Xem mẫu
- LỜI GIỚI THIỆU
Sau nhiều năm nghiên cứu, đầu năm 2005, Đại tá Trần
Trọng Trung, nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh có uy tín,
gửi đến Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật bản thảo
viết về quá trình Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã chỉ huy quân đội ta
đánh thắng đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp
(1945-1954). Tháng 8/2006, để mừng đại thọ tuổi 95 của Đại
tướng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật lần đầu tiên
xuất bản bản thảo trên thành sách dưới tiêu đề Tổng Tư lệnh
Võ Nguyên Giáp. Cuốn sách đã đoạt giải cao về sách hay của
Hội Xuất bản Việt Nam. Từ năm 2010 đến nay, cuốn sách được
xuất bản nhiều lần với tiêu đề Võ Nguyên Giáp - danh tướng
thời đại Hồ Chí Minh và được bạn đọc rất hoan nghênh. Tác giả
xem cuốn sách này như tập 1 của bộ sách 2 tập viết về quá
trình cầm quân của Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
qua 30 năm chiến tranh cách mạng, trải qua hai cuộc kháng
chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
(1945-1975).
Sau khi cuốn sách ra đời, một số tướng lĩnh, sĩ quan gồm
Trung tướng Phạm Hồng Cư - nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị, Trung tướng Lê Hữu Đức - nguyên Cục trưởng Cục Tác
chiến, Đại tá Hoàng Minh Phương - nguyên Phó Tư lệnh Quân
khu 7 - người giúp việc nhiều năm của Đại tướng và Đại tá
Trần Trọng Trung, với sự giúp đỡ của Văn phòng Đại tướng
5
- Võ Nguyên Giáp, đã thống nhất phối hợp với nhau viết tập 2
của bộ sách Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí
Minh, trình bày hoạt động lãnh đạo, chỉ huy quân đội của Đại
tướng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Đại tá Trần Trọng Trung được phân công viết về hoạt động
lãnh đạo, chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp giai đoạn
1965-1969 - giai đoạn đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đưa
quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc trực tiếp tiến
hành cuộc chiến tranh cục bộ xâm lược nước ta - đã hoàn thành
xong bản sơ thảo và gửi đến Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Sự thật. Tác giả xem đây là quyển 2, tập 2 của bộ sách Tổng
Tư lệnh Võ Nguyên Giáp - danh tướng thời đại Hồ Chí Minh
(theo dự kiến, tập 2 gồm 3 quyển).
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật rất tiếc không được
xuất bản toàn bộ tập sách viết về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đại
tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với các lực lượng vũ
trang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
do bản thảo chưa được hoàn thành.
Để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, chúng tôi trao đổi với Đại
tá Trần Trọng Trung cho công bố phần tác giả viết với tiêu đề
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong những năm đế quốc Mỹ leo
thang chiến tranh (1965-1969).
Với tinh thần khách quan, trung thực, trách nhiệm cao của
một người trong cuộc, với tinh thần lao động khoa học cẩn
trọng, kỹ lưỡng, dựa trên nguồn tư liệu phong phú, tin cậy ở
trong nước và nước ngoài, tác giả cuốn sách trình bày quá trình
đồng chí Võ Nguyên Giáp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị của mình, đã cùng tập thể Bộ
Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo từng bước đi ở tầm
chiến lược toàn cục, chỉ đạo các cơ quan Bộ Quốc phòng, các
6
- quân chủng, binh chủng tăng cường xây dựng lực lượng, tổ chức
chi viện, đáp ứng yêu cầu về người và cơ sở vật chất cho tiền
tuyến lớn miền Nam; quá trình quân và dân ta chuẩn bị mọi
mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu leo thang chiến tranh của đế
quốc Mỹ; quá trình hình thành quyết tâm chiến lược "giành
thắng lợi quyết định" - quá trình hình thành kế hoạch tiến công
chiến lược Tết Mậu Thân 1968, đợt tiến công đông xuân 1968 -
1969, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ trên các chiến trường để
buộc đế quốc Mỹ xuống thang chiến tranh, v.v..
Để có được bản thảo cuốn sách như Nhà xuất bản cho ra
mắt bạn đọc hôm nay, tác giả đã dành nhiều tâm sức, trăn trở
sửa chữa nhiều lần và trong lần sửa chữa cuối cùng, tác giả đã
qua đời. Do đó, quá trình biên tập - xuất bản cuốn sách, gặp
một số khó khăn, hạn chế nhất định và khó tránh khỏi còn có
những thiếu sót.
Trước khi xuất bản cuốn sách này, chúng tôi đã gửi bản
thảo đến gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Ban Tổng
kết - Lịch sử Bộ Tổng tham mưu đọc cho ý kiến về những
nhận định, đánh giá, những tư liệu, sự kiện, nhân vật được
đề cập trong cuốn sách.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xin trân trọng
cám ơn sự hợp tác đầy tinh thần trách nhiệm của gia đình
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tá Trần Quốc Tuấn -
Trưởng ban Tổng kết - Lịch sử Bộ Tổng tham mưu Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Cuốn sách đã được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2015
nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2015) và được bạn
đọc đánh giá rất cao.
7
- Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên
Giáp (25/8/1911 - 25/8/2021), đáp ứng nhu cầu của đông đảo
bạn đọc, chúng tôi xuất bản lần thứ hai cuốn sách.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 5 năm 2021
NH XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
8
- Chương I
CHỈ ĐẠO CHUẨN BỊ MỌI MẶT, SẴN S NG ĐỐI PHÓ VỚI
ÂM MƯU LEO THANG CHIẾN TRANH
CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
1
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị Mỹ lật đổ, Tổng Tư
lệnh Võ Nguyên Giáp và tập thể lãnh đạo của ta đã dự kiến đế
quốc Mỹ sẽ đưa quân vào để cứu vãn tình thế ngày càng rối ren
của chế độ Sài Gòn. Trong một bài viết nhân kỷ niệm 10 năm
Hiệp định Genève được ký kết, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp
đã dự kiến: "Trước nguy cơ bị thất bại nặng nề, bọn cầm quyền
Mỹ đang ra sức tìm cách cứu vãn tình thế hiện nay của chúng ở
miền Nam"1. Ông nhắc lại tuyên bố ngày 15/7/1964 của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa2 và kết luận: "Ngoài con đường
___________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.55.
2. Bản tuyên bố gồm ba điểm: 1) Chính phủ Mỹ phải tôn trọng chủ
quyền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, không can
thiệp vào nội trị của Việt Nam; 2) Chính phủ Mỹ phải chấm dứt cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, rút hết quân đội và
vũ khí của Mỹ khỏi miền Nam, để công việc nội bộ của miền Nam do
nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy theo chương trình của Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; 3) Vấn đề hòa bình thống nhất
nước Việt Nam là công việc của dân tộc Việt Nam, vấn đề đó sẽ được giải
quyết theo tinh thần của bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và chương trình của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
9
- đó ra, không còn con đường nào khác. Nếu đế quốc Mỹ tiếp tục
cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, chúng nhất định sẽ bị
nhân dân miền Nam đánh bại và cuối cùng sẽ bị đánh bại hoàn
toàn. Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra miền
Bắc, thì đó là một hành động tự sát đối với chúng"1.
Sau này, việc nghiên cứu tài liệu của đối phương cho thấy
phán đoán của lãnh đạo ta là đúng đắn và có cơ sở.
Qua những trang hồi ký của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson
viết những năm sau này2, người ta thấy tình hình Việt Nam
khi cuộc chiến tranh sắp bước sang năm 1965, đã khiến cho
nỗi lo ngại của ông ta và của những cố vấn thân cận tăng lên
từng ngày. Giới cầm quyền Mỹ cho rằng, từ cuối năm 1964,
quân chính quy Bắc Việt xuất hiện với quy mô tiểu đoàn đã
qua hướng Lào để vào Nam. Vì vậy, từ cuối tháng 1/1965,
Tướng Westmoreland yêu cầu, và được tổng thống cho phép, sử
dụng máy bay phản lực Mỹ đánh vào đội hình tiến công của
Việt cộng để yểm trợ cho quân đội Việt Nam Cộng hòa, khi
Tổng chỉ huy quân Mỹ coi là cần thiết. Hành động yểm trợ đó
diễn ra lần đầu tiên vào cuối tháng 2/1965, khi hai đại đội
quân Sài Gòn và một đơn vị đặc biệt quân Mỹ rơi vào một ổ
phục kích của bộ đội ta ở chiến trường Tây Nguyên.
Vẫn theo Johnson, tinh thần của đồng minh Sài Gòn "đã
được nâng lên đôi chút" khi máy bay Mỹ đánh phá Bắc Việt
hồi tháng 8/1964, nhưng hiệu quả không được bao lâu. Nhà
Trắng tiếp tục nhận được những tin tức không đáng khích lệ,
___________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Sđd, tr.59.
2. Xem L.B.Johnson: Lợi thế (The vantage point), Weidenfeld &
Nicolson-London, 1972. Bản dịch của Thông tấn xã Việt Nam; lưu tại
Thư viện Quân đội, ký hiệu TP.147, tr.48.
10
- trong đó có báo cáo đầu tháng 1/1965 của Đại sứ Taylor, với lời
kết luận rằng, hiện nay Mỹ đang đứng vào tình thế bất lợi ở
Nam Việt Nam, một tình thế đòi hỏi phải đi một bước mạo
hiểm mới mong tạo nên một sự thay đổi... Giờ đây, nếu không
có một hành động tích cực, sẽ dẫn đến việc Mỹ buộc phải chấp
nhận thất bại trong một tương lai gần... Johnson cho rằng, đó
cũng là quan điểm của tất cả các cố vấn quân sự hữu trách ở
Nam Việt Nam và cả ở Washington. Và người cầm đầu nước
Mỹ thú nhận: Đau lòng và miễn cưỡng, các cố vấn dân sự của
tôi cũng đã buộc phải chấp nhận kết luận như vậy trước những
sự kiện không thể bác bỏ.
Trung tuần tháng 7/1964, sau khi nghe báo cáo tin Nhà
Trắng đã cử Tướng Maxwell Taylor sang làm đại sứ ở miền
Nam Việt Nam, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lưu ý Cục Tình
báo bám sát những triệu chứng mới của địch, cả ở Sài Gòn và
Washington. Ông gợi ý: với việc cử viên tướng số một sang làm
đại sứ ở Sài Gòn, cần theo dõi âm mưu mới của địch tăng quân
và leo thang chiến tranh, và ông nhấn mạnh: cũng không loại
trừ khả năng chúng mở rộng chiến tranh trên cả hai miền.
Cũng vào thời điểm trước và sau cuộc bầu cử tổng thống ở
Mỹ1, theo chỉ thị của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, cơ quan
tình báo chiến lược của ta đặc biệt quan tâm theo dõi sát lời nói
và việc làm thực tế của người cầm đầu Nhà Trắng. Nếu trước
tháng 11, ông ta không công khai biểu thị thái độ "diều hâu" để
hy vọng có thêm phiếu của những cử tri phản chiến, thì sau khi
trúng cử tổng thống, Johnson sẽ làm gì.
___________
1. Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson lên thay Tổng thống John
F. Kennedy (bị ám sát) từ ngày 22/11/1963, tức là ngồi vào ghế tổng
thống không qua bầu cử. Đây là lần đầu tiên Lyndon B. Johnson chính
thức tranh cử.
11
- Qua nhiều nguồn tin từ mạng tình báo chiến lược của ta và
qua báo chí phương Tây, Cục Tình báo khẳng định với Tổng Tư
lệnh rằng, diễn biến thực tế trên chiến trường cũng như tình
hình chính trị không ổn định ở Sài Gòn đang tác động trực tiếp
và rất mạnh đến Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, khiến giới cầm
quyền Mỹ phải hoạch định chủ trương chiến lược mới.
Báo cáo ngày 29/11/1964 của Cục Tình báo viết: Hiện nay
Mỹ đang nghiên cứu lại chủ trương chiến tranh ở miền Nam
Việt Nam. Có nhiều khả năng Mỹ vẫn duy trì đường lối "chiến
tranh đặc biệt" như hiện nay, nhưng mức độ và tính chất có
thể có những điểm mới. Do Mỹ chưa có kế hoạch lâu dài và
toàn diện nhằm giải quyết cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam, nên trước mắt địch sẽ vẫn tập trung lực lượng nhằm làm
thất bại kế hoạch hoạt động mùa khô của ta, kết hợp với không
quân đánh vào căn cứ bàn đạp và nơi tập trung chủ lực của ta;
tiếp tục cô lập miền Nam bằng cách dùng không quân đánh
phá hành lang, kết hợp với bộ binh lấn chiếm và biệt kích...
Đối với miền Bắc, địch sẽ khôi phục và đẩy mạnh hoạt động
biệt kích vào vùng Khu 4 và biên giới Việt - Trung, tập kích
ven biển và cũng có khả năng chúng ném bom vào đường hành
lang ở nội địa Khu 4 để hỗ trợ cho các cuộc đánh lớn ở miền
Nam... Mọi cố gắng của địch trong thời gian trước mắt chỉ
nhằm mục tiêu "không thắng - không thua", để tránh đột biến
lớn về chính trị và chờ chủ trương mới, lâu dài hơn. Về vấn đề
thương lượng để giải quyết cuộc chiến ở miền Nam, Mỹ có thể
cũng đã nghiên cứu và thăm dò dư luận, nhưng chưa có cơ sở
thực tế để xúc tiến1...
___________
1. Xem hồ sơ số 752, phông Cục Tác chiến, Trung tâm Lưu trữ Bộ
Quốc phòng.
12
- Thực tế những khó khăn, lúng túng về chủ trương chiến lược
của Washington và Sài Gòn mà Cục Tình báo báo cáo với Tổng
Tư lệnh, sau này được cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert
S. McNamara nói rõ trong những trang hồi ký của ông ta1.
McNamara tiết lộ rằng, trong năm 1964, giới cầm quyền Mỹ rất
lo ngại vì phải đương đầu với tình hình chính trị và quân sự ở
miền Nam Việt Nam xấu đi nhanh chóng, dẫn đến tình trạng
căng thẳng và tiến thoái lưỡng nan về đường lối đối với vùng
Viễn Đông. Theo giải thích của McNamara, cái gọi là tình trạng
tiến thoái lưỡng nan đó là sự giằng xé giữa một bên là cố tránh
phải can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam với một bên là
tham vọng không để mất Nam Việt Nam: "Trong suốt thời gian
vận động bầu cử, chính quyền đã cố sức giữ cân bằng giữa hai
mục tiêu về Việt Nam: tránh sử dụng lực lượng lính chiến của
Mỹ đồng thời không để mất Nam Việt Nam vào tay cộng sản"2.
McNamara nhận xét rằng, giới cầm quyền Mỹ vừa bất đồng sâu
sắc vừa "bối rối" trong việc hoạch định chính sách đối với Nam
Việt Nam. Họ không biết phải làm gì trước tình trạng suy sụp
nhanh chóng của chính quyền Sài Gòn.
Theo McNamara thì tại các cuộc tranh luận trong giới có
thẩm quyền, không ai sẵn sàng thảo luận vấn đề rút quân ra
khỏi Việt Nam. Người ta cho rằng làm như vậy sẽ dẫn đến một
lỗ hổng nghiêm trọng trên con đê ngăn chặn sự lan tràn của chủ
nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, và giới cầm quyền Mỹ không
chấp nhận điều đó. Thì ra Nhà Trắng vẫn bám lấy thuyết
domino được vạch ra từ thời Tổng thống Harry Truman!
___________
1. Xem Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và
những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.151-159.
2. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những
bài học về Việt Nam, Sđd, tr.156-157.
13
- Trong khi đó, các tham mưu trưởng liên quân không giấu
giếm suy nghĩ của họ trước thực trạng miền Nam Việt Nam.
Giới quân sự ở Lầu Năm Góc nói thẳng ra rằng, nếu tổng thống
không chủ trương tăng cường các biện pháp quân sự thì họ tin
chắc chắn rằng Mỹ sẽ phải rút khỏi Nam Việt Nam. Và họ đề
nghị một chương trình hoạt động quân sự mới và mạnh mẽ hơn
nữa, bao gồm cả việc dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt
Nam. McNamara nói rằng, với những tướng lĩnh trong Hội đồng
Tham mưu trưởng liên quân, chủ trương rút quân khỏi miền
Nam Việt Nam hoặc Đông Nam Á là một việc không thể chấp
nhận được, thậm chí còn là một giải pháp khiến các tham mưu
trưởng thấy giật mình.
Trước tình hình ngày càng rối loạn do tranh giành quyền lực
trong nội bộ tướng lĩnh Sài Gòn, Tổng chỉ huy Westmoreland
có những suy nghĩ khác với các Tham mưu trưởng liên quân.
Ông ta không tin rằng biện pháp quân sự đơn thuần có thể
giải quyết được vấn đề, dù là có quân đội Mỹ trực tiếp tham
chiến. Trong một bức điện gửi về cho Chủ tịch Hội đồng
Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ Earle G. Wheeler vào
trung tuần tháng 10/1964, Westmoreland viết rằng trừ khi có
những triển vọng về một chính quyền tương đối có hiệu quả ở
Nam Việt Nam trong thời gian ngắn trước mắt, nếu không thì
không có một cuộc tiến công nào của Mỹ ở bên trong hay bên
ngoài Nam Việt Nam có thể đảo ngược được tình hình đang
xấu đi nghiêm trọng.
Sau này, cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ McNamara
đã nói rõ trong hồi ký của mình rằng, trong suốt thời gian vận
động bầu cử, ông ta nhận thấy Tổng thống Johnson cố tỏ ra
14
- là "một hình mẫu của con người ôn hòa và kiềm chế"1. Trong
các bài diễn văn vận động tranh cử, Johnson đều nhắc lại một
điệp khúc, nhằm vào đối thủ là Thượng nghị sĩ Barry M.
Goldwater. Johnson nói: "Một số người đang thèm khát mở rộng
cuộc xung đột. Họ muốn chúng ta gửi thanh niên Mỹ đi làm
những việc mà thanh niên châu Á phải làm và chẳng đem lại
giải pháp nào cho vấn đề Việt Nam"2. Và ông ta nhấn mạnh:
"Người Nam Việt Nam có trách nhiệm cơ bản bảo vệ tự do của
chính họ"3. Chính McNamara cũng không hề giấu giếm mà nói
thẳng ra rằng, trong khi chiến dịch tranh cử tổng thống đang
diễn ra quyết liệt, Lyndon B. Johnson muốn vẽ nên hình ảnh
Thượng nghị sĩ Barry Goldwater - ứng cử viên của Đảng Cộng
hòa - như một người hiếu chiến, còn bản thân ông ta là một
chính trị gia biết lẽ phải và yêu hòa bình. McNamara đã từng
đặt câu hỏi: Liệu Tổng thống Johnson có che giấu điều gì
không? Và ông ta tự trả lời: "Tổng thống không hề tiết lộ một
chút gì về thực tế đó (Việt Nam - TG.) cho công chúng (Mỹ -
TG.). Nếu ông có tiết lộ, thì chắc ông phải thêm đôi lời như:
"Chúng ta đang mắc trong đám bùng nhùng khủng khiếp mà
không biết cái gì sẽ xảy ra". Nhưng ông đã không làm như
vậy"4. Vẫn theo McNamara, riêng với những cố vấn thân cận
đứng sau hậu trường của tổng thống (như Dean Rusk, Mac
Bundy, McNamara...) thì lại khác - Johnson có thái độ rất rõ
ràng trong mục tiêu đối với chiến tranh Việt Nam..., đó là: Phải
thắng! Ông ta đã nói với họ như vậy ngay từ lần gặp đầu tiên
với tư cách là tổng thống. McNamara nhấn mạnh rằng, người
___________
1, 2, 3, 4. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và
những bài học về Việt Nam, Sđd, tr.152, 153, 153, 154.
15
- cầm đầu Nhà Trắng không bao giờ sao nhãng khỏi mục tiêu đó.
"Nhưng chúng tôi đã chẳng bao giờ có thể vạch ra được cho ông
ta thấy thắng như thế nào với cái giá phải chăng và sự mạo
hiểm chấp nhận được"1.
Do khéo sắm vai "chính trị gia biết lẽ phải và yêu hòa bình"
(như cách mỉa mai của McNamara) nên đầu tháng 11/1964,
Johnson trúng cử với số phiếu áp đảo. Để chuẩn bị bước vào
nhiệm kỳ mới, mấy ngày trước đó, ông ta đã cho thành lập một
"nhóm công tác" nhằm giúp tổng thống lựa chọn chính sách đối
với vấn đề Việt Nam2. Ngày 1/12/1964, Tổng thống Johnson
triệu tập một hội nghị quan trọng để thảo luận các khuyến nghị
của "nhóm công tác" làm cơ sở để quyết định chính sách đối với
Nam Việt Nam. Ngoài các cố vấn thân cận, cuộc họp còn có Đại
sứ Maxwell Taylor và Phó Tổng thống H. Humphrey. Tổng
thống không chấp nhận cả ba phương án do "nhóm công tác"
đưa ra (nhất là phương án gây sức ép quân sự mạnh, ném bom
ồ ạt trên đường vận chuyển chiến lược) vì - như cách diễn đạt
___________
1. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những
bài học về Việt Nam, Sđd, tr.153.
2. Ngoài nhóm trưởng là William Bundy (trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao) nhóm công tác gồm những quan chức cao cấp của Lầu Năm Góc:
Phó Đô đốc Lloyd M.Mustin, sĩ quan cao cấp của tham mưu liên quân và
là người cho rằng "yếu tố quyết định ở Nam Việt Nam là vấn đề quân sự";
Harold Ford, chuyên viên cao cấp về Trung Quốc - châu Á của CIA; John
McNaughton, trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc
tế... Sau chừng ba tuần, nhóm công tác đề đạt với tổng thống ba phương
án: 1) Giải pháp thông qua thương lượng trên bất cứ một cơ sở nào có thể
có được; 2) Tăng mạnh sức ép quân sự với cả hai miền, nhất là với Bắc
Việt Nam; 3) Chính sách xen kẽ giữa gây sức ép đối với Bắc Việt Nam
đồng thời nỗ lực duy trì các kênh tiếp xúc trong trường hợp Hà Nội mong
muốn có một giải pháp.
16
- của Tổng thống Johnson - được McNamara nhắc lại trong hồi
ký - nếu bảo Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân
Wheeler tát cho Bắc Việt một cái thì chúng ta cũng có thể nhận
một cái tát trả lại. Hơn nữa, McNamara nói rõ thêm, Johnson
chưa hề tin rằng Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến này bằng không
quân... Điều cần hơn và hiệu quả hơn là phải có sức mạnh quân
sự đủ mạnh trên mặt đất.
Theo McNamara, đó chính là nguồn gốc dẫn đến chủ
trương triển khai quy mô lớn lực lượng bộ binh Mỹ tại miền
Nam Việt Nam.
Sau cuộc họp quan trọng với tổng thống, giữa tháng 12,
Tướng Taylor trở lại miền Nam Việt Nam, mang theo bản
thông điệp của Nhà Trắng gửi các tướng lĩnh Nam Việt Nam
nói rằng: để có được sự ủng hộ tiếp tục của Mỹ thì cần phải
ổn định chính trị, (và điều này có nghĩa là) các tướng lĩnh
phải chấm dứt việc chống đối lẫn nhau và chống chính phủ
của mình. Qua bản thông cáo chung Taylor - Trần Văn Hương,
báo Nhân dân (ngày 13/12/1964) trích dẫn lời của hãng thông
tấn Anh Reuter ngày 11/12, viết rằng: "Mỹ đã quyết định
tăng viện trợ cho chính quyền Sài Gòn để tiến hành những
hoạt động đánh vào các đường xâm nhập từ Bắc Việt Nam
vào Nam Việt Nam. Tính chất những biện pháp quân sự mới
này chưa được nêu ra "vì lý do an ninh" nhưng những biện
pháp đang được thảo luận bao gồm những cuộc tiến công
bằng đường không và đường bộ vào các vùng căn cứ của cộng
sản ở vùng núi miền Nam nước Lào".
Bước sang đầu năm 1965, tin tức về việc Lầu Năm Góc
chuẩn bị đưa quân vào miền Nam Việt Nam ngày càng được
mạng lưới tình báo chiến lược của ta khẳng định.
17
- 2
Cùng với dự kiến địch leo thang chiến tranh ở miền Nam, Bộ
Thống soái Việt Nam cũng dự kiến địch sẽ mở rộng chiến tranh
đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Theo đề nghị
của Quân ủy Trung ương, từ tháng 7/1963, Thủ tướng Chính
phủ đã ra nghị định về việc tổ chức công tác phòng không nhân
dân trên toàn miền Bắc, nhằm thực hiện chỉ thị của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: Các lực lượng phòng không và không quân phải
sẵn sàng cùng với các lực lượng vũ trang nhân dân đập tan mọi
âm mưu của địch đối với miền Bắc... Phải kiên quyết bắn rơi
máy bay địch nếu chúng liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền
Bắc nước ta.
Theo báo cáo của Cục Tình báo, từ tháng 1/1964, Mỹ bắt đầu
giúp quân đội Sài Gòn mở các chiến dịch bí mật chống phá miền
Bắc, mang mật danh Kế hoạch 34A. Nội dung hoạt động của Kế
hoạch 34A gồm: sử dụng máy bay U-2 do thám miền Bắc; bắt
cóc công dân miền Bắc để khai thác tin tức tình báo; bí mật thả
dù hoặc tung các toán biệt kích từ biển vào phá hoại cầu đường,
kho tàng, gây phỉ và hoạt động "chiến tranh tâm lý". Trong khi
đó, Mỹ tiếp tục dùng các tàu hải quân có trang bị đặc biệt tiến
hành tuần tiễu, do thám và thu thập tin tức theo Kế hoạch
DESOTO, nhằm phô trương lực lượng, gây sức ép về tâm lý, hỗ
trợ Kế hoạch 34A.
Để toàn quân, toàn dân sẵn sàng và chủ động đối phó với
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Tổng Tư lệnh chỉ đạo các
cơ quan quân sự Tổng hành dinh triển khai hàng loạt công tác
chuẩn bị hết sức khẩn trương.
Hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất
được triệu tập đầu tháng 1/1964, mở ra phương hướng triển
khai rộng khắp hệ thống phòng không nhân dân của ba thứ
18
nguon tai.lieu . vn