Xem mẫu

  1. 1. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam­Bài 7:  Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam thống  nhất nước nhà (1973 ­ 1975) I. LỰC LƯỢNG SO SÁNH TA ­ ĐỊCH SAU HIỆP ĐỊNH PARI VÀ NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN  THỨ 21 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG (KHOÁ III) 1. Lực lượng so sánh ta ­ địch sau Hiệp định Pari Cho đến cuối tháng 3­1973, tất cả các đơn vị quân đội Mỹ và quân đội chư hầu còn lại đã rút hết  về nước. Nhưng chiến tranh xâm lược thực dân mới không hề chấm dứt. Với khối lượng viện trợ ồ  ạt trước ngày 27­1­1973, Mỹ chủ trương hiện đại hoá và tinh nhuệ hoá quân đội nguỵ bằng kế  hoạch quân sự 6 năm (1974­1979). Mỹ cũng chủ trương làm cho kinh tế miền Nam tự lực bằng kế  hoạch kinh tế hậu chiến 8 năm (1973­1980). Năm 1973, quân chính quy nguỵ tăng lên 710.000  tên, cùng 1,5 triệu bảo an dân vệ được Mỹ trang bị đầy đủ. Cũng năm đó, Mỹ lại đưa thêm vào  miền Nam 90 máy bay, 100 pháo và khối lượng lớn phương tiện chiến tranh. Với khối lượng phương tiện chiến tranh và quân số lớn. Mỹ ­ nguỵ âm mưu tiêu diệt các lực lượng  vũ trang và lực lượng chính trị cách mạng, xoá bỏ tình trạng hai chính quyền, hai quân đội và ba  lực lượng hiện có, biến miền Nam Việt Nam thành lãnh thổ chỉ có một chính quyền tay sai của  Mỹ. Để chỉ huy và điều hành cuộc chiến tranh cho phù hợp với tình hình mới, Mỹ đổi tên cơ quan chỉ  huy quân sự MACV thành Cơ quan tuỳ viên quốc phòng (DAO) (­ là cơ quan tuỳ viên quân sự Mỹ  có nhiệm vụ điều khiển các hoạt động quân sự của chính quyền và quân đội Sài Gòn dựa trên  viện trợ Mỹ trong giai đoạn Việt Nam hoá chiến tranh). Các cố vấn quân sự đều khoác áo dân sự,  hoạt động trong các cơ quan đầu não của nguỵ quyền, trong các đơn vị quân đội nguỵ ở địa  phương và một số ngành với chức năng không thay đổi: quyết định các chủ trương về quân sự,  chính trị, kinh tế và quyết định cả những vấn đề nhân sự của nguỵ quyền Sài Gòn. Để xoá "thế da báo", theo chủ trương của Mỹ, nguỵ quyền Sài Gòn liên tiếp mở hàng loạt chiến  dịch "tràn ngập lãnh thổ". Ngay trong đêm 27­1­1973, Mỹ ­ nguỵ đưa quân địch chiếm cảng Cửa  Việt (Quảng Trị). Trong năm 1973, với 325.255 vụ hành quân lấn chiếm, địch đã chiếm lại hầu  hết các vùng giải phóng mới và một số vùng giải phóng cũ. Thực tế chứng tỏ Mỹ ­ nguỵ không thi hành các điều khoản của Hiệp định Pari, cuộc chiến tranh  xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam không hề chấm dứt mà vẫn tiếp tục dưới  hình thức mới. Đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ mà không có lính Mỹ. Âm mưu làm cho nhân dân ta mất cảnh giác về hành động gây chiến tranh của chúng và tạo điều  kiện thuận lợi cho việc rút quân về nước, Mỹ làm một số động tác ra vẻ như hoà bình, hữu nghị: rà 
  2. phá mìn, hứa hẹn viện trợ, họp hội nghị hiệp thương. Nhưng sau khi Mỹ rút hết quân về nước,  nguỵ quyền lập tức đình chỉ các cuộc họp hiệp thương, phá hoạt động của phái đoàn liên hiệp  quân sự và Mỹ kéo dài vô thời hạn việc rà phá mìn. Với ưu thế về quân số cộng với khối lượng vũ khí khổng lồ và tối tân của nguỵ được Mỹ viện trợ và  với sự chỉ huy của Mỹ thông qua đội ngũ cố vấn, Mỹ tin chắc cuộc chiến tranh thực dân mới sẽ  giành được thắng lợi. Nhưng những chỗ mạnh trên đây của địch chỉ là nhất thời và bề ngoài. Sau khi Mỹ rút quân, nguỵ  quyền Sài Gòn ở vào thế đi xuống. Chỗ yếu căn bản nhất của quân nguỵ là mất hẳn chỗ dựa vào  quân Mỹ. Sau khi rút quân, khả năng quay trở lại miền Nam Việt Nam của Mỹ không còn nữa.  Trải qua gần 8 năm sa lầy vào cuộc chiến tranh tốn kém nhất, kéo dài nhất, đã tới lúc Mỹ không  thể tiếp tục kiểu chiến tranh làm cho nước Mỹ suy yếu, dân Mỹ khó khăn. Từ sau thất bại Mậu  Thân (năm 1968) cho đến khi ký kết Hiệp định Pari tháng 1­1973, Quốc hội Mỹ đã chủ trương dứt  khoát rút quân Mỹ về nước để cho chính quyền Sài Gòn tự tiến hành cuộc chiến dưới sự đạo diễn  của Mỹ. Tiếp theo việc Thượng nghị viện bỏ phiếu bác bỏ tuyên bố hứa viện trợ của Níchxơn  (ngày 5­4­1973), từ tháng 5 đến tháng 11 ­ 1973, Thượng nghị viện và Hạ nghị viện Mỹ đã nhiều  lần bỏ phiếu đòi chính phủ Mỹ chấm dứt mọi hành động quân sự tại Đông Dương. Ngày 17­5­ 1973, Thượng nghị viện Mỹ công khai điều tra vụ Oatơghết (­ vụ đặt máy nghe trộm Đại hội Đảng  Dân chủ) để đánh đổ Níchxơn. Mâu thuẫn nội bộ giai cấp thống trị Mỹ đã lên đến đỉnh cao. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1969 ­ 1971 vừa chấm dứt, lại tiếp đến cuộc khủng hoảng 1973 ­ 1974  làm cho nước Mỹ chìm ngập trong cơn sốt bội chi, lạm phát, nhập siêu và thất nghiệp. Dân Mỹ  ngày càng phản đối chiến tranh. Lợi dụng thời cơ nước Mỹ đang lún sâu trong cuộc khủng hoảng  toàn diện, Nhật Bản và Tây Âu đã vượt Mỹ về sản lượng công nghiệp. Liên Xô vượt Mỹ về kỹ  thuật quân sự, than đá, dầu mỏ. Cuộc "chiến tranh dầu lửa" năm 1973 của các nước Trung Cận  Đông hướng đòn tiến công vào Tây Âu, Nhật Bản và Mỹ. Cao trào đấu tranh dân tộc, dân chủ ở  châu Á, châu Phi hướng mũi nhọn vào Mỹ. Những khó khăn trong và ngoài nước buộc Mỹ phải liên tiếp cắt giảm viện trợ cho nguỵ quyền Sài  Gòn. Trong vùng nguỵ quyền kiểm soát, giá cả tăng vọt, nạn đói phát triển. Hai triệu người thất  nghiệp vì mất nguồn thu nhập từ khi quân đội Mỹ rút đi. Nạn đào ngũ, rã ngũ trong nguỵ quân và  phong trào chống bắt lính đã đẩy nhanh quân đội Sài Gòn vào tai họa thiếu hụt quân số. Phong  trào chống tham nhũng, chống chính sách độc tài, hiếu chiến của Thiệu, đòi Thiệu từ chức, đòi thi  hành Hiệp định Pari, đòi thả tù chính trị,đòi công ăn việc làm, đòi chấm dứt chiến tranh lập lại hoà  bình,đòi cứu đói... ngày càng lan rộng trong nhiều tầng lớp. Tuy nhiên, những chỗ yếu này của địch phát triển nhanh hay chậm, chủ yếu vẫn là do cách mạng  có đủ sức giáng cho địch những đòn chí mạng hay không. Cách mạng miền Nam đang đứng trước tình thế mới: nguỵ quyền Sài Gòn có nguy cơ sụp đổ,  nhân dân ta có khả năng đập tan chính quyền nguỵ trên toàn miền Nam. Nhu cầu bức thiết của lịch sử lúc đó đòi hỏi Đảng ta phải tìm ra lời giải cho các bài toán chiến 
  3. lược. Một là, Hiệp định Pari được thực hiện hay chiến tranh lại tiếp diễn?Hai là, đây là giai đoạn  quá độ hay là giai đoạn cuối của sự nghiệp giải phóng miền Nam? Ba là, trước mắt phải bắt đầu  từ giải pháp gì để phá âm mưu gây chiến của địch đưa cách mạng miền Nam tiến lên hoà bình,  hoà hợp dân tộc hay phản công, tiến công chống lấn chiếm? 2. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) Ngày 28­1­1973, Ban Chấp hành Trung ương đã khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu  nước đã giành được thắng lợi rất vẻ vang, song Mỹ ­ nguỵ vẫn chưa từ bỏ âm mưu phá hoại hoà  bình, ngăn trở con đường độc lập, thống nhất của nhân dân ta. Trong tháng 1­1973, Bộ Chính trị thông qua nghị quyết của Quân uỷ Trung ương về trường hợp  địch vi phạm Hiệp định Pari, các lực lượng vũ trang cần chuẩn bị sẵn sàng đối phó với các cuộc  tiến công quân sự của địch, trước mắt đòi nguỵ quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thực hiện Hiệp định. Tuy nhiên, trong nhân dân ta lúc đó xuất hiện hiện tượng mệt mỏi, khuynh hướng ảo tưởng hoà  bình, mất cảnh giác. Sau này, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10­1974 nhận định rằng đã có khuynh  hướng "ảo tưởng, chờ đợi, thụ động, thậm chí có nơi rút lui". Trước tình hình mới, Bộ Chính trị thấy cần tập trung nghiên cứu, phân tích âm mưu hành động  của Mỹ ­ nguỵ. Ngày 24­5­1973, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng với đại diện các chiến trường  để nghiên cứu, thảo luận những vấn đề chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung  ương khoá III. Hội nghị đánh giá ưu, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm của 18 năm kháng chiến  chống Mỹ (1954 ­ 1972). Hội nghị nhất trí cho rằng, miền Nam chưa có hoà bình. Hội nghị xác  định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân đấu tranh trên cả ba  mặt trận là chính trị, quân sự và ngoại giao nhằm kiên quyết đánh bại âm mưu và hành động của  địch phá hoại Hiệp định Pari; giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, thắng địch  từng bước, chuẩn bị điều kiện đầy đủ nhất để có thể chủ động đối phó với địch trong mọi tình  huống, sẵn sàng đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 5­1973 là nội dung chủ yếu của Báo cáo chính trị trình  Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III. Căn cứ vào nhận định của Bộ Chính trị  ngày 25­6­1973, Quân uỷ Trung ương ra nghị quyết sẵn sàng chiến đấu, đánh bại mọi hành động  lấn chiếm của địch, chuẩn bị về mọi mặt nếu địch gây lại chiến tranh quy mô lớn thì kiên quyết  tiêu diệt chúng. Tháng 7­1973, hội nghị Khu V thông qua nghị quyết ra sức đánh bại kế hoạch lấn  chiếm, bình định của địch, giành dân, giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta.  Tháng 9­1973, Hội nghị lần thứ 12 Trung ương Cục bàn cụ thể hoá tư tưởng chiến lược tiến công  và quan điểm cách mạng bạo lực.Ở miền Tây Nam Bộ, từ tháng 2­1973, Khu uỷ Khu IX đã đề  nghị cho kiên quyết đánh trả địch đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Tháng 7­1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp tại Hà Nội và ra Nghị  quyết Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng  miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới.
  4. Hội nghị nhận định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một cuộc đọ sức  điển hình, là tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng  trên thế giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc mang tính thời đại sâu  sắc. Hiệp định Pari đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta,  làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, làm thất bại một bước quan trọng học thuyết  Níchxơn. Hội nghị rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn sau 18 năm kháng chiến chống Mỹ: 1) Giữ vững tư  tưởng chiến lược tiến công; 2) Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực; 3) Giương cao ngọn cờ  dân tộc dân chủ và ngọn cờ xã hội chủ nghĩa; 4) Biết thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi  hoàn toàn; 5) Có phương pháp cách mạng thích hợp. Hội nghị nêu rõ ở miền Nam vẫn chưa có ngừng bắn, nguỵ quyền Sài Gòn được Mỹ giúp đỡ vẫn  tiếp tục gây chiến. Âm mưu của đế quốc Mỹ là tiếp tục dùng nguỵ quyền Sài Gòn làm công cụ  thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành một nước riêng  biệt, một quốc gia thân Mỹ. Sau khi quân Mỹ rút đi, quân nguỵ có mạnh về phương tiện vật chất  nhưng thực chất đang xuống dốc. Thế và lực của cách mạng miền Nam lúc đó mạnh hơn bất cứ  thời kỳ nào kể từ năm 1954. Lực lượng vũ trang nhân dân đứng vững trên các địa bàn chiến lược.  Nhân dân vùng tạm bị chiếm bị kìm kẹp vẫn hướng về cách mạng. Miền Bắc đang phục hồi kinh  tế, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Chỗ yếu của cách mạng miền Nam là phong  trào đấu tranh chính trị, bộ đội địa phương và dân quân du kích, cơ sở cách mạng ở đô thị và  nông thôn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Cách mạng miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng: Một là: Ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari. Hai là: Ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập  đoàn thống trị tư sản mại bản quan liêu, quân phiệt, phát xít ­ tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ  đang thống trị trong vùng địch kiểm soát ­ đẩy lùi và thắng địch từng bước, đi đến xoá bỏ chế độ  thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thực sự, thực hiện hoà hợp dân tộc, thoát  ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn  vinh, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III vạch rõ nhiệm vụ trước mắt của cách  mạng miền Nam: 1­ Trong bất cứ tình huống nào, phải nắm vững lực lượng vũ trang, 2­ Nhiệm vụ  hàng đầu của cách mạng miền Nam hiện nay là giành dân và giành quyền làm chủ của nhân  dân, 3­ Binh vận là mũi tiến công rất quan trọng làm tan rã chính quyền địch. 4­ Đẩy mạnh phong  trào đấu tranh đô thị đòi hoà bình, dân chủ, dân sinh, đòi thi hành Hiệp định Pari. 5­ Củng cố  vùng giải phóng. 6­ Tăng cường công tác Mặt trận và công tác chính quyền. 7­ Công tác ngoại  giao phải nắm vững pháp lý Hiệp định Pari, kiên quyết và kịp thời vạch trần âm mưu và hành  động vi phạm hiệp định của địch.
  5. Điều kiện chủ yếu để giành thắng lợi trong giai đoạn mới là Đảng bộ miền Nam phải nắm vững tư  tưởng chiến lược tiến công, nắm vững bạo lực cách mạng. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III có ý nghĩa lịch sử quan trọng, mở  đường đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi. Nhưng hạn chế của Hội nghị là, trong  lúc trên thực tế chiến trường, khả năng buộc địch thi hành Hiệp định Pari đã không còn nữa, Hội  nghị vẫn còn nhận định hai khả năng phát triển. Hạn chế này đã được khắc phục qua thực tế diễn  biến ở chiến trường những năm 1973 ­ 1974.  II. TẠO THẾ, TẠO LỰC VÀ TẠO THỜI CƠ CHO TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG, QUYẾT ĐỊNH LỊCH  SỬ THÁNG 10­1974 1. Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho trận đánh cuối cùng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III được thực hiện, làm cho cục  diện cách mạng miền Nam có sự thay đổi lớn.Từ thế bị động đối phó, chiến tranh cách mạng  miền Nam chuyển lên chủ động phản công và tiến công, bẻ gẫy kế hoạch lấn chiếm của Mỹ ­  nguỵ. Từ chỗ mất đất, mất dân, chuyển lên thu hồi và mở rộng vùng giải phóng, đẩy Mỹ ­ nguỵ  vào tình trạng bế tắc, suy sụp. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21, tháng 10­1973, Hội nghị  Quân uỷ Trung ương vạch rõ : nhiệm vụ trung tâm số 1 về mặt quân sự lúc này là phá bình định,  lấn chiếm, giành quyền làm chủ. Trong những tháng cuối năm 1973, phong trào phản công, tiến công, chống lấn chiếm, phá bình  định bùng lên mạnh mẽ trong toàn miền. Ở miền Tây Nam Bộ, quân dân ta đã đập tan cuộc hành  quân lấn chiếm dài ngày của 76 tiểu đoàn nguỵ trên địa bàn Chương Thiện. Ở Trung Nam Bộ,  quân dân ta phản công lấy lại một số vùng Nam ­ Bắc lộ 4, Mỹ Tho, Bến Tre, khôi phục vùng giải  phóng. Ở Đông Nam Bộ, giải phóng Bù Bông (Tuy Đức), tiến công sân bay BiênHoà và kho xăng  Nhà Bè, lực lượng vũ trang áp sát vùng ven Sài Gòn. Ở Cực Nam Trung Bộ, đánh phá tuyến  đường sắt Phan Rang ­ Phan Thiết, bức rút một số đồn. Ở Trung Trung Bộ, giành lại nhiều vùng  bị địch lấn chiếm ở Duy Xuyên, Điện Bàn (Quảng Nam), Phù Mỹ (Bình Định), Sơn Tịnh (Quảng  Ngãi), bẻ gẫy cuộc tiến công lấn chiếm của quân nguỵ ở Hoài Nhơn (Bình Định). Ngày 22­9­ 1973, lực lượng vũ trang Tây Nguyên giải phóng Chư Nghé, đánh thông đường tiếp vận chiến lược  Đông Trường Sơn. Ở Trị Thiên, ta giữ vùng giải phóng như trước Hiệp định. Song song với đòn phản công và tiến công, nhân dân miền Nam đã mở nhiều đợt đấu tranh chính  trị đòi hoà bình, hiệp thương, đòi thi hành Hiệp định Pari, phá ấp chiến lược, làm tan rã nguỵ  quyền, đòi quyền dân sinh dân chủ. Hàng trăm ngàn đồng bào ở các vùng đồng bằng sông Cửu  Long, Đông Nam Bộ và Trung Bộ bỏ ấp chiến lược trở về nhà sản xuất. Ở đô thị, các phong trào  chống thuế gia tăng, chống nạn khan hiếm lúa gạo, chống bắt lính kết hợp với cuộc vận động  đào, rã ngũ trong binh sĩ nguỵ liên tiếp nổ ra. Trong năm 1973 có khoảng 135.000 binh sĩ nguỵ  bỏ về nhà.
  6. Chiến tranh chuyển lên quy mô lớn, yêu cầu mở rộng lực lượng vũ trang và bổ sung tổn thất đặt  ra hết sức khẩn trương. Yêu cầu đó chủ yếu đặt lên vai hậu phương miền Bắc. Tháng 12­1973, Hội nghị thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp bàn về khôi phục kinh  tế ở miền Bắc. Hội nghị xác định nhiệm vụ của miền Bắc trong giai đoạn mới là nâng cao cảnh giác, sẵn sàng  đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với  miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. Hội nghị thông qua phương hướng, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế trong 2 năm 1973 ­  1974 nhằm đưa mức sản xuất lên bằng hoặc cao hơn mức đã đạt được năm 1965 và năm 1971. Năm 1974, hai vụ lúa được mùa,sản xuất hoa màu phát triển mạnh khắp các địa phương. Nông  dân tập thể nộp và bán đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp vượt kế  hoạch 4%. Sản xuất đã đạt và vượt mức năm 1965 và năm 1971. Năm học 1974 ­ 1975 có  6.630.900 người đi học (so với số dân miền Bắc lúc ấy là 21.700.000 người). Tính bình quân cứ 1  vạn dân có 11,7 bác sĩ, y sĩ (năm 1965: 5,2). Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trước mắt, Đảng ta không quên chuẩn bị cho kế hoạch lâu  dài. Tháng 2 ­1973, Bộ Chính trị ra nghị quyết về công tác cán bộ trong giai đoạn mới. Nghị quyết  nêu 5 tiêu chuẩn cán bộ: 1­ Trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội; 2­ Nhất trí với đường  lối, quan điểm của Đảng; 3­ Có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ; 4­ Tôn trọng và phát huy  quyền làm chủ tập thể của nhân dân; 5­ Có ý thức tổ chức và kỷ luật. Tháng 12­1974, Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp Hội nghị lần thứ 23 bàn về : Tăng cường  sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đúc kết kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng giai đoạn đã qua, Hội nghị nêu ra 3 phương châm:  1­ Xây dựng Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý, kiện toàn tổ chức của Nhà  nước và việc xây dựng, củng cố các đoàn thể quần chúng; 2­ Nâng cao chất lượng đảng viên phải  kết hợp với nâng cao chất lượng cán bộ, với kiện toàn cơ quan lãnh đạo từng cấp, từng ngành; 3­  Phát triển Đảng phải coi trọng chất lượng, phát triển phải đi đôi với củng cố. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III tháng 10­1973, Bộ  Chính trị phê chuẩn kế hoạch của Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng xây dựng các quân  đoàn chủ lực. Từ tháng 10 ­1973 đến tháng 3 ­1975, bốn quân đoàn lần lượt ra đời. Song song với  việc hình thành và bố trí các quân đoàn trên các địa bàn chiến lược, các sư đoàn, trung đoàn chủ  lực cơ động trực thuộc Bộ Quốc phòng và các quân khu cũng được tăng cường. Từ cuối năm 1973, các cuộc tập huấn cán bộ quân sự được tổ chức để nâng cao nghệ thuật tổ  chức và chỉ huy các chiến dịch tiến công, chiến dịch phòng ngự. Trong những năm 1973 ­ 1975  đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận.
  7. Tháng 11­1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn thiết kế xây dựng hệ thống đường vận tải chiến  lược Trường Sơn Đông và nâng cấp đường Trường Sơn Tây. Tháng 1­1975, xăng dầu vận hành  bằng đường ống đã vào đến miền Đông Nam Bộ. Trong tháng 3, 4 và 5 năm 1974, Quân giải phóng mở cuộc tiến công ở biên giới Việt Nam ­  Campuchia, giải phóng các vị trí Lệ Ngọc (ngày 8­3), Tống Lê Chân (ngày 12­4), Con Rốc (ngày  24­4), Riné (ngày 15­4). Rạch Bắp, Đắc Pét (ngày 16­5), Iaxúp (ngày 30­5). Vùng giải phóng Tây  Nguyên mở rộng, liên hoàn với vùng giải phóng Đông Nam Bộ, mở ra thế trận áp sát Sài Gòn.  Vùng giải phóng đồng bằng Khu V và đồng bằng Nam Bộ mở rộng, vùng kiểm soát của địch ngày  càng thu hẹp. Ngày 18­7­1974, quân giải phóng tiến công cụm cứ điểm Nông Sơn ­ Trung Phước (Quảng Nam),  diệt 2 tiểu đoàn chủ lực cơ động nguỵ, giải phóng 13.000 dân. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Nam  mở rộng đến sát đường số 1. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Ngãi mở rộng đến sát biển. Vùng nông  thôn Bắc Bình Định căn bản được giải phóng. Vùng giải phóng tỉnh Phú Yên được khôi phục. Phát huy chiến thắng Nông Sơn ­ Trung Phước, ngày 7­8­1974, quân giải phóng giành được  thắng lợi vang dội, hoàn toàn làm chủ chi khu quận lỵ Thượng Đức (Quảng Nam), tiêu diệt 1.600  tên, giải phóng 11.000 dân. Chiến thắng Nông Sơn ­ Thượng Đức đã tạo cho quân ta một bàn  đạp tiến công mới, tuyến phòng thủ ngoài cùng của Đà Nẵng bị xoá bỏ, Thành phố Đà Nẵng bị uy  hiếp từ phía Tây Nam. Thừa thắng xốc tới, quân giải phóng hoàn toàn làm chủ các chi khu, quận  lỵ Minh Long (ngày 10­8), Măng Bút (ngày 20­8); Giá Vụt (ngày 20­9), Măng Đẻn (ngày 30­10).  Cho đến tháng 12­1974, một loạt chi khu, quận lỵ đã được giải phóng: Bà Mi, Châu Thành A, Đức  Phong, Bố Đúc, Hưng Long, Tánh Linh, Đồng Xoài, Bù Đốp. Ở Đông Nam Bộ, thời gian này, quân  dân ta đã giải phóng một vùng rộng ở Nam đường số 7, Bắc sông Đồng Nai, tiến công hàng chục  vị trí địch ven Sài Gòn, đặc biệt là trận tập kích kho xăng Nhà Bè (ngày 2­6­1974). Từ tháng 7 đến tháng 10­1974, quân dân Tây Nam Bộ đã đánh bại các cuộc hành quân lấn  chiếm, giải phóng gần 800.000 dân. Quân dân Trung Nam Bộ mở rộng vùng giải phóng Đồng  Tháp Mười, giải phóng 130.000 dân. Trung Trung Bộ giải phóng 200.000 dân. Trên toàn miền Nam, vùng giải phóng có gần 5 triệu người dân, vùng tranh chấp trên 5 triệu dân.  Địch chỉ còn kiểm soát được 9,5 triệu dân. Năm 1974, tình thế mới xuất hiện trên chiến trường miền Nam. Quân, dân ta đã giải phóng và giữ  được hàng chục chi khu, quận lỵ, nguỵ quyền Sài Gòn đành chịu bó tay, không còn khả năng lấy  lại được. Tình thế này chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn hẳn quân chủ lực cơ  động của địch, khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi. Trong khi lực lượng mọi mặt của nhân dân ta lớn mạnh, thì lực lượng mọi mặt của Mỹ ­ nguỵ ở  miền Nam đang suy sụp, tan rã. Tiếp theo việc cắt bỏ kinh phí ném bom Campuchia, tháng 6 ­  1994, Quốc hội Mỹ lại bác bỏ yêu sách của Níchxơn đòi viện trợ bổ sung 216 triệu đôla cho chính  quyền Sài Gòn. Ngày 9­8­1974, Tổng thống Níchxơn buộc phải tuyên bố từ chức, điều này chứng tỏ chính sách 
  8. kéo dài chiến tranh của Mỹ đã hoàn toàn phá sản. Xu thế chung của nhân dân Mỹ là chấm dứt  chiến tranh. Ghêron Pho (Gerald Ford) lên thay Níchxơn làm Tổng thống cũng không cưỡng nổi  xu thế này. G.Pho tuyên bố rằng, cần theo đuổi chính sách kiềm chế tương đối ở Đông Nam Á và  Thái Bình Dương. Thực tế hành động của G.Pho đã chứng minh chính sách đó có nghĩa là bỏ rơi  ngụy quyền Sài Gòn. Ngày 13­8­1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra thông báo nhận định: Trước  tình cảnh khốn cùng, giai cấp thống trị Mỹ đã dùng Níchxơn làm vật hy sinh, hòng làm dịu mâu  thuẫn của Chính phủ Mỹ và nhân dân Mỹ. Thông báo vạch rõ: Ta không có ảo tưởng về sự thay  đổi tổng thống ở Mỹ, đây chỉ là một thủ đoạn thay ngựa giữa dòng của tập đoàn tư bản lũng đoạn  Mỹ để cứu vãn tình thế. Việc Níchxơn từ chức có ảnh hưởng trực tiếp tới nguỵ quyền Sài Gòn. Trong ngày Níchxơn từ  chức, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh báo động toàn miền. Ngày 28­8­1974, giáo hội Thiên chúa thành lập "Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu  nước và kiến tạo hoà bình". Trong tháng 9 và tháng 10, các tổ chức "Lực lượng hoà bình và hoà  hợp dân tộc", "Mặt trận nhân dân cứu đói", "Uỷ ban đấu tranh đòi thả tù chính trị" ra đời. Ngày 8  và 15­9­1974, hàng vạn đồng bào Huế xuống đường biểu tình chống khủng bố báo chí, bóp  nghẹt tự do dân chủ, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nguỵ quyền Sài Gòn, đại sứ Mỹ G.Matin­ trùm cố vấn Mỹ,  buộc Nguyễn Văn Thiệu phải làm dịu tình hình bằng cách cách chức 4 thành viên trong chính  phủ, cách chức 400 tướng tá và thuyên chuyển 3 tư lệnh quân khu. Có những dấu hiệu Mỹ đang  xoay con bài mới, trở lại Hiệp định Pari, đưa lực lượng thứ ba ra sân khấu chính trị Sài Gòn. 2. Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10­1974 và tháng 1­1975 về giải phóng hoàn  toàn miền Nam Những cuộc phản công và tiến công thắng lợi của quân giải phóng đã đẩy nhanh thời cơ chín  muồi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày 21­7­1974, tại thị xã Đồ Sơn, đồng chí Lê Duẩn ­ Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung  ương Đảng, đã nghe các đồng chí lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu báo cáo về sự chuyển biến mới  của chiến trường miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn phân tích âm mưu mới của đế quốc Mỹ và các thế  lực thù địch là chia vùng ảnh hưởng và chia cắt lâu dài nước ta. Đảng và nhân dân ta phải nắm  vững thời cơ để giành thắng lợi sớm, trước khi các thế lực đó thực hiện âm mưu của chúng. Bộ  Tổng tham mưu được giao nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giành thắng lợi năm 1975,  giành thắng lợi quyết định năm 1976 trình Bộ Chính trị. Từ ngày 30­9 đến ngày 8­10­1974, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 1 bàn về chủ trương giải phóng hoàn  toàn miền Nam. Đánh giá về khả năng Mỹ có can thiệp trở lại miền Nam Việt Nam hay không, Hội nghị cho rằng:  Mỹ rất ngoan cố và còn nhiều âm mưu thâm độc, nhưng đã rút quân ra thì việc quay lại không 
  9. phải dễ; dù Mỹ có can thiệp trở lại chừng mực nào đó thì cũng không xoay chuyển được tình thế.  Nhân dân ta vẫn thắng. Từ kết luận trên, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân cả nước ta là: Động  viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến  công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và  làm tan rã quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các  thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay  nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân  trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai  năm 1975 ­ 1976. Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10­1974, một không khí khẩn trương chuẩn bị cho cuộc  tổng tiến công toả xuống các chiến trường, các quân binh chủng và các địa phương. Ngày 8­10­1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố đòi  Mỹ chấm dứt mọi can thiệp, đòi đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu và phe cánh ­ trở ngại chính cho việc  giải quyết các vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam. Đợt 2 của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 8­12­1974 đến ngày 7­1­1975. Hội nghị cho rằng, thế  và lực mới của cách mạng đã thể hiện trên các mặt sau đây:một là, ta đã giành quyền chủ động  tiến công địch trên khắp các chiến trường;hai là, những binh đoàn chủ lực cơ động và những  nguồn dự trữ chiến lược của ta đã được xây dựng đủ; ba là, phong trào đấu tranh chính trị đòi hoà  bình, độc lập, hoà hợp dân tộc đã được phát động; bốn là, thế giới đồng tình, ủng hộ ta trừng trị  bọn lấn chiếm. Ngày 6­1­1975, tin giải phóng thị xã Phước Long làm cho Hội nghị càng thêm tin chắc rằng quân  Mỹ không thể trở lại miền Nam và việc giải phóng miền Nam có thể tiến hành với nhịp độ nhanh  hơn.Tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Hội nghị đợt 1, Hội nghị đợt 2 vạch rõ:Nắm vững thời cơ  lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận đánh quyết định, kết thúc cuộc  kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới tổng tiến  công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.  III. BA ĐÒN CHIẾN LƯỢC, TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN  NAM 1. Chiến dịch Tây Nguyên Cuộc tổng tiến công và nổi dậy bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên, với trận mở màn đánh vào  thị xã Buôn Ma Thuột. Đánh chiếm Buôn Ma Thuột, làm chủ Nam Tây Nguyên, ta có ba hướng  phát triển: lên phía Bắc, giải phóng Plâycu, Kon Tum; tiến xuống đồng bằng ven biển Trung bộ;  thọc thẳng vào miền Đông Nam bộ và Sài Gòn. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi sẽ tạo ra bất  ngờ lớn, làm đảo lộn thế phòng thủ của địch trên toàn chiến trường.
  10. Bộ Chính trị quyết định cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng  Quân đội nhân dân Việt Nam vào chiến trường Tây Nguyên thành lập cơ quan đại diện của Quân  uỷ Trung ương và Bộ Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên được  thành lập. Các đoàn xe vận tải, xe chở quân xuất phát từ hậu phương lớn miền Bắc bí mật và hối  hả hướng về chiến trường Nam Tây Nguyên. Cán bộ chiến sĩ ra trận phấn khởi, tự tin, sung sức. Ngày 17­2­1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên bàn kế hoạch đánh chiếm thị xã Buôn Ma  Thuột theo đúng tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là tranh thủ bất ngờ cao độ, bảo đảm thắng  giòn giã. Bộ Tư lệnh đã giữ bí mật tuyệt đối, hướng tác chiến chủ yếu là Buôn Ma Thuột, tích cực  hoạt động nghi binh trên hướng Plâycu, Kon Tum. Ngày 4­3­1975, quân ta đánh và cắt các con đường chiến lược số 19, 21 và 14. Việc giao lưu của  địch giữa đồng bằng miền Trung với cao nguyên bị ngưng trệ hoàn toàn. Trên chiến trường toàn  miền, địch vẫn tập trung vào hướng phòng thủ chính là Trị Thiên. 1 giờ 55 phút sáng ngày 10­3­1975, quân ta nổ súng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột. Trưa hôm  sau, bộ đội ta đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Hơn 1000 tên địch bị bắt sống trong đó  có đại tá tỉnh trưởng Đắk Lắk, đại tá phó Sư đoàn 23 ngụy, đại diện lãnh sự quán Mỹ. Trận Buôn  Ma Thuột là "một đòn điểm đúng huyệt", tác động đến toàn bộ binh lực ngụy quyền, tới cả nước  Mỹ. Thế bố trí lực lượng và toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân ngụy bị đảo lộn. Ngay trong ngày 11­3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp đánh giá: Ta có khả năng giành  thắng lợi to lớn với tốc độ nhanh hơn dự kiến. Bộ Chính trị chủ trương nhanh chóng nắm bắt thời  cơ, sử dụng lực lượng và tiến công linh hoạt, tập trung, khẩn trương và mạnh bạo. Hướng tiến  công tiếp theo có thể là Huế, Đà Nẵng và khi có thời cơ đánh mạnh vào Sài Gòn. Từ ngày 12 đến ngày 18­3, bằng một loạt trận đánh xuất sắc, quân ta đập tan hoàn toàn cuộc  phản kích "tái chiếm Buôn Ma Thuột" của quân đoàn 2 nguỵ, tiêu diệt hoàn toàn Sư đoàn 23 ­  một sư đoàn được quận ngụy suy tôn là "Nam bình, Bắc phạt, Cao nguyên trấn". Được tin Buôn Ma Thuột thất thủ, đại sứ Mỹ Matin điện trả lời Nguyễn Văn Thiệu rằng, bỏ hay  không bỏ Buôn Ma Thuột là do chính ông ta quyết định. Thất bại ở Buôn Ma Thuột và thái độ của  Mỹ làm cho những kẻ đứng đầu ngụy quyền Sài Gòn choáng váng. Ngày 13­3­1975, Nguyễn Văn  Thiệu họp khẩn cấp Hội đồng an ninh quốc gia, chủ trương "co hẹp trận địa". Theo dõi từng bước phát triển của tình hình, ngày 13­3­1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung  ương dự kiến: Bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực lớn, mất thị xã Buôn Ma Thuột và nhiều quận lỵ,  đường 19 bị chia cắt, do đó, có khả năng địch sẽ tập trung các lực lượng còn lại về Tây Nguyên  và Plâycu, và cũng có khả năng chúng buộc phải rút bỏ Tây Nguyên. Trước sức tấn công như vũ bão và bất ngờ của quân ta, Nguyễn Văn Thiệu cùng ngụy quyền Sài  Gòn chủ trương rút lui chiến lược khỏi Tây Nguyên.
  11. Theo chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ chỉ huy chiến dịch, quân ta triển  khai lực lượng nhanh chóng với quyết tâm nắm thời cơ, tiêu diệt hoàn toàn quân địch bỏ  chạy.Cuộc truy kích thần tốc 8 ngày đêm (từ ngày 17 đến ngày 24­3) thắng lợi giòn giã. Toàn bộ  cánh quân địch rút khỏi Tây Nguyên bị tiêu diệt. Ngày 18­3­1975, Bộ Chính trị chủ trươnggiải phóng miền Nam trong năm 1975, trước mắt diệt  ngay Quân đoàn 1 ngụy, không cho chúng rút chạy về Sài Gòn. Ngày 25­3­1975, Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng. Chế độ Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ  hoàn toàn. 2. Chiến dịch Huế ­ Đà Nẵng. Từ đầu tháng 3­1975, theo chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, khi chiến dịch Tây  Nguyên mở màn, các tỉnh miền Trung Trung bộ cũng triển khai cuộc tiến công, chuẩn bị giải  phóng các thành phố, thị xã khi có thời cơ. Ngày 18­3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho quân dân Trị Thiên phải đánh mạnh,  tích cực tiêu diệt địch, không cho chúng rút lui an toàn khỏi Quảng Trị, Huế; đồng thời gấp rút  chuẩn bị đánh vào Đã Nẵng. Đêm 18­3­1975, địch bỏ Quảng Trị chạy về Huế và Đà Nẵng. Quân và dân ta nhanh chóng  chuyển sang tấn công. Chiều ngày 19­3, Quảng Trị hoàn toàn giải phóng. Ngày 20­3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị tiếp cho quân khu Trị Thiên: Sau khi bỏ  Quảng Trị, địch có thể bỏ cả Thừa Thiên và Huế, ta phải táo bạo, khẩn trương, tích cực chuẩn bị  mọi mặt để giải phóng toàn bộ đồng bằng, giải phóng Huế và Đà Nẵng. Quân ta tiến công từ ba phía: Bắc, Tây và Nam. Ngày 20­3, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân  khỏi thành phố Huế, Quân đoàn 1 ngụy lập tức bỏ Huế chạy về Đà Nẵng bằng đường không. 10  giờ 30 phút ngày 25­3, hai mũi tiến công của bộ đội địa phương Quảng Trị và Quân đoàn 2 gặp  nhau trong Thành Nội, làm chủ Toà Khâm cũ, khách sạn Thuận Hoá, trại Phan Sào Nam, các  công sở nhà máy điện, nước... Lá cờ cách mạng tung bay trên đỉnh Phú Văn Lâu. Thành phố Huế  hoàn toàn giải phóng. Ngày 24­3, quân và dân ta giải phóng thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam). Tiếp sau Tây Nguyên, hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế được giải phóng là một  đòn mới đánh vào nguỵ quân, ngụy quyền các cấp, làm cho ngụy quyền ở Đà Nẵng rệu rã, hoảng  loạn. Ngày 25­3, Tổng thống G.Pho cấp tốc cử tướng Uâyen sang Sài Gòn nắm tình hình và tìm  kế hoạch cứu vãn. Sau 5 ngày đêm tiến công và nổi dậy, quân và dân Quân khu V đã tiêu diệt và làm tan rã một nửa  chủ lực cơ động của địch trên địa bàn. Đà Nẵng bị bao vây, chia cắt hoàn toàn với ngụy quyền 
  12. trung ương Sài Gòn. Theo sát bước phát triển mới của chiến trường miền Trung, ngày 25­3­1975, Hội nghị Bộ Chính trị  chủ trương: nắm vững thời cơ chiến lược, tập trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hành  động táo bạo, bất ngờ làm cho địch không kịp trở tay, hoàn thành nhiệm vụgiải phóng Sài Gòn  trước mùa mưa. Phương châm chỉ đạo là kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ  nhất, chắc thắng. Mục tiêu trước mắt là tập trung lực lượng giải phóng thành phố Đà Nẵng. Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2, Quân khu Trị Thiên và Quân khu V được lệnh gấp rút tiến về Đà  Nẵng. Ngày 26­3, Ngô Quang Trưởng ­ Tư lệnh Quân đoàn 1 và Quân khu 1 ngụy, được Mỹ đánh  giá là tướng giỏi nhất trong hàng ngũ tư lệnh quân đoàn ngụy ­ đã bỏ sở chỉ huy chạy ra một tàu  Mỹ ở ngoài biển. Nhiều đơn vị không tuân lệnh chỉ huy, tự động bỏ vị trí phòng thủ, rút về tuyến  sau. Ngày 27­3, gần 3.000 binh sĩ ngụy trung tâm huấn luyện Hoà Cầm làm binh biến, bỏ về gia  đình. Tàn quân ngụy từ Huế chạy vào, từ Chu Lai, Tam Kỳ chạy ra, gieo thêm tâm lý hoảng hốt,  tuyệt vọng trong hàng ngũ sĩ quan, binh lính ngụy. Ngày 28­3, lãnh sự quán Mỹ chạy khỏi Đà  Nẵng. Trước tình hình đó, ngày 27­3, Quân uỷ Trung ương điện cho Quân khu V và Quân đoàn 2: Tình  hình Đà Nẵng rất khẩn trương cần có những biện pháp đặc biệt nhanh chóng tiến công địch, bỏ  qua những mục tiêu dọc đường, đánh thẳng vào Đà Nẵng nhanh nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất  với những lực lượng có thể chuyển tới sớm nhất. Ở thành phố Đà Nẵng, thực hiện chỉ thị của Khu uỷ khu V về chuẩn bị phát động quần chúng nổi  dậy phối hợp với đòn tiến công quân sự, ngày 21­3, Tỉnh ủy Quảng Đà (Quảng Nam ­ Đà Nẵng)  bàn kế hoạch nổi dậy. Các xã ở vùng ven đô, các khu phố, các phường, các xí nghiệp, các trường  học đều thành lập uỷ ban khởi nghĩa.Các huyện, xã trong tỉnh đều chuẩn bị sẵn lực lượng và có  phương án tự giải phóng bằng lực lượng của địa phương. Ngày 27­3, Tỉnh uỷ Quảng Đà cử một  đồng chí uỷ viên thường vụ vào Thành phố trực tiếp chỉ đạo khởi nghĩa. 5 giờ 30 phút sáng 28­3, bộ đội pháo binh mở đầu cuộc tiến công giải phóng Đà Nẵng bằng đòn  tập kích hoả lực mãnh liệt vào các vị trí quân sự địch. Từ các hướng, các binh đoàn thọc sâu có  xe tăng dẫn đầu ào ạt tiến vào trung tâm Thành phố. Nhân dân dẫn đường cho bộ đội đánh  chiếm cầu Trịnh Minh Thế, ty cảnh sát, toà thị chính và nhiều mục tiêu khác... Hàng vạn người đổ  ra đường, chặn xe tăng địch, kêu gọi binh lính nguỵ hạ vũ khí, đầu hàng cách mạng. 11 giờ trưa  ngày 19­3, quần chúng và tự vệ vũ trang đã nổi dậy làm chủ tất cả các khu phố. Công nhân, viên  chức, học sinh cùng bộ đội chiếm lĩnh và bảo vệ bến cảng, sở hoả xa, nhà máy điện, nhà máy  nước, bệnh viện, trường học, truy quét tàn binh, kêu gọi binh sĩ ngụy đầu hàng. Nhiều xe ca, xe  lam chở dân di tản ra khỏi nội thành, khi gặp bộ đội ta đã quay trở lại, nhanh chóng đưa bộ đội  vào đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố. 15 giờ ngày 29­3­1975, Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng. Ngày 1­4­1975, quân và dân 3 tỉnh Bình  Định, Phú Yên, Khánh Hoà kết hợp tiến công với nổi dậy giải phóng toàn tỉnh. Ngày 2­4, quân ta  giải phóng Nha Trang. Ngày 3­4, giải phóng Cam Ranh và toàn tỉnh Khánh Hoà, Đà Lạt và toàn  tỉnh Lâm Đồng.
  13. Trong vòng một tháng, quân dân ta giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên và miền Trung Trung bộ  gồm 16 tỉnh với 8 triệu dân. Lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi tận gốc. 3. Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn Sự thất bại nặng nề và đổ vỡ nhanh chóng của ngụy quyền Sài Gòn trong tháng 3­1975 làm cho  đế quốc Mỹ vô cùng bối rối, nội bộ chia rẽ sâu sắc. Ngày 4­4, tướng Uâyen về Caliphoócnia báo  cáo với Tổng thống G.Pho: Tình hình miền Nam Việt Nam đang ở bên bờ thất bại hoàn toàn về  quân sự. Tổng thống Mỹ xin Quốc hội chấp thuận viện trợ vũ khí cho ngụy quyền Sài Gòn, song  nhiều nghị sĩ Mỹ cho rằng đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở miền  Nam Việt Nam. Chiến lược dùng quân ngụy Sài Gòn độc chiếm miền Nam của Mỹ ­ ngụy đến đây hoàn toàn thất  bại. Mỹ âm mưu trở lại Hiệp định Pari, "cải tổ chính phủ", hạ bệ Nguyễn Văn Thiệu, lập một chính  phủ Sài Gòn mới có khả năng nói chuyện với cách mạng, gửi công hàm cho Liên Xô, Trung Quốc  đề nghị họp lại Hội nghị quốc tế ở Giơnevơ bàn việc thực hiện ngừng bắn. Để có thêm lực lượng phòng thủ, ngụy quyền Sài Gòn cố sức thu thập tàn quân, điều chỉnh thế bố  trí lực lượng, lập tuyến phòng ngự từ xa ở Phan Rang nhằm ngăn chặn quân ta. Sau chiến thắng miền Trung, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31­3­1975 đánh giá: "Về chiến lược, về  lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và  diệt vong. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế của  ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển  nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn ­ Gia Định đã chín muồi". "Hiện  nay ta có đầy đủ lực lượng và khả năng để giành thắng lợi hoàn toàn trong một thời gian ngắn  hơn dự kiến rất nhiều". Bộ Chính trị nhấn mạnh: Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần nắm vững thời cơ chiến lược hơn  nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng  khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4­1975, không thể để chậm. Bộ Chính  trị chỉ rõ bất ngờ hiện nay không còn ở phương hướng lớn nữa mà chủ yếu là ở khâu thời gian. Bộ  Chính trị quyết định một số mặt công tác lớn cấp bách sau đây: Một là, khẩn trương điều động lực lượng dự bị, bao vây, cô lập Sài Gòn từ các hướng. Chuẩn bị  sẵn những binh đoàn mạnh để khi có thời cơ sẽ đánh thọc sâu vào trung tâm thành phố, chiếm  những mục tiêu quan trọng nhất. Hai là, phát triển tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu  Long. Ba là, giải phóng các đảo trong hải phận của Tổ quốc.
  14. Bốn là, thành lập Đảng uỷ và Bộ tư lệnh mặt trận Sài Gòn. Năm là, động viên lực lượng cả nước đáp ứng mọi yêu cầu của chiến trường trọng điểm. Quyết tâm chiến lược, tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo của Đảng được quán triệt đến toàn dân,  toàn quân. Năm quân đoàn binh chủng hợp thành cùng nhiều đơn vị công binh, pháo binh, phòng  không, xe tăng, đặc công ào ạt tiến quân về chiến trường trọng điểm, sào huyệt cuối cùng của Mỹ  ­ ngụy. Các đơn vị vừa đi vừa đánh địch, vừa mở đường, bắc cầu. Cả dân tộc lên đường, cả nước  ra trận. Để đảm bảo cuộc tổng tiến công giành được thắng lợi thật chắc chắn cho đến khi toàn thắng. Bộ  Chính trị và Quân uỷ Trung ương chủ trương tập trung đầy đủ các binh đoàn chủ lực và đẩy mạnh  hoạt động trên các chiến trường. Ngày 8­4­1975, phi công Nguyễn Thành Trung ném bom xuống Dinh Độc Lập, làm cho ngụy  quân Sài Gòn thêm hoảng hốt. Ngày 16­4, cánh quân Duyên hải của ta đập tan tuyến phòng thủ  Phan Rang của địch, bắt sống hai tướng ngụy và đại tá cố vấn Mỹ, giải phóng thị xã Phan Thiết,  toàn tỉnh Bình Thuận (ngày 18­4), thị xã Bình Tuy (ngày 19­4). Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, ngày 20­4, lực lượng còn lại của địch ở thị xã Xuân Lộc bỏ  chạy về Bà Rịa, bị bộ đội ta truy kích, diệt một bộ phận. Thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh  được giải phóng. Ngày 18­4, Tổng thống Mỹ G. Pho ra lệnh di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Các sĩ quan cao cấp  và nhân viên ngụy quyền Sài Gòn lo thu vén của cải, tìm cách đưa gia đình chạy trốn ra nước  ngoài. Ngày 20­4, G.Pho và Kitxinhgiơ chính thức thông báo cho đại sứ Matin biết chủ trương của Chính  phủ Mỹ là Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Ngày 21­4, Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền hình chỉ  trích Mỹ bỏ rơi đồng minh và tuyên bố từ chức. Ngày 23­4, Tổng thống Mỹ tuyên bố cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đã kết thúc đối với  Mỹ. Cùng ngày, Tổng thống ngụy quyền mới Trần Văn Hương cử đại diện đến sân bay Tân Sơn  Nhất xin gặp phái đoàn quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời. Bộ Chính trị nhận định: Đây là một âm mưu mới của Mỹ nhằm tìm cách trì hoãn cuộc tiến công  của ta vào Sài Gòn. Từ đầu tháng 3­1975, khi bước vào chuẩn bị trực tiếp cho kế hoạch giải phóng thành phố Sài Gòn  ­ Gia Định, Thành uỷ Sài Gòn ­ Gia Định đã điều động 1.700 cán bộ quân sự, chính trị vào các  quận nội thành và các xã vùng ven đô cùng với các cấp uỷ địa phương vận động tổ chức quần  chúng sẵn sàng nổi dậy, phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực. Ngày 14­4­1975, chiến dịch giải phóng Sài Gòn ­ Gia Định mang tênChiến dịch Hồ Chí Minh 
  15. được Bộ Chính trị phê chuẩn với 5 mục tiêu quan trọng nhất là: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham  mưu, Sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát. Bảy lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi quân và dân ta mở cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu  Thân năm 1968 được quán triệt sâu sắc đến từng chiến sĩ: 1­Ý chí phải thật kiên quyết; 2­ Kế  hoạch phải thật tỷ mỷ; 3­ Kiểm tra phải thật kỹ càng; 4­ Phối hợp phải thật ăn khớp; 5­ Chấp hành  phải thật chu đáo; 6­ Cán bộ phải thật gương mẫu; 7­ Bí mật phải giữ triệt để. 17 giờ ngày 26­4­1975, cuộc tổng công kích đánh chiếm thành phố Sài Gòn ­ Gia Định bắt đầu. Bộ đội pháo binh đã phát huy uy lực của các loại pháo tầm xa, bắn tập trung mãnh liệt vào sân  bay Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, kiềm chế và tiêu diệt các trận địa pháo binh địch. Bộ đội đặc công  "luồn sâu đánh hiểm", phối hợp với lực lượng biệt động thành phố đánh chiếm tất cả các cầu lớn  trên các con đường tiến vào Sài Gòn. Từ các hướng Đông, Đông Nam, Bắc, Tây Bắc và Tây  Nam, các binh đoàn thọc sâu có xe tăng dẫn đầu đập tan các khu vực phòng thủ vòng ngoài của  địch, nhiều trận đánh ác liệt diễn ra ở Nước Trong, Đồng Dù, Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hoà...  Phía Nam, quân ta cắt đứt đường số 4, các sư đoàn chủ lực ngụy bị tiêu diệt và tan rã, không kịp  rút lực lượng về nội thành. Ngày 26­4, do sức ép của Mỹ, Tổng thống ngụy Trần Văn Hương từ chức, Dương Văn Minh được  cử lên thay. Ngày 28­4, "phi đội quyết thắng" của không quân ta sử dụng máy bay A.37 vừa thu  được của địch ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Cùng ngày, thị xã Vũng Tàu và toàn tỉnh Bà Rịa  được giải phóng. Quân địch ở Sài Gòn không còn đường rút chạy ra biển. Đường số 4 xuống vùng  châu thổ Cửu Long đã bị cắt đứt. Quân ta áp sát, bao vây chặt Sài Gòn trên tất cả các hướng,  khống chế chặt đường bộ, đường thuỷ và đường không. Ngày 28­4, Tổng tham mưu trưởng quân  ngụy Cao Văn Viên, nguyên thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn cùng nhiều sĩ quan và nhân vật cao cấp  ngụy quyền tranh nhau lên máy bay lên thẳng của Mỹ để chạy ra nước ngoài. Sáng 29­4, quân ta mở đợt tiến công mới, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn các sư đoàn 5, 25, 18,  22, 7 của quân ngụy ở vùng ven thành phố. Nhiều viên tướng ngụy tự sát, bỏ chạy hoặc bị bắt  sống. Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, Dương Văn Minh cho người liên hệ với ta xin được  ngừng bắn và bàn giao chính quyền, nhưng bị ta bác bỏ. Sáng ngày 30­4­1975, quân ta đồng loạt  đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố. Quân đoàn 3 chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Quân  đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy. Đoàn 232 đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, Tổng nha  cảnh sát và Bộ tư lệnh hải quân ngụy. Quân đoàn 4 giải phóng thành phố Biên Hoà, cùng với  Quân đoàn 2 vượt qua cầu xa lộ tiến về Dinh Độc lập. 9 giờ 30 phút ngày 30­4, đài phát thanh Sài Gòn phát bản tuyên bố của Dương Văn Minh kêu gọi  quân ngụy đơn phương ngừng bắn và bàn giao chính quyền cho cách mạng. 10 giờ 10 phút, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Bộ tư lệnh và Đảng uỷ mặt trận  Sài Gòn "tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch". 10 giờ 45 phút, chiếc xe tăng của Quân  đoàn 2 húc đổ cánh cổng sắt của dinh Tổng thống ngụy quyền. Cán bộ, chiến sĩ ta tiến vào  phòng họp của Dinh Độc Lập bắt sống Dương Văn Minh cùng toàn bộ nội các ngụy quyền, buộc 
  16. Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng được cắm lên nóc Dinh Độc Lập. Thành phố Sài Gòn ­ Gia Định  hoàn toàn giải phóng. Cùng với nhân dân ta ở miền Nam, nhân dân cả nước reo mừng khi được tin Thành phố Sài Gòn ­  Gia Định được giải phóng. Nhân dân thành phố Hà Nội và các thành phố, thị xã, thị trấn miền Bắc  đổ ra đường, theo dõi tin chiến thắng từ các loa truyền thanh công cộng. Trong kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng bằng sông Cửu Long là một hướng chiến  lược quan trọng. Từ đầu tháng 3­1975, nhân dân và các lực lượng vũ trang ở đây đã đẩy mạnh  tiến công và nổi dậy, mở rộng vùng giải phóng, đưa lực lượng áp sát các đường giao thông, các  thị xã, thị trấn, kìm giữ các sư đoàn chủ lực ngụy, chia cắt Quân khu IV của địch với Sài Gòn, kìm  chân Quân đoàn 4 ngụy. Ngày 30­4, hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long được giải phóng. Một số tỉnh còn lại được  giải phóng vào ngày 1­5. Đồng thời với việc giải phóng các tỉnh, thành phố trong đất liền, Bộ Chính trị đã chỉ đạo từ rất sớm  việc giải phóng các đảo trong hải phận Tổ quốc. Từ Quảng Trị đến Hà Tiên, tất cả các đảo dọc  theo bờ biển đều được giải phóng cùng với các vùng đất của mình. Tại Côn Đảo, ngày 1­5­1975, những người tù được thả tự do tổ chức lực lượng vũ trang giải  phóng, tổ chức chính quyền tự quản và đánh chiếm các công sở của ngụy quyền, giải phóng toàn  bộ tù nhân, làm chủ toàn bộ Côn Đảo. Ngày 5­5, tàu hải quân ta ra đón 4.000 tù chính trị và tiếp  quản Côn Đảo. Ở đảo Phú Quốc, ngày 30­4, nhân dân phối hợp với lực lượng vũ trang giải phóng thị trấn Dương  Đông và toàn đảo. Ở các đảo thuộc vùng biển phía Nam, các Đảng bộ đã kịp thời lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ  trang nổi dậy, tiến công giành quyền làm chủ trong các ngày 30­4 và 1­5­1975. Ở Trường Sa, từ  ngày10­4 đến ngày 29­4­1975, quân ta đã giải phóng các đảo do quân ngụy Sài Gòn chiếm giữ. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng. Ngày 30­4­1975 trở thành ngày hội lớn của dân tộc Việt  Nam. Ngày 7­5­1975, hơn một triệu đồng bào Sài Gòn và các tỉnh lân cận đã tham dự cuộc mít  tinh lớn mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng và chào đón Uỷ ban quân quản Thành phố Sài  Gòn. Trải qua 50 ngày đêm chiến đấu thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, quân và dân ta đã tiêu  diệt và làm tan rã hoàn toàn lực lượng ngụy quân đông hơn 1 triệu tên, thu toàn bộ vũ khí, phương  tiện chiến tranh và căn cứ quân sự của Mỹ ­ ngụy, đập tan bộ máy ngụy quyền từ trung ương đến  cơ sở, xoá bỏ ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống 
  17. nhất nước nhà. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam  đã biến lời tiên đoán sáng suốt và điều mong ước thiết tha của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành sự  thật: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa,  song nhất định thắng lợi hoàn toàn". Đánh giá về thắng lợi này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tháng 12­1976 cho  rằng: Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu  nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu  tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi  vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc  tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Trải qua 21 năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới  quy mô lớn, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Âm mưu  của đế quốc Mỹ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và chia cắt lâu dài đất nước ta  đã bị đập tan. Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước kết thúc quá trình 30 năm chiến  tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa  đế quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở ra  bước ngoặt vĩ đại thiết lập quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ đất nước, đưa cả nước ta  quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản không thể tránh  khỏi của chủ nghĩa thực dân mới. Cũng như trước đây, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm  1945 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1954 đã chứng minh  với thế giới sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa thực dân cũ. Quân ngụy Sài Gòn ­ đội quân tay sai  mạnh nhất được Mỹ dồn sức lực, tiền của nuôi dưỡng và bảo vệ bị tiêu diệt đã làm cho các đồng  minh Mỹ ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh bắt đầu mất lòng tin vào khả năng của Mỹ. Niềm tin về  "tính bất khả chiến thắng" của đế quốc Mỹ đã bị lung lay. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã đẩy lùi và làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá  vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam Á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu  phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, làm lung lay vị trí chính trị của  Mỹ trên trường quốc tế, làm phá sản "thần tượng Mỹ" và tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ ­ tên đế quốc  hùng mạnh nhất và tên sen đầm quốc tế hung ác nhất. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, tăng thêm sức mạnh  và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng của thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi của  hàng triệu người dân trên trái đất đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ 
  18. nghĩa xã hội. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm của Hoa Kỳ, đây là thất bại lớn nhất. Đế quốc Mỹ bị suy yếu  nghiêm trọng về quân sự, chính trị, kinh tế và còn phải tiếp tục gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề  và lâu dài. Vết thương nhức nhối mà đế quốc Mỹ gọi là "hội chứng Việt Nam" đã dằn vặt giai cấp  thống trị và cả nhân dân Mỹ trong nhiều năm cho đến nay vẫn chưa lành. Chiến tranh Việt Nam  làm cho nhân dân Mỹ hiểu thêm những bệnh hoạn và mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản. Thời kỳ sau Việt Nam, đế quốc Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, chuyển sang chiến  lược "diễn biến hoà bình" gây đủ mọi sức ép nhằm phá hoại phong trào giải phóng dân tộc, phá  hoại Liên Xô, Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản quốc tế từ trong lòng các  phong trào và các nước đó. Tất cả những điều đó nói lên tầm quan trọng quốc tế và tính thời đại của cuộc kháng chiến chống  đế quốc Mỹ xâm lược mà cả loài người tiến bộ, những ai có lương tri đều thừa nhận, dù Nhà Trắng  và Lầu Năm Góc có tìm trăm phương nghìn kế để xoá bỏ cũng uổng công, dù năm tháng đã trôi  qua nhưng sự thật lịch sử vẫn là sự thật. Sau khi chiến tranh của Mỹ xâm lược Việt Nam thất bại, đã có hàng nghìn ấn phẩm của các nhà  quân sự, các nhà chính trị, các nhà nghiên cứu Mỹ viết về cuộc chiến tranh này. Các tác phẩm đó  đã nói lên ít nhiều sự thất bại, nhất là của các tổng thống và các tổng chỉ huy quân đội xâm lược  Mỹ. Nhưng chưa có ấn phẩm nào nói rõ thực chất cuộc chiến tranh này, càng chưa nói rõvì sao  đế quốc Mỹ thua, vì sao nhân dân Việt Nam thắng. Đối với Mỹ, đến nay câu hỏi ấy vẫn còn và đòi  hỏi được trả lời. Với cách nhìn nhận và vì lợi ích của họ, Mỹ khó có thể nhận ra những sự thật hiển  nhiên, mà nhân dân ta và cả loài người tiến bộ đều nhận thấy. Đó là:Cuộc chiến tranh xâm lược  của Mỹ là phi nghĩa, cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chính nghĩa, vì thế toàn thể dân tộc  Việt Nam đều tham gia kháng chiến. Nhân dân ta đánh xâm lược Mỹ trong điều kiện nhân dân ta  đã làm chủ đất nước trải qua Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.  Chế độ nhân dân làm chủ đất nước đã nâng cao lên trình độ mới truyền thống yêu nước, kiên  cường, bất khuất, cả nước chung lòng đánh giặc trong hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.  Toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ dựa trên nòng cốt quân đội nhân dân gan dạ, mưu trí, biết  sử dụng những vũ khí hiện đại. Toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ dựa vào hậu phương miền  Bắc hùng hậu và các hậu phương tại chỗ của từng chiến trường, được Liên Xô, Trung Quốc và  các nước xã hội chủ nghĩa chi viện, nhân loại tiến bộ đồng tình, có sự phối hợp chiến đấu của  nhân dân ba nước Đông Dương. Toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng  ta­ Đội quân tiên phong tôi luyện, giàu trí tuệ, đoàn kết nhất trí, gắn bó với nhân dân, có đường lối  kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Đó là những nhân tố thắng lợi cơ bản của Việt Nam mà Mỹ  không thể nào có được. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã để lại những bài học qúy giá trong  lịch sử giữ nước: Một là: Toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng nhằm 
  19. mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam. Hai là: Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh. Ba là: Lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp. Bốn là: Ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước Đông Dương và trên  thế giới. Năm là: Không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
nguon tai.lieu . vn