Xem mẫu
- Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận- đề
xuất hướng nghiên cứu cho Việt Nam
Đào Nam Giang - Nguyễn Thị Khánh Phương
Khoa Kế toán Kiểm toán, Học viện Ngân hàng
tiếp theo kỳ trước
4. Kết luận, khoảng trống và định hướng đề gây tranh cãi giữa các nghiên cứu trước
nghiên cứu trên thế giới. Đây có thể là một trong các
nguyên nhân khiến cho việc phân tích các
4.1. Khoảng trống nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến mức độ thao túng
lợi nhuận của các công ty niêm yết ở Việt
Để hiểu rõ hơn về mức độ thao túng lợi nhuận Nam hầu như không đạt được một kết quả
của các công ty niêm yết ở Việt Nam, bài viết thống nhất nào trong các nghiên cứu trước.
đã xác định một số khoảng trống nghiên cứu Chính vì vậy, việc kết hợp một số mô hình
có thể khai thác như sau: để đo lường biến kế toán dồn tích đồng thời
Thứ nhất, việc đo lường chất lượng biến kế kết hợp giữa cách tiếp cận đo lường khoản
toán dồn tích, từ đó xác định khoản dồn tích dồn tích bất thường với các cách tiếp cận
bất thường là một thước đo về mức độ thao sẽ giúp có cái nhìn khách quan hơn về thao
túng lợi nhuận. Tuy nhiên khoản dồn tích túng lợi nhuận.
bất thường này thường được sử dụng như Thứ ba, hướng tiếp cận nghiên cứu về
một công cụ để đánh giá tác động của các thao túng số liệu để đạt được các mục tiêu
nhân tố khác nhau đến mức độ thao túng, (tránh báo cáo lỗ, tránh sự sụt giảm của lợi
vì đến nay chưa có tiêu chuẩn khoản dồn nhuận) hay thao túng để ổn định dòng lợi
tích bất thường bao nhiêu là cao, bao nhiêu nhuận báo cáo chưa được quan tâm nhiều
là thấp. Do đó, với những nghiên cứu đã có trong các nghiên cứu trước ở Việt Nam.
vẫn chưa có câu trả lời cho câu hỏi mức độ Việc khai thác và phát triển sâu hơn hướng
thao túng lợi nhuận của các công ty niêm nghiên cứu này sẽ giúp xác định được các
yết Việt Nam là cao hay thấp. hiện tượng hay mục tiêu thao túng phổ biến
Thứ hai, khi sử dụng biến kế toán dồn tích trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
bất thường để đánh giá tác động của các Điều này cũng giúp nhà đầu tư và các bên
nhân tố khác nhau đến mức độ thao túng lợi sử dụng thông tin dễ dàng hơn trong việc
nhuận, điều rất quan trọng là mô hình phân nhận diện rủi ro thông tin công bố đã bị
tích biến kế toán dồn tích có thực sự phù thao túng. Nó cũng giúp các nhà làm chính
hợp với các công ty Việt Nam. Bản thân sách có thể có định hướng cụ thể hơn trong
hiệu quả các mô hình này cũng là một vấn việc ra các chính sách hạn chế thao túng lợi
© Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 55 Số 241- Tháng 6. 2022
- Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận- đề xuất hướng nghiên cứu cho Việt Nam
nhuận (nên hướng vào các mục tiêu này) và các kết luận rút ra từ phân tích các đặc điểm
trong việc thanh tra giám sát để phát hiện dữ liệu số lớn bằng các phương pháp thống
những sai sót gian lận. kê kể trên.
Thứ tư, về các nhân tố ảnh hưởng đến mức
độ thao túng lợi nhuận, các nghiên cứu 4.3. Kết luận
trước ở Việt Nam đã khai thác và phân tích
rất nhiều các nhân tố cụ thể, tập trung vào Thao túng lợi nhuận là một mảng đề tài rất
vai trò của kiểm toán độc lập, đặc điểm sở lớn, có thể được tiếp cận từ khía cạnh thực
hữu và đặc điểm của HĐQT, nhưng kết tiễn hành nghề (các thủ thuật, các dấu hiệu
quả ở hầu hết các nhân tố đều không thống nhận biết…) hoặc có thể được tiếp cận từ
nhất. Nguyên nhân có thể là do thước đo góc độ học thuật (các mô hình tìm kiếm
thao túng lợi nhuận sử dụng khác nhau, bằng chứng với số lớn các quan sát). Bản
mẫu nghiên cứu, thời gian nghiên cứu, thân lợi nhuận thực của doanh nghiệp thì
phương pháp xử lý số liệu khác nhau. Bên không ai có thể xác định một cách chính
cạnh đó, nhóm nghiên cứu nhận thấy một xác, do đó việc xem xét lợi nhuận báo
nguyên nhân quan trọng là các nhân tố trên cáo có bị thao túng không phần lớn được
có tác động qua lại lẫn nhau, và chỉ phát đánh giá một cách gián tiếp, từ nhiều góc
huy tác động hạn chế thao túng lợi nhuận độ khác nhau. Do đó, đã có rất nhiều các
khi toàn bộ khung pháp lý về kế toán kiểm mô hình và cách tiếp cận khác nhau để đo
toán- thuế- quản trị công ty đã tương đối lường mức độ thao túng lợi nhuận. Ngay tại
hoàn thiện, đồng thời chịu tác động từ môi Việt Nam, thao túng lợi nhuận trong thời
trường kinh doanh và văn hóa kinh doanh. gian vừa qua cũng là một chủ đề được rất
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm khai thác.
4.2. Định hướng nghiên cứu Do đó, bài viết này đã tổng hợp các nghiên
cứu thực chứng quan trọng trên thế giới và
Từ những phân tích trên, các nghiên cứu tiếp tổng hợp lại một số vấn đề nổi cộm, mức
theo sẽ được phát triển theo ba hướng chính: độ và cách thức giải quyết các vấn đề này
Thứ nhất, sử dụng phối kết hợp các cách trong các nghiên cứu đã công bố ở Việt
tiếp cận khác nhau để có nhìn đa chiều và Nam, cụ thể: tổng kết về việc vận dụng các
khách quan về thao túng lợi nhuận của các mô hình nghiên cứu về thao túng lợi nhuận
công ty niêm yết; hiểu rõ hơn về các mục trong các nghiên cứu trước ở Việt Nam, để
tiêu hay hiện tượng thao túng phổ biến. có cái nhìn đa chiều về thao túng lợi nhuận,
Thứ hai, so sánh kết quả phân tích của các về các nhân tố ảnh hưởng, các nghiên cứu
công ty niêm yết Việt Nam với các nước trước trên thế giới đề cập đến nhiều nhóm
trong khu vực để có thể đánh giá khách nhân tố, mà xét theo phạm vi từ rộng đến
quan về mức độ thao túng lợi nhuận kế toán hẹp sẽ gồm: (1) các đặc điểm của quốc gia
công bố. (thể chế, văn hóa, mức độ bảo vệ nhà đầu
Thứ ba, phân tích một số tình huống điển tư…); (2) các đặc điểm trong môi trường
hình có sai phạm hoặc có dấu hiệu cảnh hoạt động của đơn vị liên quan trực tiếp đến
báo về thao túng lợi nhuận, xem xét về hoạt động kế toán-kiểm toán, trong đó nổi
cách thức, mục tiêu và dấu hiệu thao túng bật là kiểm toán độc lập và quản trị công ty;
trong các trường hợp này. Việc phân tích (3) chế độ và chuẩn mực kế toán áp dụng. ■
này sẽ giúp hiểu rõ hơn về cách thức thao
túng trên thực tế và minh chứng rõ hơn cho
56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 241- Tháng 6. 2022
- ĐÀO NAM GIANG - NGUYỄN THỊ KHÁNH PHƯƠNG
Tài liệu tham khảo
Beatty, A. L., Ke, B., & Petroni, K. R. (2002). ‘Earnings management to avoid earnings declines across pubicily và
privately held banks’. The Accounting Review, 77(3), 547-570.
Chua, Y.L., Cheong, C.S. and Gould, G. (2012). ‘The Impact of Mandatory IFRS Adoption on Accounting
Quality: Evidence from Australia’. Journal of International Accounting Research, 11, 119-146.
http://dx.doi.org/10.2308/jiar-10212
Đào Nam Giang (2018), ‘Điều chỉnh số liệu kế toán nhằm tránh báo cáo lỗ và tránh sự sụt giảm của lợi nhuận báo
cáo- bằng chứng từ các ngân hàng thương mại Việt Nam’, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 193, 37-45.
Đào Nam Giang (2019), ‘Sự bền vững của lợi nhuận công bố bởi các NHTM Việt Nam- Bằng chứng thực nghiệm và một
số thảo luận’, Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 205.
Daniel Zeghal; Sonda M. Chtourou; Yosra M. Fourati (2012), ‘The Effect of Mandatory Adoption of IFRS on Earnings
Quality: Evidence from the European Union’. Journal of International Accounting Research 11 (2): 1–25. https://
doi.org/10.2308/jiar-10221
David Burgstahler and Ilia Dichev (1997). ‘Earnings management to avoid earnings decreases and losses’. Journal of
Accounting and Economics, 1997, vol. 24, issue 1, 99-126
Dang, N. H., Hoang, T. V. H., & Tran, M. D. (2017). ‘Factors affecting earnings management: The case of listed firms in
Vietnam’. International Journal of Economic Research, 14(20), 117-134.
DeAngelo, Le, (1986): ‘Accounting numbers as market valuation substitutes: A study of management buyouts of public
stockholders’, The Accounting Review, vol.61, no. 3, pp. 400-420.
DeAngelo, L.E. (1988), ‘Managerial competition, information costs, và corporate governance: the use of accounting
performance measures in proxy contests’, Journal of Accounting và Economics, January, Vol. 10, pp.3–36
Dechow, P. M., Sloan, R. G., & Sweeney A. P. (1995). ‘Detecting Earnings Management’. Accounting Review, 70, 193-225.
Dechow, P. M., & Dichev, I. D. (2002). ‘The quality of accruals và earnings: The role of accrual estimation errors’. The
Accounting Review, 77(s-1), 35-59.
Dechow, Patricia M.; Schrand, Catherine M. (2004). ‘Earnings quality’. Available from: http://www.cfapubs.org/doi/
pdf/10.2470/rf.v2004.n3.3927.
Dechow, P., Ge, W., & Schrand, C. (2010). ‘Understanding earnings quality: A review of the proxies, their determinants
và their consequences’. Journal of Accounting và Economics, 50 (2–3), 344-401. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.
jacceco.2010.09.001
Dimitropoulos, P. E., Asteriou, D., Kousenidis, D., & Leventis, S. (2013). ‘The impact of IFRS on accounting quality:
Evidence from Greece’. Advances in Accounting, 29(1), 108-123. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.adiac.2013.03.004.
Doyle, J. T., Ge, W., & McVay, S. (2007). ‘Accruals Quality and Internal Control over Financial Reporting’. The
Accounting Review, 82(5), 1141–1170.Fama, Eugene F. và Kenneth R. French, 1995. Size and book-to-market
factors in earnings and returns. Journal of Finance, 50(1), trang 131-155.
Francis, J., LaFond, R., Olsson, P., & Schipper, K. (2005). ‘The market pricing of accruals quality’. Journal of accounting
và economics, 39(2), 295-327.
Hamdi, F. M., & Zarai, M. A. (2012). ‘Earnings management to avoid earnings decreases và losses: empirical evidence
from Islamic banking industry’. Research Journal of Finance và Accounting, 3(3), 88-106.
Hang, N. T., Tran, T. N. M., Thuy, P. T. A., & Thuong, P. H. (2018). ‘The impact of audit quality and state ownership on
accrual based earnings management: evidence from Vietnam’. External economic review, no 108 (8/2018), page 3-19
Healy P.M, & Wahlen J.M. (1999), ‘A review of the earnings management literature và its implications for standards
setting’, Accounting Horizons
Healy, P. (1985), ‘The impact of bonus schemes on the selection of accounting principles’, Journal of Accounting và
Economics, April, Vol. 7, pp.85–107
Hoang, K. M. T., & Phung, T. A. (2019). ‘The effect of financial leverage on real and accrual-based earnings management
in Vietnamese firms’. Economics & Sociology, 12(4), 299-333.
Hung, D. N., Do Hoai Linh, T. T. V., Hoa, T. M. D., & Ha, H. T. V. (2018). ‘Factors influencing accrual earnings
management and real earnings management: The case of Vietnam’. In International Conference on Humanities and
Social Sciences, Khon Kaen University, Thailand.
Hung, D. N., & Van, V. T. T. (2020). ‘Researching the firm characteristics affecting the earnings quality: The case of
vietnam’: Acces la success. Calitatea, 21(179), 106-112. Retrieved from https://db.vista.gov.vn:2071/scholarly-
journals/researching-firm-characteristics-affecting/docview/2463698295/se-2?accountid=47774
Jeanjean, T., & Stolowy, H. (2008). ‘Do accounting standards matter? An exploratory analysis of earnings management
before và after IFRS adoption’. Journal of Accounting và Public Policy, 27(6), 480-494. doi: http://dx.doi.
org/10.1016/j.jaccpubpol.2008.09.008
Jones, J. (1991), ‘Earnings management during import relief investigations’, Journal of Accounting Research, Vol. 29,
No. 2, pp.193–22
Số 241- Tháng 6. 2022- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 57
- Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận- đề xuất hướng nghiên cứu cho Việt Nam
Khuong, N. V., Thu, P. A., & Thao, D. T. T. (2017). ‘The Effect of Top Executive Gender on Accrual Earnings Management:
Sample Analysis of Vietnam Listed Firms’. VNU Journal of Science: Economics and Business, 33(2).
Kothari, S. P., Leone, A. J., & Wasley, C. E. (2005). ‘Performance matched discretionary accrual measures’. Journal of
accounting và economics, 39(1), 163-197.
Iatridis, G. (2010).’ International Financial Reporting Standards and the quality of financial statement information’.
International Review of Financial Analysis, 19(3), 193-204. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.irfa.2010.02.004
Ioan Pop, Szilveszter Fekete and Dan Dacian Cuzdriorean (2013), Relationship between accounting and taxation in
Romania: A behavioral analysis, Annales Universitatis Apulensis Series Oeconomica, vol. 1, issue 15, 7
Lang, M., Raedy, J. S., & Yetman, M. H. (2003). ‘How Representative Are Firms That Are Cross-Listed in the United States?
An Analysis of Accounting Quality’. Journal of Accounting Research, 41(2), 363-386. doi: 10.1111/1475-679X.00108
Leuz, C., Nanda, D., & Wysocki, P. D. (2003). ‘Earnings management và investor protection: an international
comparison’. Journal of Financial Economics, 69(3), 505-527.
Maia, S. C., Bressan, V. G. F., Lamounier, W. M., & Braga, M. J. (2013). ‘Earnings management in Brazilian credit
unions’. Brazilian Business Review, 10(4), 91-109.
Mariarosaria Agostino & Danilo Drago & Damiano Silipo (2011). “The value relevance of IFRS in the European
banking industry,” Review of Quantitative Finance and Accounting, Springer, vol. 36(3), pages 437-457, April.
Mary E. Barth, Wayne R. Lvàsman và Mark H. Lang (2008), ‘International Accounting Stvàards và Accounting Quality’,
Journal of Accounting Research, 46, pp.467-498;
McNichols, M.F. (2002) ‘Discussion of the Quality of Accruals and Earnings: The Role of Accrual Estimation Errors’.
Accounting Review, 77, 61-69.
Nguyen Huong Lien (2019), ‘Thao túng BCTC của các công ty niêm yết và tác động đến thị trường chứng khoán Việt
Nam’, Đề tài khoa học công nghệ cấp ĐH Quốc Gia Hà Nội
Nguyen Huu Anh, Nguyen Ha Linh (2016), ‘Using the M-score Model in Detecting Earnings Management: Evidence from Non-
Financial Vietnamese Listed Companies’, VNU Journal of Science: Economics và Business, Vol. 32, No. 2 (2016) 14-23.
Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), ‘Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán- bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam’, Luận án tiến sỹ, ĐH Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thu Hằng và cộng sự (2020), ‘Thao túng lợi nhuận nhằm đạt ngưỡng lợi nhuận: Bằng chứng thực nghiệm tại
Việt Nam’, Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 113, 03.2020
Nguyen, A. H. (2020). ‘Ownership Structure và Earnings Management: Empirical Evidence from Vietnam Real Estate
Sector’. Real Estate Management và Valuation, 28(2), 37-51.
Nguyen, T. H. (2016). ‘The impact of board of directors và ownership characteristics on earnings management of publicly
listed firms in Vietnam’, Master’s thesis, University of Twente.
Nguyễn, T. P. H. (2017). ‘Phân tích thực trạng mức quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam bằng mô hình Jones điều chỉnh’. Tạp chí Kinh tế và Phát triển (Số 245);Tr. 46-57
Niu, Flora F. (2006). ‘Corporate governance và the quality of accounting earnings: a Canadian perspective. International
Journal of Managerial Finance’, 2(4), 302-327. doi: http://dx.doi.org/10.1108/17439130610705508
Pham, N. K., Duong, H. N., Quang, T. P., & Thuy, N. H. T. (2017). ‘Audit firm size, audit fee, audit reputation và audit
quality: The case of listed companies in Vietnam’. Asian Journal of Finance & Accounting, 9(1), 429-447.
Shen, Chung-Hua, & Chih, Hsiang-Lin. (2005). ‘Investor protection, prospect theory, và earnings management: An
international comparison of the banking industry’. Journal of Banking & Finance, 29(10), 2675-2697. doi: http://
dx.doi.org/10.1016/j.jbankfin.2004.10.004
Su Dinh Thanh, Nguyen Phuc Canh, Nguyen Tran Thai Ha (2020), ‘Debt structure và earnings management: A non-
linear analysis from an emerging economy’, Finance Research Letters, Volume 35, 101283, ISSN 1544-6123,
Sudipta Basu (1997), ‘The conservatism principle và the asymmetric timeliness of earnings’, Journal of Accounting và Economics, 24, pp.3-37.
Tam, T. M., & Thanh, N. P. (2019, January). ‘Earnings Quality: Does State Ownership Matter? Evidence from Vietnam’.
In International Econometric Conference of Vietnam (pp. 477-496). Springer, Cham.
Thinh Tran Quoc (2015), ‘Evaluating the Provision of Information in the Financial Statements of Enterprises: Empirical
Evidence From Vietnam’, Journal of Modern Accounting và Auditing, September 2015, Vol. 11, No. 9, 435-442.
Trang, N. T. N., & Phương, B. K. (2020). ‘Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận của các công ty niêm yết tại
Việt Nam’. Tạp chí nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, 29(7), 05-20.
Trinh Quoc Trung , Nguyen Thanh Liem & Cao Thi Mien Thuy (2020) ‘The impact of short-term debt on accruals-based
earnings management – evidence from Vietnam’,Cogent Economics & Finance,
Van Khanh, V. T., & Hung, D. N. (2020). ‘Impact of Earnings Quality on the Debt Maturity: The Case of Vietnam’. Asian
Economic and Financial Review, 10(1), 1.
Wang, Y., & Campbell, M. (2012). ‘Corporate governance, earnings management, và IFRS: Empirical evidence from Chinese
domestically listed companies’. Advances in Accounting, 28(1), 189-192. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.adiac.2012.03.007
Zhou, J., & Chen, K. Y. (2004). ‘Audit committee, board characteristics và earnings management by commercial banks’.
Unpublished Manuscript.
58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 241- Tháng 6. 2022
nguon tai.lieu . vn