Xem mẫu

  1. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 TỔNG QUAN VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ HỮU HIỆU CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ OVERVIEW OF THE FACTORS AFFECTING THE EFFECTIVENESS OF INTERNAL AUDIT Nguyễn Thị Hồng Lam Trường Đại học Thương mại honglam@tmu.edu.vn TÓM TẮT Kiểm toán nội bộ (KTNB) là một công cụ quản lý thiết yếu để đạt được sự kiểm soát hiệu quả trong đơn vị. KTNB cũng là phương tiện quan trọng để thúc đẩy quản trị, nâng cao hiệu quả, hữu hiệu trong hoạt động, gia tăng thêm giá trị cho đơn vị. Vì thế, việc xem xét, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới sự hữu hiệu của KTNB có ý nghĩa quan trọng đối với việc thiết lập, vận hành KTNB trong đơn vị từ đó đạt được các mục tiêu của KTNB. Tuy nhiên hiện nay, số lượng nghiên cứu về sự hữu hiệu của KTNB và các yếu tố ảnh hưởng tới sự hữu hiệu của KTNB chưa nhiều. Bài viết này cung cấp một cái nhìn tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của KTNB thông qua việc tổng hợp và phân tích các nguồn dữ liệu từ các nghiên cứu tiền nhiệm để cung cấp hướng nghiên cứu trong tương lai. Nghiên cứu tổng quan sẽ cung cấp đánh giá toàn diện về nghiên cứu học thuật liên quan đến các yếu tố đã được nghiên cứu để giúp các nhà nghiên cứu khác có một nền tảng ý nghĩa và xem xét các yếu tố tác động cần được thử nghiệm thêm. Từ khóa: Sự hữu hiệu, KTNB, tính độc lập, năng lực, sự ủng hộ của nhà quản trị, ứng dụng CNTT, quy mô, ủy ban kiểm toán. ABSTRACT Internal audit (Internal Audit) is an essential management tool to achieve effective control within the company. Internal audit provides assurance on organization’s strategic procedures, risk management and control, and helporganization in meeting its strategic, operational, financial, and regulatory objectives. Therefore, reviewing and evaluating the factors affecting the effectiveness of internal audit are important for the establishment and operation of internal audit to achieve the internal audit objectives. There are relatively fewer number of studies focused on internal audit effectiveness, than the number of studieson the effectiveness of external audit. This article provides an overview of the factors affecting the effectiveness of internal audit by aggregating and analyzing data sources from previous studies to provide future research directions. The research overview will provide a comprehensive review of academic research pertaining to factors that have been researched to help other researchers have a meaningful background and considerations impact factors that need to be further tested. Keywords: Effectiveness, internal audit, the independence, competency, management’s support, IT, size, communications. 1. Giới thiệu “KTNB là một hoạt động đảm bảo và tư vấn khách quan, độc lập, được thiết kế để gia tăng giá trị và cải thiện hoạt động của một tổ chức. KTNB giúp tổ chức hoàn thành các mục tiêu của mình bằng cách đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống, nguyên tắc để đánh giá và nâng cao hiệu quả của các quy trình quản lý rủi ro, hoạt động kiểm soát và quản trị” (Viện KTNB- IIA, Bắc Mỹ, 2018). KTNB cung cấp sự đảm bảo về các thủ tục chiến lược, quản lý và kiểm soát rủi ro của tổ chức, và giúp tổ chức đạt được các mục tiêu chiến lược, hoạt động, tài chính. Các hoạt động KTNB được thực hiện trong các môi trường văn hóa và pháp lý khác nhau, trong các tổ chức có mục tiêu, quy mô, sự phức tạp và cấu trúc tổ chức khác nhau và bởi các bên nội bộ hoặc bên ngoài khác nhau. Trước đây, vai trò của KTNB chỉ tập trung vào ước tính tài chính và giám sát kiểm soát nội bộ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tầm quan trọng của KTNB đã được tăng lên đáng kể nhằm thực hiện quản lý rủi ro tốt hơn. Nguyên 1000
  2. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 nhân là do những thay đổi về công nghệ, chính trị, quy định và kinh tế xảy ra trong những thập kỷ qua, đã ảnh hưởng đáng kể đến các chức năng và hoạt động cơ bản của các công ty (Burnaby và Hass, 2011). Điều đó đã làm gia tăng rủi ro kinh doanh, bất ổn kinh tế và gia tăng các vụ bê bối gian lận tài chính đã buộc các công ty phải sử dụng KTNB (Bekiaris và cộng sự, 2013; Vinary và Skaerbaek; 2014; Tsipouridou và Spathis, 2014; Gbadago, 2015). Các nghiên cứu trước đây đã sử dụng các phương pháp khác nhau để điều tra và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB (Arena và Azzone, 2009). Song, cho đến nay, không có sự đồng thuận nào về khuôn khổ phù hợp nhất cho sự hữu hiệu của hoạt động KTNB (Endaya và Hanefah, 2013). Trong những năm qua, đã có một số nghiên cứu chỉ ra các yếu tố liên quan đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB, chẳng hạn như: nghiên cứu Alzeban (2014) đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. Kết quả cho thấy, sự ủng hộ (hỗ trợ) của nhà quản lý đối với hoạt động KTNB, đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm và đủ năng lực và bộ phận KTNB độc lập ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. Drogalas George, Karagiorgos Theofanis và Arampatniz Konstantinos (2015) đã đo lường các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB trong môi trường kinh doanh của Hy Lạp, bao gồm sự độc lập của KTNB, sự ủng hộ (hỗ trợ) của nhà quản lý đối với KTNB, năng lực của KTVNB và chất lượng của KTNB. Họ tuyên bố rằng, sự độc lập của KTNB có ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động KTNB. Ngoài ra, bài viết này cũng giải thích quan điểm của các bên liên quan về sự hữu hiệu của hoạt động KTNB bằng các yếu tố như năng lực của KTVNB, quy mô của bộ phận KTNB, mối quan hệ giữa KTVNB và kiểm toán viên bên ngoài và, sự ủng hộ (hỗ trợ) của nhà quản lý đối với hoạt động KTNB. Các yếu tố này cũng được kiểm nghiệm dựa trên đánh giá của các nghiên cứu trước đây (Alzeban & Sawan, 2013; Soh & Bennie, 2011; Ahmad và cộng sự, 2009; Mihret & Yiamaw, 2007; Ali và cộng sự, 2007; Sarens & Beelde, 2006; Carcello và cộng sự, 2005; Brierley và cộng sự, 2001, 2003), cùng với việc nghiên cứu các chỉ dẫn trong chuẩn mực thực hành quốc tế về KTNB chuyên nghiệp (ISPPIA) do Viện KTNB công bố (IIA), các tài liệu và bằng chứng khác. Do đó, sự hữu hiệu của hoạt động KTNB là vấn đề tranh luận đáng quan tâm. Mục đích chính của bài viết này là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB trong đơn vị làm cơ sở cho việc đánh giá và đo lường các yếu tố đó trong những bối cảnh cụ thể, chẳng hạn tại các doanh nghiệp Việt Nam ở các nghiên cứu trong tương lai. Tổng quan nghiên cứu được chia làm hai phần chính: Phần 1: tổng quan về khái niệm sự hữu hiệu của kiểm toán nội bộ; phần 2: tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng tới sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1. Tổng quan về khái niệm “Sự hữu hiệu của kiểm toán nội bộ” Sự hữu hiệu của hoạt động KTNB (sự hữu hiệu của KTNB) là một khái niệm phức tạp ít được nghiên cứu trong tài liệu kế toán và kiểm toán. Theo Dittenhofer (2001), sự hữu hiệu của hoạt động KTNB là việc đạt được các mục tiêu của KTNB. Dựa trên định nghĩa chính thức của KTNB, mục tiêu cuối cùng của KTNB là tạo ra giá trị gia tăng cho tổ chức. Do đó, hoạt động KTNB có sự hữu hiệu khi nó thực sự góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho tổ chức (Mihret và cộng sự, 2007; Gros và cộng sự, 2016). Các nghiên cứu trước đây cho rằng hoạt động KTNB hữu hiệu nhằm mục đích tăng thêm giá trị cho tổ chức bằng cách giúp ban quản lý và ban giám đốc đơn vị đánh giá và nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và quy trình quản trị (Gramling và cộng sự, 2004; Yee và cộng sự, 2008). Al-Twaijry và cộng sự (2003) đã xác nhận rằng, hoạt động KTNB có thể mang lại giá trị gia tăng bằng cách giúp các tổ chức đạt được các mục tiêu kinh tế của mình thông qua việc thực hiện các khuyến nghị của KTNB. Ngoài ra, Tamosiuniene & Savcuk (2007) lập luận rằng hoạt động KTNB có thể cải thiện lợi thế cạnh tranh cho công ty bằng cách đảm bảo báo cáo tài chính chất lượng cao và cải thiện quy trình quản trị. Một số nghiên cứu khác lại cho rằng hoạt động KTNB góp phần tuân thủ luật pháp và quy định hiện hành của tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi cho công việc của KTV bên ngoài (Simunic, 1984; Wallace, 1984; Xiangdong, 1997), 1001
  3. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 phát hiện những điểm yếu trong thủ tục kinh doanh (Sawyer, 1995) và cung cấp đánh giá độc lập cho các hoạt động và thủ tục kinh doanh (Kinney, 2000; 2001). Tóm lại, sự hữu hiệu của hoạt động KTNB nhằm mục đích đạt được mục tiêu cuối cùng của nó, bao gồm việc tạo ra giá trị gia tăng và cải thiện hiệu suất của tổ chức. 2.2. Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng tới sự hữu hiệu của hoạt động kiểm toán nội bộ Bài viết đã tổng hợp các yếu tố dựa trên các nghiên cứu tiền nhiệm cùng với đánh giá của các tổ chức nghề nghiệp đáng tin cậy, đặc biệt là Viện kiểm toán nội bộ (IIA). Các tài liệu được đề cập cho thấy các yếu tố chính liên quan đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB: tính độc lập của KTNB; năng lực của kiểm toán viên nội bộ (KTVNB); sự ủng hộ (hỗ trợ) của nhà quản lý đối với hoạt động KTNB; việc ứng dụng CNTT trong hoạt động KTNB; qui mô của bộ phận KTNB; ủy ban kiểm toán. 2.2.1. Tính độc lập của kiểm toán nội bộ Trong những năm qua, các cơ quan chuyên môn và cơ quan ban hành chuẩn mực đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tính độc lập và tính khách quan của KTVNB đối với chất lượng KTNB mặc dù họ có thể là nhân viên trong tổ chức. Độc lập, có nghĩa là không có các đe dọa ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ của KTVNB một cách khách quan hay nói cách khác KTVNB được độc lập khi thực hiện các công việc của mình, không bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào như tình cảm hay kinh tế. Độc lập thường gắn liền với tính khách quan. Tính khách quan có nghĩa là không có bất kỳ sự thiên vị nào khi thực hiện hoạt động KTNB, điều này cho phép KTVNB thực hiện các kế hoạch nhằm đánh giá các bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến mà không bị ảnh hưởng bởi các cân nhắc, phán đoán cá nhân. Tính độc lập và tính khách quan của bộ phận KTNB được xác định là một thành phần chính của sự hữu hiệu của KTNB. Các chuẩn mực nghề nghiệp về KTNB cho thấy tính độc lập và khách quan có thể đạt được thông qua việc thực hiện báo cáo qua các cấp khác nhau: cung cấp dịch vụ cho ban quản lý, báo cáo cho Ủy ban kiểm toán và cuối cùng chịu trách nhiệm trước Giám đốc điều hành hoặc Hội đồng quản trị về việc đạt được các mục tiêu và sử dụng các nguồn lực của mình. Điều này cho phép KTVNB thực hiện trách nhiệm của mình một cách tự do mà không có sự can thiệp của các bên khác; cho phép bộ phận KTNB tránh mọi xung đột lợi ích, duy trì liên lạc trực tiếp với ban giám đốc và quản lý cấp cao; có quyền truy cập không giới hạn vào hoạt động của các nhân viên và bộ phận; có quyền thay đổi người đứng đầu bộ phận KTNB mà không cần sự can thiệp trực tiếp của quản lý điều hành, và cuối cùng tránh thực hiện các hoạt động phi kiểm toán… Tính độc lập là yếu tố chính đánh giá sự hữu hiệu của hoạt động KTNB (Mutchler. 2003; Zhang và cộng sự 2007; Ahmad và cộng sự 2009; Al-Akra và cộng sự 2016). ISPPIA (Chuẩn mực 1100) yêu cầu bộ phận KTNB phải độc lập trong việc thực hiện công việc để tăng thêm giá trị cho tổ chức. Một số nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, tính độc lập và tính khách quan của bộ phận KTNB càng lớn thì sự hữu hiệu của hoạt động KTNB càng cao. Cohen và Sayag (2010) cũng cho rằng, sự độc lập của KTNB ảnh hưởng đến sự hữu hiệu hoạt động KTNB. Một cuộc khảo sát được thực hiện bởi Alizadeh (2011) đã chỉ ra rằng sự độc lập về tổ chức của KTNB là một trong năm yếu tố quan trọng về sự hữu hiệu của hoạt động KTNB trong các công ty Iran. Khi đánh giá sự hữu hiệu của hoạt động KTNB ở Ả Rập Saudi, Alzeban và Gwilliam (2014) cho rằng, tính độc lập của KTNB (cùng với năng lực của KTVNB, qui mô của bộ phận KTNB, mối quan hệ giữa KTVNB và bên ngoài, sự ủng hộ (hỗ trợ) của nhà quản lý đối với KTNB) có mối quan hệ tích cực với sự hữu hiệu hoạt động KTNB. Tuy nhiên, điều đáng nói là trong nghiên cứu trên, tính độc lập của KTNB có liên quan tích cực với sự hữu hiệu hoạt động KTNB nhưng ở mức độ thấp hơn bốn yếu tố còn lại. Các nghiên cứu khác lại cho thấy sự thiếu độc lập là một trở ngại lớn cho sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. Một nghiên cứu của Brierley và cộng sự (2001) cho thấy, các KTVNB cần báo cáo lên cấp cao nhất của tổ chức để đảm bảo rằng các hoạt động khắc phục theo các khuyến nghị của KTNB sẽ được thực hiện, từ đó nâng cao sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. Nghiên cứu của Ahmad và cộng sự (2009), 1002
  4. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 tập trung vào sự thiếu độc lập trong thực hành KTNB từ đó gia tăng mối lo ngại về việc nếu KTNB thiếu độc lập có thể ảnh hưởng đến sức mạnh của bộ phận KTNB như thế nào. Không có sự độc lập, KTNB đơn giản trở thành một một phần của đội ngũ quản lý, mất khả năng cung cấp các ý kiến tư vấn hoặc cung cấp dịch vụ đảm bảo một cách chính xác, khách quan (Yee và cộng sự, 2008). 2.2.2. Năng lực của kiểm toán viên nội bộ KTVNB phải có kiến thức, kỹ năng phù hợp và các năng lực cần thiết khác để thực hiện công việc của họ một cách hiệu quả. KTVNB phải có đủ kiến thức cần thiết để xác định các dấu hiệu và đánh giá rủi ro hoặc gian lận, mặc dù họ có thể không được kỳ vọng có đủ sự khéo léo và thành thạo như những người chịu trách nhiệm phát hiện gian lận. Nếu KTVNB thiếu kiến thức, kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả hoặc một phần dịch vụ đảm bảo của họ, trưởng bộ phận KTNB nên sử dụng các chuyên gia tư vấn có năng lực và có thẩm quyền để bù đắp cho những thiếu sót đó của bộ phận. Năng lực của KTVNB là chìa khóa quan trọng đối với sự hữu hiệu của hoạt động KTNB (Al-Twaijry và cộng sự, 2003; Van Gansberghe, 2005; Cohen và Sayag, 2010; Alzeban & Gwilliam, 2014). Các chuẩn mực thực hành KTNB (ISPPIA) nhấn mạnh tầm quan trọng của nhóm KTNB, những người có kiến thức, kỹ năng phù hợp và các năng lực cần thiết khác để thực hiện trách nhiệm của họ (ISPPIA, Chuẩn mực 1210). Ngoài ra, năng lực của KTVNB cũng được KTV bên ngoài coi là thước đo chính khi cân nhắc có nên phụ thuộc vào kết quả thực hiện của KTVNB hay không (Al Twaijry và cộng sự, 2004). Thật vậy, KTVNB phải được giáo dục, có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và được đào tạo phù hợp để có thể gia tăng giá trị và cải thiện hoạt động của tổ chức (Mihret & Woldeyohannis, 2008; Ali & Owais, 2013). Ngoài ra, KTVNB đòi hỏi phải có kỹ năng giao tiếp tốt, kỹ năng thuyết phục, hợp tác và tư duy phản biện để hoàn thành hiệu quả nhiệm vụ của họ (Fanning & Piercey, 2014). Phù hợp với ISPPIA, Mousa (2005) đã xem xét sự thành thạo và năng lực của KTVNB như là một yếu tố quan trọng của hoạt động KTNB. Turley và Zaman (2007), khi đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động KTNB, cho rằng sự trao đổi giữa các thành viên của nhóm kiểm toán có tác động tích cực đến kết quả của cuộc kiểm toán. Nhóm KTNB cũng được Arena và Azzone (2009) đề cập đến như một yếu tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của KTNB. Nhóm KTNB phải có năng lực để cho phép họ cung cấp các dịch vụ chất lượng cao. Bên cạnh đó, họ nên có chứng chỉ KTNB đủ điều kiện từ các cơ quan được thẩm quyền. Theo Mihret và cộng sự (2010), cả năng lực và đào tạo liên tục được coi là cần thiết để nâng cao sự hữu hiệu của KTNB. Các nghiên cứu khác cho thấy thiếu năng lực của KTVNB là một trở ngại đối với sự hữu hiệu của hoạt động KTNB ở một số quốc gia châu Phi (Onumah & Yao Krah, 2012; Walter & Guandaru, 2012). Ali và cộng sự (2007) và Ahmed và cộng sự (2009) khi nghiên cứu về tầm quan trọng của KTNB trong khu vực công của Malaysia đã chỉ ra việc không đáp ứng các điều kiện cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ cũng như tiếp tục tích lũy kiến thức, kỹ năng của KTVNB ảnh hưởng tiêu cực đến sự hữu hiệu hoạt động KTNB; họ đề xuất đào tạo như một nhu cầu thiết yếu để phát triển hoạt động KTNB tại Malaysia. Các nghiên cứu về bản chất của KTNB (Brierley và cộng sự, 2001, 2003) đã cho thấy chất lượng thấp của KTVNB là một yếu tố hạn chế hoạt động của bộ phận KTNB. Các nghiên cứu khác nhau đã ám chỉ chất lượng thấp của KTVNB là yếu tố làm sụp đổ bộ phận KTNB (Mihret & Yismaw, 2007); do đó nếu KTVNB thiếu trình độ giáo dục phù hợp nhưng được đào tạo chuyên nghiệp sẽ giúp họ tăng cường khả năng và năng lực làm việc. 2.2.3. Sự ủng hộ của nhà quản trị đối với hoạt động kiểm toán nội bộ Hỗ trợ và cam kết của nhà quản lý cũng đã được chứng minh là có tác động đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. Trên thực tế, sự hữu hiệu của KTNB phụ thuộc vào sự hỗ trợ được nhà quản lý thể hiện trong quá trình kiểm toán. Điều quan trọng là các nhà quản lý phải thừa nhận thực tế rằng KTNB là một hoạt động quan trọng như mọi hoạt động khác được thực hiện trong tổ chức. Hoạt động KTNB có thể thất bại với nguồn lực (tiền và thời gian) bị lãng phí nếu không có cam kết quản lý. 1003
  5. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 Do đó, sự ủng hộ (hỗ trợ) của nhà quản trị là rất quan trọng đối với sự chấp nhận và đánh giá tính sự hữu hiệu của KTNB trong một tổ chức. Có sự hỗ trợ của các nhà quản lý, các KTVNB có thể có nhiều nguồn lực hơn để thực hiện các nhiệm vụ, bộ phận KTNB có thể thuê nhân viên có năng lực, đào tạo họ và cuối cùng là cải thiện khả năng và hiệu quả làm việc của họ (Alzeban & Sawan, 2013). ISPPIA tuyên bố rằng các KTVNB cần được hỗ trợ từ ban lãnh đạo cao nhất và Ban giám đốc để thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành trách nhiệm của mình. Điều này sẽ giúp khẳng định vai trò và giá trị của KTNB trong toàn tổ chức. Sự ủng hộ này sẽ giúp trao quyền cho bộ phận KTNB để hoàn thành các cam kết và nghĩa vụ của mình. ISPPIA nhấn mạnh vào tầm quan trọng của sự tương ứng giữa KTVNB và nhà quản trị cấp cao cũng như cách thức quản trị nằm hỗ trợ KTNB. Bộ phận KTNB cần đưa ra các báo cáo đầy đủ và đáng tin cậy về các công việc đã hoàn thành, kết luận và đề xuất cho các cấp lãnh đạo. Ở các quốc gia thực hiện hoạt động KTNB, người đứng đầu văn phòng kiểm toán phải liên tục cung cấp cho ban quản trị và ban kiểm toán cấp cao các báo cáo về mục tiêu, độ tin cậy và hoạt động liên quan (ISPPIA, Chuẩn mực 2060). Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra sự ủng hộ từ nhà quản trị các cấp là yếu tố cơ bản để hoạt động KTNB hữu hiệu (Mihret và Yismaw, 2007; Cohen và Sayag, 2010). Van Gansberghe (2005) đã chỉ ra rằng để đảm bảo sự hữu hiệu, bộ phận KTNB cần được sự đồng thuận của nhà quản lý và đánh giá cao sự tham gia và các giá trị mà KTNB có thể bổ sung cho tổ chức của họ. Ahmad và cộng sự (2009) nhận thấy rằng, sau năng lực của KTVNB, sự ủng hộ (hỗ trợ) của nhà quản lý là yếu tố quyết định quan trọng thứ hai tới tính sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. Họ đã chỉ ra rằng với sự hỗ trợ của ban quản lý, các khuyến nghị của KTNB có thể sẽ được thực hiện và bộ phận KTNB được hỗ trợ tốt về số lượng nhân viên và ngân sách tài chính cần thiết. Cohen & Sayag (2010) phát hiện ra rằng sự ủng hộ của nhà quản trị có liên quan mạnh mẽ đến ba khía cạnh của sự hữu hiệu kiểm toán (chất lượng kiểm toán, đánh giá của đơn vị được kiểm toán và giá trị đóng góp của KTNB) trong các tổ chức của Israel. Alzeban & Gwilliam (2014) nhận thấy rằng, sự ủng hộ của nhà quản trị là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của KTNB trong các tổ chức khu vực công của Ả Rập Saudi. Họ lưu ý rằng, sự hữu hiệu của KTNB sẽ được tăng cường bằng cách thuê nhân viên được đào tạo và có kinh nghiệm và cung cấp đủ nguồn lực cần thiết. Mihret và Yiisma (2007) đã chỉ ra rằng, việc thiếu sự hỗ trợ của ban quản lý sẽ tạo ra thái độ yếu kém đối với KTNB, từ đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của bộ phận KTNB, bởi vì nó không được quản lý cấp cao coi là ưu tiên cao. Sự hỗ trợ của nhà quản lý cũng có thể bị giảm nếu quản lý không thực hiện các khuyến nghị KTNB. Sự thờ ơ như vậy có thể làm giảm sự hữu hiệu của KTNB ở một mức độ nào đó (Van Gansberghe, 2005). 2.2.4. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán nội bộ Trong thế kỷ này, công nghệ có sự phát triển nhanh chóng. Tương lại, càng ngày các đơn vị sẽ càng sử dụng nhiều công nghệ hơn bây giờ để quản lý và thực hiện công việc kiểm toán. Chẳng hạn, Krishna và cộng sự (2011) nhận thấy rằng, “việc sử dụng hiệu quả các công cụ công nghệ trong kiểm toán rất quan trọng đối với sự thành công của hoạt động kiểm toán”, điều này chắc chắn sẽ cải thiện chất lượng hoạt động KTNB và cuối cùng ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của KTNB. Trong đó, sự sẵn có về công nghệ có thể bao gồm cả nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng CNTT (Ahmi và Kent, 2013). Các hệ thống CNTT mới cho phép KTNB cung cấp cho ban quản lý nhiều thông tin phù hợp hơn với chi phí thấp hơn và không bị trì hoãn thông qua các quy trình tự động, cơ sở thời gian thực và KTNB tích hợp (Shin và cộng sự, 2013; Sobel and Kapoor, 2012). Do đó, CNTT chắc chắn sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB. 2.2.5. Quy mô của bộ phận kiểm toán nội bộ Để thực hiện công việc đúng trách nhiệm, bộ phận KTNB cần được trang bị đủ nguồn lực. ISPPIA đã đề cập trong các chuẩn mực quản lý nguồn lực rằng cần có người quản lý điều hành hoạt động KTNB để đảm bảo rằng nguồn lực phục vụ cho KTNB là phù hợp và đầy đủ, và được sử dụng một cách hiệu quả. Một trong những trách nhiệm của ủy ban kiểm toán là thông báo cho ban quản lý cấp cao về bất kỳ 1004
  6. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 sự thiếu hụt tài nguyên nào dành cho KTNB (ISPPIA, chuẩn mực 1409 và 1609). Theo đó, cần có đủ số lượng KTVNB và cần tiếp tục đào tạo liên tục để đảm bảo năng lực chuyên môn của KTVNB. Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khi có đủ số lượng nhân viên, chất lượng KTNB có thể sẽ tăng lên. Ali và cộng sự (2007) đã tuyên bố rằng vấn đề lớn nhất đối với KTNB là đối phó với việc thiếu nhân viên có năng lực. Một nghiên cứu khác của Ahmed và cộng sự (2009) đã báo cáo rằng, theo những người được hỏi, “sự thiếu hụt KTVNB” là lý do chính hạn chế sự thành công của hoạt động KTNB ở các tổ chức chính phủ Malaysia. Họ đề nghị rằng, với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ nhà quản lý, bộ phận KTNB nên có quyền được cung cấp đủ nguồn nhân lực và các nguồn lực cần thiết khác để cho phép nhân viên hoàn thành nhiệm vụ của họ. Các nghiên cứu khác cho thấy có mối quan hệ giữa sự đầy đủ về số lượng KTVNB và khả năng bộ phận KTNB hoàn thành trách nhiệm của mình (Mihret & Woldeyohannis, 2008; Brierley và cộng sự, 2001, 2003), do đó nếu bộ phận KTNB bị thiếu trầm trọng KTV sẽ hạn chế khả năng thực hiện các nhiệm vụ của bộ phận KTNB. 2.2.6. Mối quan hệ giữa KTVNB và kiểm toán viên độc lập Kiểm toán viên nội bộ và kiểm toán viên độc lập có một mối quan hệ nghề nghiệp tốt là rất quan trọng. Việc phối hợp và hợp tác giữa KTVNB và KTVĐL có ảnh hưởng rất lớn trong việc lập một báo cáo kiểm toán chất lượng. Việc phối hợp và hợp tác có thể bao gồm việc lập kế hoạch, trao đổi thông tin, ý kiến và các báo cáo để tránh trùng lặp công việc không cần thiết và tạo điều kiện nâng cao tính hữu hiệu cho các cuộc kiểm toán (Ali & cộng sự, 2007). Các chuẩn mực nghề nghiệp đã đánh giá các kết nối giữa KTVNB và kiểm toán viên bên ngoài. ISPPIA quy định cả hai bên kiểm toán nên thiết lập một mối quan hệ làm việc chuyên nghiệp, chia sẻ thông tin và phối hợp hoạt động kiểm toán, từ đó giúp KTVNB trong việc đạt được mục tiêu của họ và giúp KTVĐL cung cấp dịch vụ tốt hơn cho công ty (ISPPIA, 2050). Từ quan điểm của KTVĐL, dữ liệu được thu thập bởi các KTVNB có thể sẽ giúp tạo ra một ý kiến kiểm toán đảm bảo và nâng cao chất lượng trong việc phát hành ý kiến kiểm toán. Một số nghiên cứu học thuật chỉ ra rằng, sự hợp tác thích hợp sẽ làm tăng tính kinh tế và hữu hiệu của cuộc kiểm toán và giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định quản trị có chất lượng hơn. Ali & cộng sự (2007), cho biết hơn 80% của đơn vị KTNB có mối quan hệ làm việc với KTVĐL và hơn một nửa trong số các KTVNB từ các đơn vị kiểm toán cho biết rằng họ có mối quan hệ chặt chẽ với các KTVĐL. Mối quan hệ xấu giữa kiểm toán viên bên trong và độc lập là một thành phần làm ảnh hưởng đến tính chất của cuộc kiểm toán. Điều này đã được chứng minh bởi Brierley và cộng sự. (2001) và Almohaimeed (2000). 3. Kết luận KTNB cung cấp các khuyến nghị dựa trên phân tích và đánh giá dữ liệu kinh doanh và quy trình kinh doanh của đơn vị nhằm thúc đẩy sự hữu hiệu và hiệu quả của đơn vị đó. KTNB với cam kết về tính toàn vẹn và trách nhiệm như một nguồn tư vấn độc lập tạo ra giá trị cho các nhà quản lý cấp cao của các đơn vị. Bởi vậy nếu hoạt động KTNB kém sự hữu hiệu sẽ gây lãng phí các nguồn lực phục vụ cho hoạt động KTNB, làm giảm chất lượng hoạt động KTNB từ đó làm mất lòng tin của nhà quản trị doanh nghiệp. Bài viết đã tập trung vào việc tổng hợp và chỉ ra các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hoạt động KTNB trên phương diện lý thuyết. Tuy nhiên, điểm hạn chế của bài viết đó là chưa đánh giá được tác động cụ thể của các yếu tố này tới sự hữu hiệu của hoạt động KTNB trên thực tiễn, cụ thể là trong bối cảnh các đơn vị ở Việt Nam có áp dụng hoạt động KTNB. Trong tương lai, các tác giả sẽ mở rộng mục tiêu, phạm vi nghiên cứu và áp dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp để có những kết quả đánh giá chính xác hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Aaron Cohen & Gabriel Sayag (2010), “The Effectiveness of Internal Auditing: An Empirical Examination of its Determinants in Israeli Organisations”, Australian Accounting Review, 20, (3) 296-307. [2] Ahmad, H., Othman, R., & Jusoff, K. (2009), The effectiveness of internal audit in Malaysian public sector, Journal of Modern Accounting and Auditing, 5(9), 53-62. 1005
  7. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 [3] Ahmi, A. & Kent, S. (2013), The utilisation of generalized audit software (GAS) by external auditors, Managerial Auditing Journal, 28(2), 88-113. [4] Al-Akra, M., Abdel-Qader, W., & Billah, M. (2016), Internal auditing in the Middle East and North Africa: A literature review, Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, 26, 13-27. [5] Ali, A., Gloeck, J., Ali, A., Ahmi, A., & Sahdan, M. (2007), Internal audit in the state and local governments of Malaysia, Southern African Journal of Accountability and Auditing Research, 7, 25-57. [6] Ali, O.A., & Owais, W.O. (2013), Internal Auditors’ Intellectual (Knowledge) Dimension in Creating Value for Companies Empirical Study of Jordanian Industrial Public Shareholding Companies, International Business Research, 6(1), 118-129. [7] Alizadeh, N. (2011), The Criteria of Implementing and Employing the Effectiveness of Internal Auditing, Australian Journal of Basic and Applied Sciences, 5(12), 955-962. [8] Al-Twaijry, A. A. M., Brierley, J. A., & Gwilliam, D. R. (2003), The development of internal audit in Saudi Arabia: an institutional theory perspective, Critical Perspective on Accounting, 14(5), 507-531. [9] Alzeban, A., & Sawan, N. (2013), The role of internal audit function in the public sector context in Saudi Arabia, African Journal of Business Management, 7(6), 443-454. [10] Alzeban A, Gwilliam D. (2014), Factors affecting the internal audit effectiveness: A survey of the Saudi public sector, J. Int. Account. Audit.Taxat. 23:74-86. [11] Almohaimeed, A. (2000), Performance auditing in the Saudi public sector: Its nature and effectiveness (Ph.D. thesis), UK: University of Kent at Canterbury [12] Arena M, Azzone G (2009), Identifying Organizational Drivers of Internal Audit Effectiveness, Int. J. Audit.13:43-60. [13] Bekiaris M, Efthymiou T, Koutoupis A (2013), Economic crisis impact on corporate governance & Internal Audit: The case of Greece, Corporate Ownership, Control 11(1):55-64. [14] Brierley, J., El-Nafabi, H., & Gwilliam, D. (2001), The problems of establishing internal audit in the Sudanese public sector, International of Journal Auditing, 5(1), 73-87. [15] Brierley, J., El-Nafabi, H., & Gwilliam, D. (2003), An examination of internal audit in the Sudanese public sector, Accounting in Emerging Economies, 5, 177-195. [16] Burnaby P, Hass S (2011), "Internal auditing in the Americas", Managerial Auditing Journal, 26(8):734-756. [17] Carcello, J., Hermanson, D., & Raghunandan, K. (2005), Changes in internal auditing during the time of the major US accounting scandals, International Journal of Auditing, 9(2), 117-127. [18] Cohen, A., & Sayag, G. (2010), The effectiveness of internal auditing: an empirical examination of itsdeterminants in Israeli organizations, Australian Accounting Review, 20(3), 296-307. [19] Drogalas, G., Karagiorgos, T., & Arampatzis, K. (2015), Factors associated with Internal Audit Effectiveness: Evidence from Greece, Journal of Accounting and Taxation, 7(7), 113-122. [20] Dittenhofer, M. (2001), Internal audit effectiveness: an expansion of present methods, Managerial Auditing Journal, 16(8), 443-450. [21] Endaya AK, Hanefah MM (2013), Internal audit effectiveness: an approach proposition to develop the theoretical framework, Res. J. Financ. Account, 4(10):92-103. [22] Fanning, K., & Piercey, D. (2014), Internal auditors’ use of interpersonal likability, arguments, and accounting information in a corporate governance setting, Accounting, Organizations and Society, 39, 575-589. [23] Gbadago FY (2015), Audit expectation gap and MBA accounting students’ knowwledge on auditor(s)’ responsibilities: Evidence from a public university in Kumasi Ashanti Region of Ghana, J. Account. Taxat, 7(4):53-61. 1006
  8. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 [24] Gramling, A., Maletta, A., Schneider, A., & Church, B. (2004), The role of the internal audit function in corporate governance: A synthesis of the extant internal auditing literature and directions for future research, Journal of Accounting Literature, 23, 194-244. [25] Gros, M., Koch, S., & Wallek, C. (2016), Internal audit function quality and financial reporting: results of a survey on German listed companies, Journal of Management and Governance. [26] Kinney W (2000), Research opportunities in internal control quality and quality assurance, Auditing, 19:83-90. [27] Kinney W (2001), Accounting scholarship: what is uniquely ours?, Account. Rev.76:275-284. [28] Krishna Moorthy, Zulkifflee Mohamed & A. Seetharaman (2011), The Impact of Information Technology on Internal Auditing, African Journal of Business Management, Vol. 5(9), pp. 3523-353. [29] Mihret DG, Yismaw AW (2007), Internal audit effectiveness: an Ethiopian public sector case, Managerial Auditing Journal, 22(5):470-484. [30] Mihret, D.G., & Woldeyohannis, G.Z. (2008), Value-added role of internal audit: an Ethiopian case study, Managerial Auditing Journal, 23(6), 567-595. [31] Mihret, D. G., James, K., & Mula, J. M. (2010), Antecedents and organizational performance implications of internal audit effectiveness: some propositions and research agenda, Pacific Accounting Review, 22(3), 224-252. [32] Mousa FR (2005), “Developing a Model for Evaluating the Effectiveness of the Internal Audit Function in Libyan Organizations: Case Study with Special Reference to Oil Companies”, Ph.D. Thesis. [33] Mutchler, J.F. (2003), Independence and Objectivity: A Framework for Research Opportunities in InternalAuditing, The Institute of Internal Auditors, Altamonte Springs, FL. [34] Onumah, J.M., & Yao Krah, R. (2012), Barriers and catalysts to effective internal audit in the Ghanaian public sector, Research in Accounting in Emerging Economies, 12, 177-207. [35] Sarens G, De Beelde I (2006). Internal auditors’ perception about their role in risk management: a comparison between US and Belgian companies, Managerial Auditing Journal, 21(1):63-80. [36] Sawyer LB (1995), An internal audit philosophy, Internal Auditor: 46-55. [37] Simunic DA (1984), Auditing, consulting and auditor interdependence, Journal of Accounting Research, 22: 679-702. [38] Shin, I., Lee, M. and Park, W. (2013), “Implementation of the continuous auditing system in the ERPbased environment”, Managerial Auditing Journal, Emerald Group Publishing Limited, Vol. 28 No. 7, pp. 592–627. [39] Soh, D.S., & Bennie, N.M. (2011), The internal audit function: Perceptions of internal audit roles, effectiveness, and evaluation, Managerial Auditing Journal, 26(7), 605-622. [40] Sobel, P. and Kapoor, G. (2012), “Step Up to the Plate”, Internal Auditor, Vol. 69 No. 2, pp. 41-44. [41] Tamosiuniene, R., & Savcuk, O. (2007), Internal Audit Subordination Principles for Lithuanian Companies, Engineering Economics, 5 (55), 37-43. [42] Tsipouridou M., Spathis C. (2014), Audit opinion and earnings management: Evidence from Greece, Account. Forum, 38(1):38-54. [43] The Institute of Internal Auditors, North America, 2018, https://na.theiia.org/Pages/IIA Home.aspx [44] The international institution for internal audit (2016), the international standards for the Professional Practice of Internal Auditing (ISPPIA). 1007
  9. INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2019 ICYREB 2019 [45] Turley S, Zaman M (2007). Audit Committee effectiveness: Informal processes and behavioral aspects, Accounting, Audit. Accountability J. 20(5):1-30. [46] Van Gansberghe, C. (2005), Internal Auditing in the Public Sector: a consultative forum in Nairobi, Kenya, shores up best practices for government audit professionals in developing nations, Internal Auditor, 62(4), 69-73. [47] Vinary E, Skaerbaek P (2014), The uncertainties of risk management, Accounting, Audit. Accountability J, 27(3):489-526 [48] Wallace WA (1984), Internal auditors can cut outside CPA costs, Harvard Bus. Rev, 62:16-20. [49] Walter, O.B., & Guandaru, K.C. (2012), A study to explore internal auditors’ compliance with Quality Assurance Standards: A case of state owned corporations in Kenya, International Journal of Research Studies in Management, 1(1), 109-126. [50] Xiandong W (1997), Development trends and future prospects of internal auditing, Manag. Audit. J, 12(4):200-204. [51] Yee, C.S., Sujan, A., James, K., & Leung, J.K. (2008), The perception of the Singaporean internal audit customers regarding the role and effectiveness of internal audit, Asian Journal of Business and Accounting, 1(2), 147-174. [52] Zhang Y, Zhou J, Zhou N (2007), Audit committee quality, auditor independence and internal control weaknesses, J. Account. Pub. Policy, 26(3):300-327. 1008
nguon tai.lieu . vn