Xem mẫu

  1. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG: NGHIÊN CỨU TẠI CÔNG TY TNHH XE BUÝT DAEWOO VIỆT NAM ThS. Nguyễn Thị Phương Loan1 Tóm tắt: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động, người tiêu dùng… Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động thể hiện trên các cấp độ thực hiện như trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện thông qua một số các biểu hiện cụ thể như: tạo việc làm, ký kết hợp đồng lao động, trả lương, tham gia bảo hiểm xã hội, đào tạo… Tiến hành nghiên cứu thực tiễn tại Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam để thấy được tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội của Công ty đối với người lao động để từ đó đưa ra một số đề xuất đối với công ty và Nhà nước để đẩy mạnh thực hiện hoạt động này tại công ty nói riêng và các doanh nghiệp, tổ chức khác nói chung. Từ khóa: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Trách nhiệm xã hội đối với người lao động, Xe buýt Daewoo Việt Nam Abstract: Corporate social responsibility (CSR) is one of concerns attracting great attention of governments, corporates, investors, employees, and consumers… CSR towards employees is shown in different layers including economic responsibility, legal responsibility, ethical responsibility and philanthropic responsibilty through specific activities as: employment creation, labor contract engagement, compensation, social insurance, training… Researching in Vietnam Daewoo Bus company is to find out its current implementation of CSR towards the employees in order to give several recommendations to both company and the Government to improve the performance in the company in particular and in other organizations in general. Keywords: Corporate social responsibility (CSR), Corporate social responsibility towards employees, Vietnam Daewoo Bus Company 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là vấn đề ngày càng được quan tâm và chú trọng. Trách nhiệm xã hội không chỉ là những yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp mà còn đóng vai trò quan trọng, đóng góp vào sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc nhận thức và thực hiện về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn còn thấp. Theo bà Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: “Đa phần doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa hiểu đúng về trách nhiệm xã hội. Do không nhận thức đầy đủ, các doanh nghiệp thường thực hiện trách nhiệm xã hội một cách bị động, hình thức, bề nổi. Họ không chủ động tích 1 Email: phuongloan0710@gmail.com, Học viện Tài chính.
  2. PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 339 cực tìm kiếm cơ hội thị trường thông qua cải thiện tiêu chuẩn lao động, mà thường coi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như gánh nặng chi phí. Đây là sai lầm lớn”. Đặc biệt, trong những năm qua, liên tục xảy ra các sự việc vi phạm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động nói riêng, với thủ đoạn ngày càng tinh vi, bài bản; điển hình là việc nợ lương, trốn đóng bảo hiểm xã hội, sử dụng lao động trẻ em,... Công ty TNHH Xe buýt Daewoo là công ty 100% vốn đầu tư của nước ngoài, có trụ sở tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Công ty chuyên rắp ráp, kinh doanh, phân phối các sản phẩm xe khách, xe buýt trên thị trường Việt Nam và xuất khẩu. Được thành lập từ năm 2007 hơn 10 năm qua, công ty đã đạt được những thành tựu nhất định, khẳng định được tên tuổi và chất lượng của sản phẩm. Ông Nam Young Koo - Tổng giám đốc Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam cho biết: “Là một công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, chúng tôi rất quan tâm đến các chính sách, pháp luật của Nhà nước, các trách nhiệm xã hội của công ty nói chung, và trách nhiệm xã hội của công ty đối với người lao động nói riêng”. Mục tiêu của bài viết là đưa ra lý thuyết về thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động, nghiên cứu thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam và cuối cùng là đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội của Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam đối với người lao động. Tác giả tiến hành thu thập dữ liệu bao gồm cả dữ liệu sơ cấp và thứ cấp. Số liệu thứ cấp được tác giả tổng hợp tài liệu từ các sách, nghiên cứu, bài viết có liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, các thông kê, số liệu tại các phòng, ban của công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam. Đối với số liệu sơ cấp, tác giả tiến hành sử dụng phiếu khảo sát (thang điểm 5 trong đó 1 là không hài lòng và 5 là hài lòng nhất) cho đối tượng là người lao động của công ty để điều tra mức độ hài lòng của họ về việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động (số phiếu phát ra: 90 phiếu, số phiếu thu về: 84 phiếu, số phiếu hợp lệ và xử lý: 82 phiếu). Ngoài ra, tác giả tiến hành phỏng vấn một số đối tượng tại công ty như: Tổng Giám đốc công ty, Trưởng phòng Hành chính – Nhân sự, Chủ tịch Công đoàn, trưởng các bộ phận… 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU Trách nhiệm xã hội (Corporate Social Responsibility – CSR) của doanh nghiệp đã được các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu từ khoảng giữa thế kỷ 20 và kể từ đó đến nay TNXH đã trở thành một trong những chủ đề gây nhiều tranh cãi với những bàn luận sôi nổi của các học giả, các nhà nghiên cứu, các chính trị gia trên toàn thế giới và trên nhiều khía cạnh. Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các khía cạnh như: những vấn đề lý luận cơ bản về TNXH của doanh nghiệp; những tác động của CSR đối với các bên liên quan và những gợi ý chính sách, giải pháp thúc đẩy CSR của doanh nghiệp. Một số kết quả nghiên cứu tiêu biểu về những vấn đề cơ bản của TNXH doanh nghiệp như là Fredman Milton (1970), “The social responsibility of business is to increase its profit”; Carroll Archie (1999), “Corporate Social Responisbility – Evolution of a definitional construct”; Duane Windsor (2006), “Corporate Social Responsibility: Three key approaches”; Robert W.Sexty (2008), “Canadian business and society Ethics & Responsibility”. Cuốn sách này đã đề cập một cách khá đầy đủ các nội dung liên quan đến đạo đức kinh doanh và TNXH DN như: các khái niệm liên quan, tầm quan trọng của TNXH đối với doanh nghiệp, các cấp độ TNXH trong
  3. 340 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 DN cũng như quy trình xây dựng và triển khai thực hiện TNXH. Đặc biệt cuốn sách đã tiếp cận các nội dung này thông qua các tình huống thực tế của các doanh nghiệp mà chủ yếu là các DN Canada để rút ra các bài học cho các nhà quản trị cũng như các doanh nghiệp trong tiến trình triển khai thực hiện TNXH tại doanh nghiệp mình. Ở Việt Nam, TNXH của doanh nghiệp là một khái niệm không “lạ lẫm” nhưng vẫn còn khá mới mẻ, tương đối mơ hồ với không ít chủ thể. Trách nhiệm xã hội xuất hiện và được giới thiệu tới Việt Nam bởi các công ty đa quốc gia có nhà máy tại Việt Nam thông qua các quy tắc ứng xử. Vì vậy mà số lượng các nghiên cứu về TNXH ở Việt Nam chưa nhiều. Những công trình nghiên cứu về TNXH ở Việt Nam chủ yếu là nghiên cứu về lý luận, về khả năng áp dụng hay thực tế triển khai tại một doanh nghiệp hay một ngành nhưng chủ yếu là tại ngành da giày và may mặc. Ví dụ như tác giả Nguyễn Đình Cung và Lưu Minh Đức (2010), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp – CSR: một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước đối với CSR ở Việt Nam”. Bài viết đã tóm tắt một số vấn đề lý luận về TNXH, các vấn đề tranh cãi xoay quanh chủ đề này, cũng như đã nêu ra được thực trạng hoạt động TNXH ở Việt Nam. Đồng thời các tác giả cũng nêu những khuyến nghị về sự cần thiết của đổi mới chính sách QLNN nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong thực hiện TNXH. Đề tài “Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Nguyễn Thị Minh Nhàn và các cộng sự (2015) đã nghiên cứu về nội dung thực hiện TNXH của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường thực hiện trách nhiệm xã hội tại các doanh nghiệp này. 3. LÝ THUYẾT VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG 3.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu từ khoảng giữa thế kỷ 20 và trở thành một trong những chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm, bàn luận của các học giả, các nhà nghiên cứu, các chính trị gia trên toàn thế giới. Với các cách tiếp cận khác nhau, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được hiểu theo những cách khác nhau. Theo Prakash & Sethi (1975), trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội phổ biến. Archie B. Carroll (1979) định nghĩa: “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”. Maignan & Ferrell (2004) cũng đưa ra khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: “Một doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội khi quyết định và hành động của nó nhằm tạo ra và cân bằng các lợi ích khác nhau của những cá nhân và tổ chức liên quan”. Trong khi đó, tổ chức phi lợi nhuận toàn cầu kinh doanh vì trách nhiệm xã hội (Business For Social Responsibility – BSR) cho rằng trách nhiệm xã hội được nhìn nhận bởi lãnh đạo các công ty nhiều hơn là một tập hợp các hoạt động riêng biệt hoặc những hành động không thường xuyên, các sáng kiến được thúc đẩy bởi marketing, quan hệ công chúng hoặc các lợi ích khác. Hơn thế nữa, nó được xem xét như là một bộ các chính sách, hành động, chương trình toàn diện xuyên suốt các hoạt động kinh doanh, quá trình ra quyết định được hỗ trợ và khen thưởng bởi ban lãnh đạo.
  4. PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 341 Hội đồng doanh nghiệp thế giới vì phát triển bền vững (World Business Council for Sustainable Development – WBCSD) nhấn mạnh: “Trách nhiệm xã hội là cam kết liên tục của doanh nghiệp hành xử một cách có đạo đức và đóng góp vào sự phát triển kinh tế trong khi nâng cao chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình của họ cũng như của cộng đồng và xã hội nói chung”. Như vậy, dù được tiếp cận và diễn đạt theo những cách khác nhau nhưng có thể thấy rằng trách nhiệm xã hội thể hiện được mối quan hệ ràng buộc và mật thiết giữa những lợi ích phát triển riêng của từng doanh nghiệp trên cơ sở phù hợp với pháp luật hiện hành đi kèm với lợi ích phát triển chung của cộng đồng và xã hội. 3.2. Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Theo cách tiếp cận cấp độ thực hiện, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được chia làm bốn cấp độ, bao gồm trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện (Archie B. Carroll, 1999). Theo đó, trách nhiệm kinh tế thể hiện thông qua hoạt động tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh và tăng trưởng. Đây là điều kiện tiên quyết bởi mục tiêu chính của hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức là tìm kiếm lợi nhuận. Trách nhiệm pháp lý là sự cam kết của doanh nghiệp đối với xã hội, thông qua việc tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực đạo đức được Nhà nước ban hành trong các văn bản pháp luật. Trong khi đó, trách nhiệm đạo đức là những chuẩn mực, quy tắc được xã hội thừa nhận nhưng chưa được đưa vào trong các văn bản luật. Trên thực tế, những chuẩn mực xã hội luôn biến đổi theo thời gian và sự thay đổi về nhận thức của con người mà pháp luật không thể phản ánh được hết được. Vì vậy, bên cạnh việc thực hiện trách nhiệm pháp lý, doanh nghiệp còn cần phải thực hiện các cam kết ngoài luật, đó chính là trách nhiệm đạo đức. Cuối cùng, trách nhiệm từ thiện là những hành vi của doanh nghiệp vượt qua sự mong đợi hay kỳ vọng của xã hội như trao học bổng, quyên góp, ủng hộ… Như vậy, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện không phải là trách nhiệm mang tính bắt buộc hay có sự ràng buộc về mặt pháp luật, thể hiện được sự mong đợi và kì vọng của xã hội đối với các tổ chức và doanh nghiệp. Theo cách tiếp cận các bên liên quan, R. Edward Freeman (1984) cho rằng các bên liên quan là các cá nhân/ nhóm có thể tác động/ bị tác động bởi việc hiện thực hóa sứ mệnh của một tổ chức. Archie B. Carroll (1989) chia các bên liên quan thành hai nhóm là nhóm bên liên quan chủ yếu (là những cá nhân/ tổ chức liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế và có một hợp đồng công khai như: cổ đông, người lao động, khách hàng, nhà cung ứng…) và các bên liên quan thứ yếu (là những đối tượng có quan hệ tự nguyện/ không tự nguyện với doanh nghiệp, mang tính đạo đức như: hiệp hội, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ, địa phương…). Trong khi đó, Clarkson (1995) đề xuất hai nhóm bên liên quan là nhóm tự nguyện (có quan hệ với doanh nghiệp thông qua các ràng buộc và chịu một số rủi ro từ hoạt động của doanh nghiệp) và nhóm không tự nguyện (không có mối liên hệ nào với doanh nghiệp, nhưng cũng phải chịu rủi ro từ hoạt động của doanh nghiệp). “Lý thuyết bộ ba phát triển bền vững” (Triple bottom line theory – TBL) được John Elkington (1997) đưa vào với việc xác định ba yếu tố cốt lõi trong hoạt động của một tổ chức, bao gồm: kinh tế, môi trường và xã hội được biểu hiện lần lượt thông qua 3P là lợi nhuận (Profit), trái đất (Planet) và con người (People), tạo cơ sở thực hiện trách nhiệm xã hội và góp phần vào sự phát triển bền vững của một quốc gia, một tổ chức. Như vậy, sự phát triển bền vững của một quốc gia đòi hỏi sự tham gia và đóng góp của các doanh nghiệp thông qua chính các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
  5. 342 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 3.3. Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động Người lao động đóng vai trò quan trọng, được coi như là xương sống của bất cứ tổ chức, doanh nghiệp nào bởi doanh nghiệp không thể duy trì hoạt động và phát triển được được nếu không có người lao động. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động nhằm đảm bảo quyền cho người lao động, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động lao động, làm việc và phát triển. Người lao động là một trong những yếu tố cơ bản trong nội dung trách nhiệm xã hội theo cách tiếp cận các bên liên quan (thuộc nhóm liên quan chủ yếu) và lý thuyết bộ ba phát triển bền vững (yếu tố con người); do vậy, để làm rõ nội dung tác động của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động, tác giả tiến hành sử dụng cách tiếp cận theo cấp độ thực hiện. Theo đó, nội dung của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động tập trung vào bốn cấp độ cơ bản, từ trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện. Bảng 1 dưới đây trình bày một số biểu hiện cụ thể nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động theo các cấp độ khác nhau. Bảng 1: Một số biểu hiện cụ thể nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động theo cấp độ thực hiện Cấp độ thực hiện Biểu hiện cụ thể Doanh nghiệp duy trì, phát triển kinh doanh để trả lương cho người lao kinh tế nhiệm Trách động Doanh nghiệp tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động Thực hiện ký kết hợp đồng lao động Trách nhiệm pháp lý Thực hiện thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi Thực hiện thời gian làm thêm giờ Thực hiện trang bị bảo hộ lao động, an toàn lao động Thực hiện các vấn đề về lương Thực hiện các vấn đề về bảo hiểm xã hội Thực hiện các vấn đề về sức khỏe người lao động Thực hiện các vấn đề về Công đoàn Đào tạo và phát triển, nâng cao trình độ Mua sắm đồng phục Trách nhiệm đạo đức và từ thiện Bố trí xe đưa đón Cung cấp chương trình chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ Cung cấp bữa ăn Thăm hỏi người lao động ốm đau, có hoàn cảnh khó khăn Khen hưởng lao động có sáng kiến và thành tích tốt trong lao động Tổ chức nghỉ hè, nghỉ mát Tạo cơ hội cho người lao động tham gia đóng góp ý kiến Cung cấp chương trình tập luyện thể thao, giải trí, văn hóa Xây dựng trường học cho con cán bộ, công nhân viên Khen thưởng cho con cán bộ có thành tích tốt trong học tập Nguồn: Tổng hợp của tác giả
  6. PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 343 4. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH XE BUÝT DAEWOO VIỆT NAM 4.1. Giới thiệu về Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam là công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, thuộc tập đoàn Zyle Daewoo Bus Hàn Quốc - với hơn 60 năm xây dựng và phát triển, đã trở thành một thương hiệu uy tín tại Hàn Quốc và nhiều nước trên thế giới. Sau hơn mười năm có mặt tại thị trường Việt Nam, công ty vinh dự là một trong bốn nhà sản xuất xe buýt hàng đầu Việt Nam. Hoạt động kinh doanh chính của công ty là lắp ráp, phân phối các dòng xe buýt, xe khách trên thị trường Việt Nam và xuất khẩu. Hình 1: Logo của Tổng công ty Zyle Daewoo Bus Nguồn: Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam Trụ sở chính của công ty là tại Lô CN9, Khu công nghiệp Khai Quang, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngoài ra, công ty có hai văn phòng kinh doanh tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động 4.2.1. Thực hiện trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp đối với người lao động Kết quả điều tra về độ hài lòng của người lao động về tình hình thực hiện trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp đối với người lao động tại công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam như sau: Bảng 2: Đánh giá của người lao động về thực hiện trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp đối với người lao động STT Thực hiện trách nhiệm kinh tế Giá trị bình quân 1 Doanh nghiệp duy trì, phát triển kinh doanh để trả lương cho người 4,06 lao động 2 Doanh nghiệp tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động 3,79 Giá trị bình quân đánh giá mức độ hài lòng của người lao động là trên mức trung bình (4,06 và 3,79) cho thấy người lao động của công ty có sự hài lòng nhất định với việc thực hiện thực hiện trách nhiệm kinh tế của công ty đối với người lao động. Dù vẫn gặp nhiều khó khăn, công ty luôn cố gắng duy trì, phát triển kinh doanh để trả lương cho người lao động. Trong 3 năm trở lại đây, ngoài việc tập trung thị trường tại hai khu vực miền Bắc và miền Nam, công ty còn mở rộng thị trường tại miền Trung. Công ty cũng tiến hành các cuộc triển lãm, giới thiệu sản phẩm mới nhằm tăng độ nhận diện thương hiệu của công ty, đồng thời ký kết với nhiều đối tác và tập trung vào hoạt động nghiên cứu và phát triển để tăng chất lượng sản
  7. 344 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 phẩm, mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm tạo công ăn việc làm cho người lao động và gia tăng lợi nhuận để trả lương. Công ty luôn cố gắng duy trì việc làm ổn định cho người lao động. Hàng năm, công ty tạo công ăn, việc làm cho hàng trăm lao động tại địa phương và lao động tỉnh ngoài. Tuy vậy, theo bà Tạ Thị Hằng – Phó trưởng phòng Hành chính – Nhân sự của công ty cho biết: “Do đặc thù sản xuất, kinh doanh của công ty dựa trên số lượng đơn đặt hàng từ khách hàng, vậy nên, trong một số giai đoạn, do không có đơn hàng, nhằm giảm thiểu chi phí, công ty buộc phải cho người lao động nghỉ tại nhà nhưng vẫn đảm bảo hưởng mức lương 75% và không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Nhà nước quy định. Khi tình hình kinh tế tốt hơn, công ty sẽ liên hệ người lao động quay trở lại làm việc”. Điều đó cho thấy những nỗ lực nhất định của công ty nhằm đảm bảo công việc cho người lao động. 4.2.2. Thực hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với người lao động Kết quả điều tra cho thấy nhìn chung, công ty thực hiện khá tốt trách nhiệm pháp lý của mình đối với người lao động (Hình 5). Hình 2: Đánh giá của người lao động về thực hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với người lao động tại công ty Thứ nhất, tình hình thực hiện ký kết hợp đồng lao động của doanh nghiệp. Người lao động khá hài lòng với việc thực hiện ký kết hợp đồng lao động của doanh nghiệp. Hiện tại, có ba loại hợp đồng lao động được công ty áp dụng là hợp đồng lao động thử việc, hợp đồng lao động có thời hạn (12-36 tháng) và hợp đồng lao động vô thời hạn. Công ty tiến hành ký kết hợp đồng lao động với tất cả các lao động của công ty, đồng thời công ty cũng chấp hành tốt quy định của Luật lao động về việc đảm bảo thời gian thử việc. Đối với các vị trí khác nhau, công ty tiến hành thực hiện thời gian thử việc khác nhau. Ví dụ, đối với các vị trí nhân viên văn phòng, kỹ sư, có trình độ đại học trở lên, thời gian thử việc đưa ra 2 tháng. Sau khi kết thúc thời gian thử việc, công ty tiến hành đánh giá và xem xét việc ký kết hợp đồng lao động. Tuy nhiên, thực trạng thực hiện tại công ty cho thấy, công ty vẫn để xảy ra trường hợp vi phạm về thời hạn ký kết hợp đồng lao động, điển hình là công ty tiến hành ký kết lớn hơn hai lần hợp đồng có thời hạn đối với người lao động. Thứ hai, đối với việc thực hiện thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi. Thời gian làm việc của công ty là 8h/ ngày (buổi sáng: 7h30-11h30, buổi chiều: 12h30-16h30), 6 ngày/ tuần (Thứ Hai – thứ Bảy). Người lao động của công ty có thời gian nghỉ 2 lần trong ngày, mỗi lần 15 phút (sáng:
  8. PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 345 9h15-9h30, chiều: 2h15-2h30) và 1 ngày nghỉ trong tuần (Chủ nhật). Mỗi người lao động làm việc trong điều kiện bình thường có 12 ngày phép/ năm. Đối với các trường hợp làm việc trong điều kiện nặng nhọc độc hại (tổ Sơn, tổ Hàn), người lao động có 14 ngày phép/ năm. Cứ 5 năm, người lao động được hưởng thêm 1 ngày phép, được cộng vào tháng đầu tiên của năm tiếp theo. Việc thực hiện nghỉ lễ, Tết, nghỉ việc riêng, nghỉ không hưởng lương, công ty cũng áp dụng theo quy định của pháp luật. Ví dụ, người lao động được nghỉ 1 ngày, hưởng nguyên lương vào ngày Quốc khánh (2/9). Nhìn chung, người lao động hài lòng với việc thực hiện thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi và làm việc tại công ty. Thứ ba, tình hình thực hiện làm thêm giờ. Tùy vào tình hình thực tế làm việc tại công ty, công ty tổ chức làm thêm giờ nếu cần thiết nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện. Theo kết quả điều tra của tác giả, người lao động hài lòng ở mức trên trung bình đối với việc đảm bảo số giờ làm thêm với mức điểm bình quân là 3,50. Đây cũng là biểu hiện đạt được sự hài lòng thấp nhất của người lao động trong việc thực hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với người lao động. Kết quả này phù hợp với tình hình thực hiện tại công ty bởi công ty vẫn để xảy ra tình trạng làm thêm giờ liên tục và quá thời gian làm thêm giờ. Cụ thể, vào tháng 5/2018, số giờ tăng ca của một người lao động có thể lên đến 60 giờ/ tháng, trong khi tại điểm b, khoản 2, điều 106, Bộ luật Lao động 2012 quy định: “…số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 30 giờ trong 01 tháng…”. Việc tăng ca liên tục ảnh hưởng không nhỏ đến trạng thái tinh thần và thể chất của người lao động. Thứ tư, vấn đề thực hiện an toàn trong lao động và làm việc. Công ty khá quan tâm đến việc thực hiện an toàn trong lao động và làm việc. Hàng năm, công ty đều cung cấp trang thiết bị bảo hộ cho người lao động làm việc trong xưởng sản xuất, bao gồm: quần áo bảo hộ, mũ bảo hộ, kính bảo hộ, giày bảo hộ, khẩu trang bảo hộ. Công ty tiến hành lắp các biển, hiệu cảnh báo nguy hiểm và luôn nhắc nhở người lao động chú ý khi làm việc. Theo thống kê, trong hơn 10 năm hoạt động, công ty chưa để xảy ra trường hợp tai nạn lao động nghiệm trọng nào gây ảnh hưởng đến tính mạng hay sức khỏe của người lao động. Năm 2018 ghi nhận 3 trường hợp bị dằm bay vào mắt và 1 trường hợp bị đứt tay. Đối với các trường hợp này, bộ phận y tế của công ty ngay lập tức tiến hành sơ cứu và đưa đi bệnh viện (nếu cần thiết). Công ty tiến hành chi trả tất cả các chi phí liên quan và cho phép người lao động được nghỉ ngơi đến khi bình phục hoàn toàn. Tuy nhiên, theo kết quả kiểm tra của cơ quan chuyên ngành, môi trường làm việc tại xưởng lắp ráp của công ty còn chưa đạt chuẩn, cụ thể, chỉ tiêu về bụi và tiếng ồn đang vượt mức cho phép. Đồng thời, đánh giá về chất lượng của trang thiết bị bảo hộ của người lao động, đặc biệt là cho người lao động làm việc trong môi trường độc hai như bộ phận Sơn, người lao động chưa hoàn toàn hài lòng. Theo ông Nguyễn Hùng Tiến – Tổ trường tổ Sơn: “Môi trường làm việc tại tổ Sơn là được xếp vào môi trường độc hại. Người lao động của tổ luôn phải tiếp xúc với hóa chất, do vậy, vấn đề bảo hộ nhằm đảm bảo sức khỏe cho người lao động cần được đặc biệt lưu tâm, tránh các tác động lâu dài”. Thứ năm, các vấn đề về lương. Người lao động khá hài lòng với việc thực hiện các vấn đề về lương của công ty (4,16). Hàng năm, công ty tiến hành xây dựng thang, bảng lương căn cứ trên tình hình kinh doanh của công ty và các quy định của pháp luật liên quan đến lương tối thiểu vùng để đảm bảo lương của người lao động không thấp hơn lương tối thiểu vùng theo quy định của Nhà nước. Ngoài bảng lương cơ bản, công ty còn xây dựng bảng phụ cấp, trợ cấp cho người lao động, bao gồm: phụ cấp giao thông, phụ cấp điện thoại, phụ cấp bán hàng… Mức tăng lương bình quân
  9. 346 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 hàng năm của công ty là khoảng 10%-15%. Năm 2018, mức lương bình quân của công nhân khối sản xuất là 5-7 triệu đồng/ tháng và của nhân viên, kỹ sư khối văn phòng là 8-10 triệu/ tháng. Như vậy, so với mức lương bình quân của người lao động trên cả nước (5,5 triệu đồng/ tháng), mức lương bình quân của công ty được đánh giá là khá cao. Công ty tiến hành trả lương cho người lao động qua thẻ ngân hàng vào mùng 7 hàng tháng. Trước khi trả lương, công ty đều phát phiếu lương cho người lao động để tiến hành kiểm tra và đối chiếu. Công ty luôn cố gắng đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động. Theo điều tra của tác giả, công ty chưa từng để xảy ra tình trạng nợ lương và chậm lương. Về tiền lương làm thêm giờ, ông Hoàng Văn Tú – Trưởng phòng Hành chính – Nhân sự công ty TNHH Xe buýt Daewoo cho biết: “Đối với các trường hợp làm thêm giờ, công ty tính tiền lương theo quy định. Ví dụ, đối với ngày thường, ít nhất bằng 150%; ngày nghỉ hàng tuần (chủ nhật), ít nhất 200% và ngày nghỉ lễ, ít nhất 300%...” Thứ sáu, các vấn đề về bảo hiểm xã hội. Công ty chấp hành tốt các quy định liên quan đến bảo hiểm của người lao động. Tính đến tháng 12/2018, công ty tiến hành tham gia Bảo hiểm xã hội cho 107/113 người (7 người không tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm: 4 người có quốc tịch Hàn Quốc, 1 người đã hưởng lương hưu và 2 người đang trong thời gian thử việc). Vào thời điểm trước năm 2016, công ty căn cứ trên lương cơ bản để tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động. Khi Luật Bảo hiểm xã hội 2014 có hiệu lực từ 1/1/2016, công ty tiến hành đóng bảo hiểm xã hội dựa trên cả lương cơ bản và các khoản phụ cấp theo quy định. Công ty thực hiện nghiêm túc việc đóng bảo hiểm xã hội cho cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc, không để tình trạng nợ, thiếu tiền bảo hiểm. Tổng số tiền bảo hiểm công ty nộp cho cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018 là 2,9 tỷ đồng. Những tháng đầu năm 2016, theo quy định của Nhà nước, công ty tiến hành kiểm tra, rà soát lại toàn bộ sổ Bảo hiểm xã hội và giao lại cho người lao động quản lý. Theo sát quá trình kiểm tra, rà soát lại sổ bảo hiểm xã hội của người lao động, ông Hoàng Văn Chương – ủy viên Ban Chấp hành Công đoàn Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam cho biết: “Công ty thực hiện tham gia và đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động của công ty một cách đầy đủ, chỉ có một số trường hợp sai sót, công ty đã tiến hành liên hệ với cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc để sửa lại”. Việc thực hiện các vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội của công ty là một trong những biểu hiện ghi nhận được sự hài lòng của người lao động, thể hiện qua điểm đánh giá cao nhất trong các biểu hiện về trách nhiệm pháp lý (4,22). Thứ bảy, thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Các lãnh đạo của công ty quan niệm rằng chỉ khi người lao động khỏe mạnh thì mới có thể cống hiến hết mình cho sự phát triển cho công ty. Công ty tiến hành khám sức khỏe định kỳ cho người lao động theo quy định của pháp luật, đối với làm việc trong môi trường bình thường, công ty tổ chức kiểm tra sức khỏe 1 lần/ năm (vào tháng 10 hàng năm), đối với các lao động làm công việc nặng nhọc độc hại, công ty tiến hành kiểm tra sức khỏe 2 lần/ năm (vào tháng 4 và tháng 10 hàng năm). Tuy vậy, thực trạng công tác thực hiện cũng như các nội dung kiểm tra sức khỏe còn khá sơ sài, chưa đánh giá được tổng quát tình hình sức khỏe của người lao động trong công ty. Do vậy, mặc dù đã chấp hành đầy đủ các nội dung về khám sức khỏe cho người lao động trong doanh nghiệp, biểu hiện này vẫn chưa được đánh giá cao, với mức điểm trung bình là 3,95. Thứ tám, thực hiện các vấn đề về Công đoàn. Việc thực hiện các vấn đề về công đoàn tại công ty được đánh giá ở mức khá (3,83). Tổ chức Công đoàn của công ty được thành lập từ năm 2008, là cơ quan đại diện, là tiếng nói của người lao động. Công ty tạo điều kiện cho tất cả lao động trong
  10. PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 347 công ty tham gia tổ chức này. Tuy các hoạt động công đoàn tại công ty chưa thực sự sôi nổi, chưa tạo điều kiện cho người lao động được tham gia một cách thường xuyên, liên tục cũng như chưa đem lại được những thay đổi lớn; trong những năm qua, tổ chức công đoàn của công ty cũng đã thể hiện được vai trò của mình trong một số hoạt động như tiến hành đàm phán, kí kết với công ty các biên bản thỏa thuận nhằm đem lại lợi ích, công bằng cho người lao động. 4.2.3. Thực hiện trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện đối với người lao động Công ty đã thực hiện trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện đối với người lao động thông qua một số biểu hiện như: hàng năm thưởng ít nhất ½ tháng lương (dịp giữa năm) và 1 tháng lương (dịp cuối năm) cho tất cả lao động; cung cấp xe đưa đón cán bộ công nhân viên của công ty từ Hà Nội đến trụ sở của công ty tại Vĩnh Phúc; cung cấp bữa ăn trưa cho người lao động, trị giá mỗi bữa ăn là 20,000 đồng/ suất; tặng quà cho các cán bộ, công nhân viên nhân dịp rằm Trung thu với trị giá mỗi suất quà là 200.000 – 300.000 đồng/ suất; xây dựng nhà tắm và lắp đặt máy giặt tại nơi làm việc… Như vậy, công ty đã có một số biểu hiện cụ thể trong việc thực hiện trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện đối với người lao động. Tuy vậy, có thể thấy các biểu hiện này chỉ đem lại các tác động tức thời, có ảnh hưởng về mặt kinh tế, chưa tạo ra sự thay đổi hay có ảnh hưởng lớn đến đời sống, tinh thần và sự phát triển của người lao động. Trong khi đó, một số các hoạt động có tác động lâu dài như đào tạo và phát triển, xây dựng phong trào thi đua, sáng tạo, nâng cao thể chất, tinh thần hay đảm bảo về sức khỏe cho người lao động chưa được hướng đến. 4.3. Đánh giá thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động 4.3.1. Thành công Công ty đã đạt được một số thành công trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động, bao gồm: - Công ty đã quan tâm đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động, đảm bảo đồng thời thực hiện khá tốt và đầy đủ các trách nhiệm kinh tế và pháp lý đối với người lao động ở các nội dung như: tạo công ăn việc ổn định cho người lao động, đảm bảo thời gian làm việc, tham gia bảo hiểm xã hội đầy đủ, trả lương đúng thời hạn, đảm bảo lương tối thiểu vùng, đảm bảo an toàn lao động… giúp cho người lao động trong công ty an tâm công tác với đầy đủ quyền lợi như pháp luật quy định. - Công ty đã tự nguyện đưa ra và thực hiện một số trách nhiệm đạo đức và từ thiện đối với người lao động như: cung cấp xe đưa đón, cung cấp các bữa ăn, thưởng giữa năm và cuối năm, xây dựng nhà tắm… Các biểu hiện này thúc đẩy các cán bộ, công nhân viên trong công ty cố gắng thực hiện công việc, vì sự phát triển chung của doanh nghiệp và gia tăng mối quan hệ và sự gắn bó đối với công ty. Đạt được thành công này là trước hết là do quản lý nhà nước đối với việc TNXH của các doanh nghiệp có những đổi mới gắn với thị trường đã tạo điều kiện để dẫn dắt sản xuất phát triển. Cùng với đổi mới cơ chế quản lý là những cải cách hành chính, cải cách trong tuyên truyền vận động các doanh nghiệp của các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương, địa phương và sự tham
  11. 348 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 gia của các hiệp hội doanh nghiệp. Bên cạnh đó là do nhận thức rõ ràng các nhà quản trị trong công ty, triết lý kinh doanh và chiến lược phát triển bền vững của công ty trong mục tiêu lâu dài. Công ty cũng đã đầu tư trang thiết bị đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh mang lại hoạt động hiệu quả. 4.3.2. Hạn chế Ngoài những thành công trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động, công ty còn mắc phải một số hạn chế như: - Việc thực hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với người lao động ở một số nội dung mới chỉ dừng lại ở việc tuân thủ quy định của pháp luật mà chưa đem lại nhiều giá trị cao, mang tính thực tiễn. - Công ty vẫn còn tồn tại vi phạm trong việc thực hiện trách nhiệm về pháp lý như quy định về kí kết hợp đồng lao động, thời gian làm thêm giờ, điều kiện làm việc cho người lao động. - Việc thực hiện trách nhiệm đạo đức và từ thiện đối với người lao động của công ty còn khá mờ nhạt, chưa có tác động nổi bật và lâu dài. Nguyên nhân của những hạn chế này có thể kể đến do (i) Hệ thống quản lý nhà nước đối với việc thực hiện TNXH ở các doanh nghiệp ở các cấp chưa đồng bộ, chồng chéo; năng lực cán bộ quản lý nhà nước còn hạn chế, hoạt động tuyên truyền, tổ chức, hỗ trợ DN thực hiện TNXH đã có những chuyển biến nhất định song vẫn còn nhiều hạn chế; (ii) Một số nhà quản trị trong công ty chưa thực sự ”tâm huyết” với việc thực hiện TNXH với người lao động, trình độ quản lý, kiến thức và kinh nghiệm thực hiện TNXH với người lao động còn hạn chế; (iii) Năng lực tài chính của công ty còn hạn chế, khó khăn trong việc tiếp cận vốn; công ty chưa có cán bộ/bộ phận chuyên trách thực hiện TNXH nói chung và TNXH với người lao động nói riêng. 5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY TNHH XE BUÝT DAEWOO VIỆT NAM 5.1. Đối với Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam Một là, thực hiện nghiêm chỉnh và phát huy tính hiệu quả các nội dung trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với người lao động. Đối với các nội dung đã thực hiện đúng quy định, công ty cần tiếp tục duy trì đồng thời phát huy nhằm nâng cao giá trị và đem lại hiệu quả cao cho người lao động. Đối với các vi phạm như vi phạm về hợp đồng lao động, thời gian làm thêm giờ, vi phạm điều kiện môi trường làm việc, công ty cần loại bỏ để đảm bảo việc thực hiện đúng và đầy đủ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với người lao động theo quy định của pháp luật. Hai là, mở rộng hơn nữa các trách nhiệm đạo đức và từ thiện đối với người lao động. Không chỉ đảm bảo quyền lợi theo quy định của pháp luật, công ty cần đảm bảo lợi ích ngày càng cao cho người lao động của công ty. Ngoài các nội dung được công ty thực hiện như: cung cấp xe đưa đón, cung cấp bữa ăn, thưởng, xây dựng nhà tắm,… công ty nên tạo cơ hội cho người lao động tham gia các chương trình đào tạo và phát triển năng lực; tạo điều kiện cho người lao động được tham gia, đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng các văn bản của công ty như nội quy lao động, thỏa ước lao động; xây dựng các chương trình giải trí, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao và khuyến khích
  12. PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 349 người lao động tham gia để tăng cường sức khỏe tinh thần và thể chất; triển khai các chương trình tôn vinh, trao thưởng cho lao động giỏi, lao động có sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động để đẩy mạnh tính sáng tạo trong đội ngũ người lao động. Ngoài ra, công ty có thể cân nhắc đến việc xây dựng các gói phúc lợi tự nguyện như: xây dựng khu nhà ở cho người lao động; cung cấp các chương trình dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện, bảo hiểm nhân thọ cho bản thân người lao động và gia đình… Ba là, thành lập đội chuyên trách về thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động. Để đảm bảo đúng và đầy đủ trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động, việc thành lập mội đội chuyên trách về thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động là cần thiết, trong đó cần có sự có mặt của đại diện ban giám đốc, đại diện công đoàn, đại diện một số bộ phận chức năng như kế toán, nhân sự, sản xuất… Theo đó, đội chuyên trách này sẽ hoạt động như một bộ phận thanh tra, kiểm tra nội bộ, có trách nhiệm kiểm soát và điều chỉnh các hành vi, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người lao động, đảm bảo việc thực hiện diễn ra nhất quán, đúng quy định của pháp luật. 5.2. Đối với Nhà nước Một là, tiến hành tuyên truyền, nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động. Nhà nước cần nâng cao nhận thức của các đối tượng liên quan như doanh nghiệp, người lao động, người tiêu dùng… để họ hiểu được nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động cũng như vai trò của việc thực hiện đối với sự phát triển chung của doanh nghiệp và toàn xã hội. Nhà nước có thể sử dụng các hình thức tuyên truyền như: thông qua các phương tiện truyền thông, đại chúng; thông qua các buổi hội thảo, tiếp xúc doanh nghiệp… Hai là, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động. Để đảm bảo việc thực hiện đúng các trách nhiệm kinh tế và pháp lý của doanh nghiệp đối với người lao động, Nhà nước cần thanh tra, kiểm tra một cách thường xuyên, có chất lượng để có thể kiểm tra tình hình thực hiện, phát hiện các sai sót, đồng thời hướng dẫn cách thức thức hiện để tránh việc doanh nghiệp thực hiện sai, vi phạm các quy định của Nhà nước. Ba là, khuyến khích doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động. Nhằm thúc đẩy việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động, Nhà nước nên xem xét và đưa ra các chính sách, khen thưởng, khuyến khích như vinh danh, trao quà, tặng giấy khen… cho các doanh nghiệp thực hiện tốt để các doanh nghiệp phấn đấu trong việc cải thiện các điều kiện làm việc, đời sống, tinh thần… cho người lao động. Bốn là, xây dựng chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động. Thực trạng cho thấy, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều công ty, doanh nghiệp vi phạm thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động; tình trạng nợ lương, trốn đóng bảo hiểm xã hội, sử dụng lao động trẻ em… vẫn thường xuyên xảy ra. Do vậy, để nâng cao việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động, Nhà nước cần xây dựng chế tài xử phạt nghiêm minh để hạn chế các trường hợp vi phạm.
  13. 350 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 6. KẾT LUẬN Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là vô cùng cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với cả doanh nghiệp và xã hội bởi nó không chỉ dừng lại ở việc chấp hành các quy định, pháp luật của Nhà nước mà còn rộng hơn, ở cả việc thực hiện trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện. Thúc đẩy thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung và thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động nói riêng đòi hỏi sự đóng góp của cả doanh nghiệp và Nhà nước, vì sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Tài liệu tham khảo [1] Archie B. Carroll (1975), A three-dimensional conceptual model of Corporate Performance, Academy of Management, Vol. 4 (4), 497-505. [2] Archie B. Carroll (1989), Business & Society: Ethics & Stakeholder Management, South-Western Publishing. [3] Archie B. Carroll (1999), Corporate social responsibility: evolution of a definitional construct, Business & Society, Vol.38 (3), 268-295. [4] Max B. E. Clarkson (1995), A stakeholder Framework for Analyzing and Evaluating Corporate Social Performance, The Academy of Management Review, Vol. 20 (1), 92-117. [5] John Elkington (1997), Cannibals with Forks: The triple bottom line of 21st Century business, Capstone Publishing. [6] Maignan & Ferrel (2004), Corporate social responsibility and marketing: An integrative framework, Journal of the Academay of Marketing Science, Vol. 32 (1), 3-19. [7] R. Edward Freeman, et al. (2010), Stakeholder theory: the State of the art, Cambridge University. [8] R. Edward Freeman, Jeffrey Harrison, & Andrew Wicks (2007), Managing for Stakeholders: survival, reputation, and success, Yale University. [9] Prakash & Sethi (1975), Dimensions of Corporate Social Performance: An analytical framework, California Management Review, Vol. 17 (3), 58-64. [10] World Business Council for Sustainable Development (1999), Corporate social responsibility: Meeting changing expectations, World Business Council for Sustainable Development, 3. [11] Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2010), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp – CSR: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới Nhà nước với CSR ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương. [12] Nguyễn Thị Minh Nhàn (2015), Thực hiện trách nhiệm xã hội tại các doanh nghiệp chế biến, xuất nhập khẩu thủy sản Đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ mã số B2013-07-08.
nguon tai.lieu . vn