các – tơ, thì triết học, theo nghĩa
rộng là tổng thể tri thức của con người về nhiều lĩnh vực, theo nghĩa hẹp là
siêu hình học được coi như nền tảng của hệ thống thế giới quan. Toàn bộ
thế giới quan khoa học của con người “tương tự như một cái cây, mà bộ rễ
của nó là siêu hình học, thân cây là vật lý học, lá là các khoa học khác”.
- Mục đích cuối cùng của các khoa học là phục vụ con người hướng con
người về trí tuệ tự nhiên
(cây minh họa)
Ông chỉ ra sự thống nhất triết học và các khoa học khác: sự
thống nhất ấy là đạt đến mục đích là chân lý. Đối tượng của các khoa học
là nó đạt đến tính chỉnh thể dễ hơn là nghiên cứu nó một cách riêng rẽ.
Nhiệm vụ của triết học là:
Xây dựng những nguyên lý, phương pháp luận cơ bản làm cơ
-
sở cho các khoa học khám phá ra chân lý, đồng thời hoàn thiện và phát triển
chúng.
Thứ hai, xây dựng phương pháp luận cho nhận thức con
-
người.
b. Điểm xuất phát cho triết học Đề - các – tơ.
Đó là sự nghi ngờ, hoài nghi, ông đặt những gì người ta đạt
được dưới sự nghi ngờ, phê phán của lý tính, coi lý tính là tòa án tối cao
thẩm định tất cả.
Vậy xuất phát từ sự nghi ngờ tất cả những gì người ta đạt
được nên ông nói triết học của mình phải bắt đầu từ nền móng. Sự xuất
phát của triết học cũng như mọi khoa học theo Đề - các – tơ là từ sự nghi
ngờ. Nghi ngờ của Đề - các – tơ mục đích cuối cùng là đạt đến chân lý.
Hoài nghi của Đề - các – tơ có tính chất phương pháp luận, hòai nghi là
biện pháp có điều kiện để giúp nhận thức con người không vào sai lầm
trong nhận thức.
Các vấn đề mà ông nghi ngờ:
Hệ thống triết học truyền thống, ông ám chỉ chủ yếu triết học
-
trung cổ của triết học kinh viện.
Nghi ngờ tất cả các khoa học khác vì nó dựa trên nền tảng
-
không đúng của triết học.
Nghi ngờ thần học.
-
Nghi ngờ phê phán những quan điểm đạo đức thời cổ đại.
-
Nghi ngờ cảm giác, tin vào lý tính duy nhất của con người.
-
Mệnh đề nổi tiếng được Đề - các – tơ đưa ra là “tôi tư duy, tôi tồn
tại”. Đây là mệnh đề đúng đắn đầu tiên mà không ai có thể nghi ngờ và bác
bỏ được. Đấy chính là nguyên lý đầu tiên, là điểm xuất phát của triết học
Đề - các – tơ. Mệnh đề “tôi tư duy, tôi tồn tại”, có nghĩa là không thể nghi
ngờ được chính bản thân chủ thể đang nghi ngờ, đó là chính bản thân Tôi.
Tôi đang hoài nghi sự tồn tại của chính mình, vì tôi đang nghi ngờ. Nếu tôi
không tồn tại thì làm sao tôi có thể đang nghi ngờ được. Mặt khác, chính vì
- tôi đang nghi ngờ thì tôi mới biết mình đang tồn tại. Bởi vậy tôi đang tồn
tại là nhờ việc nghi ngờ.
Vậy cái ông không nghi ngờ chính là sự đang nghi ngờ của
chính bản thân tôi, có tư duy, có suy nghĩ được. Chính tôi tư duy được, suy
nghĩ được thì tôi tồn tại.
2. Siêu hình học và phương pháp luận của Đề - các – tơ.
a. Xét về khía cạnh bản thể luận, siêu hình học của Đề - các – tơ là
học thuyết giải thích về căn nguyên của thượng đế, giới tự nhiên và con
người. Về mặt nhận thức luận đó là những nguyên tắc, nguyên lý cơ bản
của nhận thức kết thành hệ thống chỉ đạo hoạt động và năng lực nhận
thức của con người.
Từ phương diện chứng minh sự tồn tại của các sự vật theo
tinh thần của Côgito, Đề - các – tơ đã đi đến lập luận về sự tồn tại của
thượng đế. Theo ông, thượng đế là có thực, bởi vì mọi người ở mọi dân
tộc họ đều có ý tưởng về ngài. Cách chứng minh như là soi gương để có
hình ở trong gương, thì phải có chúng ta ở bên ngoài.
Khẳng định sự tồn tại của thượng đế, Đề - các – tơ đặc biệt
nhấn mạnh tính trí tuệ của thượng đế. Khát vọng của con người là vô biên
vì vậy phải có thượng đế tượng trưng cho sự hoàn hảo và tối cao tuyệt
đối.
Từ cách chứng minh sự tồn tại của thượng đế như trên, Đề -
các – tơ đi đến khẳng định sự tồn tại của các sự vật. Toàn bộ sự vật thế
giới khách quan là tồn tại hiện thực. Trên thực tế để xác định được sự tồn
tại và bản chất của các sự vật trên thế giới, con người chỉ có thể dựa trên
sự hiểu biết của mình về chúng.
Toàn bộ sự vật hiện tượng trên thế giới đều xuất hát từ hai
nguồn gốc thực thể: thực thể vật chất (quảng tính) và thực thể tinh thần
(tư duy). Hai loại thực thể này thuộc hai loại thực thể khác nhau.
-Thứ nhất, thực thể tư duy bao gồm toàn bộ các ý niệm tư tưởng, ý
thức cá nhân của con người.
- Thứ hai, thực thể quảng tính bao gồm những sự vật mang tính
không gian và thời gian.
Thực thể theo Đề - các – tơ là một thế giới hoàn toàn độc lập,
không cần và không liên quan đến cái khác, mà tự nó có thể tồn tại và phát
triển được. Ngoài thượng đế duy nhất tất cả mọi vật đều thuộc một trong
hai thực thể trên. Con người là một thực thể đặc biệt gồm thực thể vật
chất (thể xác) và thực thể tinh thần (linh hồn).
- Vẽ sơ đồ
Đề - các – tơ chứng minh sự tồn tại của các sự vật trong tư tưởng
con người có từ 3 nguồn gốc: Những tư tưởng từ bên ngoài xâm nhập vào,
tư tưởng do con người nghĩ ra, tư tưởng bẩm sinh. Qua nguồn gốc chứng
minh sự tồn tại tư tưởng con người là có thật. Sự tồn tại của sự vật là có
thật. Thượng đế là bẩm sinh.
b. Phương pháp luận:
Bên cạnh việc xây dựng bức tranh khái quát về
thế giới, Đề - các – tơ tìm cách xây dựng một hệ thống phương pháp luận
mới là nền tảng cho các khoa học phát triển thời đó. Ông đặc biệt đề cao
vai trò của lý tính, đòi hỏi con người phải đi xa hơn nhận thức cảm tính.
Phương pháp luận của Đề - các – tơ hướng tới sự hoàn thiện và phát triển
khả năng trí tuệ của con người, coi đó là điều kiện để thúc đẩy nhận thức
khoa học.
Đề - các – tơ xây dựng phương pháp mới dựa trên 4 nguyên
tắc:
Thứ nhất, “chỉ coi chân lý là đúng đắn những gì được cảm
-
nhận rất rõ ràng và rành mạch không gợi lên một chút nghi ngờ gì cả, tức là
những điều hiển nhiên”.
Chân lý là những gì rành mạch nhất trong nhận thức con người,
đây là qui tắc quan trọng nhất. Đề - các – tơ xác định trực giác là điểm khởi
đầu của nhận thức chân lý, đồng thời cũng là khả năng nhận thức cao nhất
của trí tuệ con người.
Trực giác theo Đề - các – tơ là đơn vị logic của cấu trúc diễn dịch
tức là suy luận logic của tư duy. Những gì phù hợp với logic của tư duy là
chân lý, không phù hợp thì không phải là chân lý.
Thứ hai, “chia mỗi sự vật phức tạp trong chừng mực có thể
-
làm được, thành các bộ phận cấu thành nó để tiện lợi nhất trong việc
nghiên cứu chúng”.
Thực chất đây là nguyên tắc phân tích, trên thực tế nghiên cứu khi
gặp phải những vấn đề phức tạp không thể giải quyết ngay trong một lúc
- chúng ta vẫn thường phân thành những phần nhỏ, tìm cách giải quyết từng
phần một
Thứ ba, “đảm bảo lối sống tư duy xác định phải bắt đầu từ
-
những đối tượng đơn giản nhất và dễ nhận thức nhất chuyển dần dần
sang nhận thức các đối tượng phức tạp hơn”.
Nguyên tắc này còn gọi là lập trật tự và đây chính là nguyên tắc mà
Đề - các – tơ sử dụng khi xây dựng hệ thống triết học của mình. Trong
chừng mực nào đó, đây là những tư tưởng nền móng của phương pháp đi
từ trừu tượng đến cụ thể.
Thứ tư, “luôn luôn xem xét đầy đủ các thành phần và lược lại
-
một cách tổng quát để chắc chắn không bỏ xót một dữ kiện nào trong quá
trình nghiên cứu”.
Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ giới và phương pháp toán học,
Đề - các – tơ đặc biệt đề cao phương pháp diễn dịch trong nhận thức và
xem xét phương pháp cơ bản của triết học.
3. Vật lý học:
Vật lý học của Đề - các – tơ là thân của cây triết học mọc trên bộ
rễ siêu hình học. Trong lĩnh vực này, ông có những đóng góp quan trọng.
Như học thuyết “gió xoáy”, tư tưởng bảo toàn vận động.
Học thuyết “gió xoáy” đã phê phán quan điểm siêu hình về thế
-
giới tự nhiên, cho tự nhiên là bất biến, mà theo Đề - các – tơ tự nhiên có
quá trình sinh thành và phát triển. Học thuyết này đã vượt lên trên khoa học
tự nhiên đương thời.
Tư tưởng vận động: Vận động theo Đề - các – tơ hiểu theo
-
nghĩa thông thường không là cái gì khác ngoài hoạt động mà thông qua đó
một vật chuyển vị trí từ chỗ này sang chỗ khác. Vận động theo đúng nghĩa
là sự xê dịch của mọi phần vật chất hay một sự vật đến bên cạnh sự vật
khác.
Qui toàn bộ các dạng vận động thành vận động cơ học đơn thuần,
quan niệm về vận động của Đề - các – tơ trên thực tế chỉ là sự cụ thể hóa
các định luật cơ học của Newton về vận động. Ông không coi vận động là
thuộc tính cố hữu của vật chất mà chỉ xem là biểu hiện cá biệt các sự vật
một cách bề ngoài. Đóng góp của Đề - các – tơ là ông đã khám phá ra tính
chất song của ánh sáng. Và sự gắn bó hữu cơ giữa vật chất với không gian
và thời gian, chống lại quan điểm duy tâm không gian và thời gian tuyệt đối
phi vật chất của Newton.
4. Nhân bản học:
Đề - các – tơ cho rằng con người được hợp bởi linh hồn và thể xác.
Từ nền tảng nhị nguyên luận của siêu hình học, Đề - các – tơ cho rằng linh
hồn là một thực thể thuần túy. Vì vậy dù nó có bị xáo trộn cũng không bao
giờ biến thành cái khác. Trong khi đó thể xác là cái được hợp nhất từ nhiều
bộ phận. Nó luôn luôn biến đổi và thấp hèn hơn so với linh hồn. Tuy vậy
- thể xác vẫn phải tồn tại vì thể xác là phương tiện của linh hồn. Mâu thuẫn
của triết học Đề - các – tơ tựu chung hết trong nhân bản học, tách con
người thành linh hồn và thể xác sau đó lại thống nhất chúng lại với nhau.
Trong nhân bản học đóng góp của Đề - các – tơ là qui khả năng của con
người về bộ óc con người. Muốn hiểu bản chất tư duy trí tuệ của con
người, phải đặt con người trong mối quan hệ với giới tự nhiên.
III. KẾT LUẬN
Với tư tưởng triết học của mình Đề - các – tơ đã đặt ra hàng
loạt vấn đề lí luận cho sự phát triển của triết học và khoa học, mở ra một
cuộc cách mạng cho các nhà khoa học tiếp tục hoàn thiện và phát triển.
Hê ghen – nhà triết học Đức đã đánh giá vai trò triết học của Đề -
các – tơ là “đã tại ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học
Tây Âu cận đại”. Có nghĩa là Đề - các – tơ đã tạo ra một bước ngoặt trong
hành trình phát triển của triết học Tây Âu.
nguon tai.lieu . vn