Xem mẫu

  1. Tổng hợp Quản trị danh mục đầu tư ngân hàng ............, Tháng .... năm .......
  2. CHƯƠNG I : PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH VĨ MÔ VIỆT NAM inh tế 1.Môi trường k 1.1 Tăng trưởng kinh tế Nguồn: MHBS tổng hợp Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2010 tăng trưởng 6,52% so với chín tháng năm 2009,và dự kiến cả năm sẽ đạt 6.7%, vượt qua mục tiêu 6.5% của chính phủ. trong đó quý I tăng 5,83%; quý II tăng 6,4% và quý III tăng 7,16%. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 4,62% của cùng kỳ năm trước. Trong mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế chín tháng năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,89%, đóng góp 0,49 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,29%, đóng góp 3,02 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,24%, đóng góp 3,01 điểm phần trăm. Trong tổng sản phẩm trong nước chín tháng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 21,09%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 40,85%; khu vực dịch vụ chiếm 38,06% Tốc đọ tăng tổng sản phẩm trong nước 9 tháng 2009 so với 9 tháng 2010 Tốc đọ tăng trưởng so với 9 Đóng góp của các khu tháng năm trước vực vào tăng trưởng 9 9 tháng năm 9 tháng năm tháng năm 2010(%) 2009(%) 2010(%) Tổng số 4.62 6.52 6.52
  3. Nông,lâm nghiệp thủy 1.58 2.89 0.49 sản Công nghiệp và xây dựng 4.64 7.29 3.02 Dịch vụ 5.90 7.24 3.01 Nguồn:Tổng cục thống kê Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2011 là 7.5%, đây là mức trung bình trong hơn 10 năm qua. Trong một báo cáo mới đây, Ngân hàng Thế giới (WB) cũng dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 6.5% trong năm nay và đạt mức 7% trong năm 2011. Như vậy, các dự báo về triển vọng của kinh tế Việt Nam đều khá lạc quan. Điều này cũng được minh chứng bằng các con số khác như tăng trưởng sản xuất công nghiệp, tăng trưởng bán lẻ và tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu được duy trì khá cao. Đặc biệt trong đó tăng trưởng xuất nhập khẩu trong 9 tháng đầu năm đều vượt mức chỉ tiêu đặt ra. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng thấp của nền kinh tế vẫn chưa có dấu hiệu được cải thiện. Đầu tư quá mức đã gây sức ép lên lạm phát và những rủi ro vĩ mô khác. Mức tăng đầu tư này lại chủ yếu đến từ khu vực nhà nước, nơi có hiệu quả đầu tư rất thấp. Sự kiện Vinashin mất khả năng trả nợ, hàng loạt dự án trọng điểm chậm tiến độ hoặc không hiệu quả là một minh chứng sát thực cho điều này. Tổng số vốn đầu tư trong nền kinh tế 9 tháng đầu năm 2010 bằng 44.19% GDP, hệ số ICOR 9 tháng lên tới 7.17. Vốn đầu tư của khu vực nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất với 37.6% và tăng đến 30.2% so với cùng kỳ năm trước. Đầu tư khu vực ngoài nhà nước và nước ngoài lần lượt 36.8% và 25.8%, tăng trưởng vốn đầu tư chỉ là 17% và 10.7% Qua phân tích ở trên, chúng tôi nhận thấy kinh tế Việt Nam vẫn có thể đạt được mức tăng trưởng 6.7% trong năm 2010. Dù đạt được mục tiêu tăng trưởng nhưng con số dường như không phải là vấn đề trọng tâm hiện tại của nền kinh tế Việt Nam. Một số vấn đề thuộc về cơ cấu như hiệu quả của đầu tư công, năng lực thực sự của các tập đoàn nhà nước... đã bộ lộ
  4. sớm hơn mong đợi. Trong ngắn hạn, với những lợi thế hiện có, Việt Nam hoàn toàn có thể duy trì tốc độ tăng trưởng từ 6 đến 7%. Về dài hạn, đà tăng trưởng sẽ gặp nhiều thách thức nếu không có cải thiện trong việc tái cấu trúc nền kinh tế. 1.2 Đầu tư phát triển Vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện chín tháng năm 2010 ước tính đạt 602,8 nghìn tỷ đồng, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 226,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,6% tổng vốn và tăng 30,2%; khu vực ngoài Nhà nước 222 nghìn tỷ đồng, chiếm 36,8% và tăng 17%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 154 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,6% và tăng 10,7%. Vốn đầu tư xã hội thực hiện 9 tháng năm 2010 Nghìn tỷ Cơ So với cùng đồng cấu kỳ năm trước (%) (%) TỔNG SỐ 602,8 100,0 119,8 Khu vực Nhà nước 226,8 37,6 130,2 Khu vực ngoài Nhà nước 220,0 36,8 117,0 Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp 154,0 25,6 110,7 nước ngoài Nguồn: Tổng cục thống kê Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP ngày càng gia tăng trong khi tốc độ tăng trưởng GDP đang có xu hướng chậm lại. Đây là một dấu hiệu không mấy tích cực đối với chất lượng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Nguyên nhân là do sự ưu tiên phát triển kinh tế theo chiều rộng và hiệu quả đầu tư khá thấp của khu vực kinh tế nhà nước so với khu vực tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài. Chúng tôi kì vọng trong thời gian tới, chính sách định hướng phát triển kinh tế sẽ có thay đổi theo hướng tập trung vào chiều sâu và có hiệu quả hơn.
  5. 1.3 Nợ công Theo báo cáo mới nhất của Bộ trưởng Bộ Tài chính trong phiên họp với Uỷ ban thường vụ quốc hội, tính đến 31/12/2009 tổng số dư nợ công bằng 52,6%GDP – cao hơn rất nhiều so với lần công bố trước và ước tính đến cuối năm 2010 nợ công sẽ bằng 56,7% GDP. Vấn đề nợ công đang gây nhiều lo lắng trong các nhà điều hành chính sách. Theo chúng tôi việc nợ công bằng bao nhiêu % so với GDP không quan trọng bằng việc sử dụng đồng vốn đi vay có hiệu quả hay không? Nếu như những dự án này hiệu quả và có mức sinh lợi cao hơn so với lãi vay, đồng vốn đi vay sẽ đem lại hiệu quả tốt cho nền kinh tế. Một điểm đáng lưu y là các khoản nợ nước ngoài trong bối cảnh dự trữ ngoại hối được dự báo tiếp tục giảm, đặc biệt là các khoản vay thương mại. 1.4 Lạm phát Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2010 tăng 1,31% so với tháng trước. Đây là mức tăng cao nhất trong sáu tháng qua kể từ tháng 3/2010 với mức tăng trên 1%. Nguyên nhân chủ yếu tác động đến chỉ số giá tiêu dùng tháng Chín tăng cao là do thực hiện lộ trình tăng học phí từ năm học 2010-2011 theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ ở hầu hết các địa phương trên cả nước, yếu tố này đóng góp 0,68% vào mức tăng chung của chỉ số giá tiêu dùng cả nước. Mặt khác, việc điều chỉnh tăng giá xăng, dầu từ ngày 09/8/2010 tiếp tục ảnh hưởng làm tăng giá hàng hoá và dịch vụ trong tháng Chín. Chỉ số giá tháng Chín năm 2010 của hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ đ ều tăng so với tháng trước, trong đó nhóm giáo dục tăng cao nhất với 12,02%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,08%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức 1% gồm: Giao thông tăng 0,91%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,79% (l ương thực tăng 2,32%; thực phẩm tăng 0,39%); văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,48%; đ ồ uống và thuốc lá tăng 0,44%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,35%; hai nhóm may mặc, mũ nón, giày dép và thiết bị và đồ dùng gia đình đều tăng 0,34%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,07%. Thị trường giá cả hàng hoá trong nước và thế giới những tháng cuối năm còn diễn biến phức tạp. Đặc biệt trong nước, một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ là nguyên nhân gây áp lực đến mặt bằng giá nói chung, đó là: (1) Việc tăng giá một số hàng hoá, dịch vụ sẽ tiếp tục ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá cả của những hàng hoá và dịch vụ khác; (2) Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá cho sản xuất cũng như nhu cầu các dịch vụ và tiêu dùng hàng hoá trong dân cư thường tăng lên vào dịp cuối năm; (3) Nhiều công trình, dự án tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải ngân để hoàn thành kế hoạch năm.Trong khi đó,giá nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng đã tăng 9,82% kể từ đầu năm đến nay, trung bình mỗi tháng tăng 1,05% - 1.1%. Việc điều tiết giá cả các mặt hàng nhóm này tương đối khó khăn do nó phụ thuộc vào giá cả trên thị trường thế giới.
  6. (4) Tỷ giá giữa VNĐ và USD được điều chỉnh tăng, ảnh hưởng đến giá hàng nhập khẩu làm tăng chi phí đầu vào trong sản xuất hàng hoá.Từ đầu năm đến nay, NHNN đã 2 lần điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, trước tình hình nhập siêu, thâm hụt ngân sách nhà nước, lạm phát.. cuối tháng 9/2010, tỷ giá VND/USD giao dịch trên thị trường tự do có lúc lên 19.700, cảnh báo về áp lực mới có thể diễn ra trên thị trường ngoại hối (5) Nguy cơ thiên tai, dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi còn tiềm ẩn, nếu xảy ra trên quy mô lớn cũng sẽ tác động đến nguồn cung lương thực và thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng, đây là nhóm hàng hoá chiếm tỷ trọng lớn trong tiêu dùng của dân cư. Diễn biến CPI (Nguồn: NHNN và tổng hợp của Ocean Securities) Dự báo CPI năm 2010 có thể được kiểm soát quanh mức 8.7% đến 9%. Đây thực sự không phải là tín hiệu khả quan vì mức này cao hơn rất nhiều so với hầu hết các nền kinh tế khác. Mặc dù vậy, mức tăng này có thể chấp nhận được trong bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay và nằm trong kỳ vọng của nhiều người
  7. 1.5 Lãi suất So với những tháng đầu năm, lãi suất trên thị trường hiện nay đã giảm nhiều. Việc NHNN cho phép các ngân hàng được huy động và cho vay với lãi suất thỏa thuận đã tạo ra những hiệu ứng tích cực, khi không xuất hiện một cuộc đua lãi suất nào và thực tế lãi suất đã giảm mạnh so với trước đó. Ngoài ra, thị trường tài chính đã được vận hành một cách minh bạch và linh hoạt hơn. Trong 6 tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng ở mức khá thấp (6 tháng 10.5%) và chủ yếu là đến từ tín dụng bằng ngoại tệ. Tăng trưởng tín dụng đã bắt đầu mạnh lên trong 3 tháng trở lại đây và tính đến hết tháng 9, tăng trưởng tín dụng đã đạt 19.5%, cung tiền cũng đã đạt mức tương đương. Như vậy, theo mức mục tiêu tăng trưởng tín dụng tối đa 25% cho năm nay thì tăng trưởng tín dụng trong 3 tháng còn lại bị khống chế trong khoảng 4.6%. Để hỗ trợ cho việc giảm lãi suất trên thị trường, trong 9 tháng vừa qua NHNN cũng đã bơm một lượng tiền ròng khá lớn qua thị trường mở. Tổng cộng 9 tháng đầu năm, số tiền được bơm qua thị trường mở đạt khoảng 50 nghìn tỷ đồng. Với lãi suất chiết khấu thấp hơn khá nhiều so với lãi suất trên thị trường, số tiền này đã hỗ trợ tích cực cho việc giảm lãi suất. Thị trường tài chính trong tháng 10 cũng chịu sức ép lớn khi một loạt các chính sách mới quy định có hiệu lực. Áp lực này bao gồm việc 23 ngân hàng phải gấp rút tăng vốn để đáp ứng được mức vốn điều lệ tối thiểu 3,000 tỷ đồng vào cuối năm 2010. Chi phí vốn của các ngân hàng cũng tăng theo khi từ năm 2010 buộc phải trích lập đầy đủ dự phòng chung 0.75% trên dư nợ tín dụng phân loại từ Nhóm 1 đến Nhóm 4. Ngoài việc chịu tác động của việc trích lập dự phòng chung, các ngân hàng còn bị ảnh hưởng bởi một số quy định của Thông tư 13. Tuy một số điều trong Thông tư 13 đã được chỉnh sửa trong Thông tư 19, nhưng nhìn chung hệ thống ngân hàng đã chịu tác động mạnh từ những quy định mới này. Về dài hạn, Thông tư 13 có thể giúp cho hệ thống tài chính vững mạnh và an toàn hơn; tuy nhiên trong ngắn hạn quy định mới này ”gây sốc” cho không ít ngân hàng. Một điểm đáng lưu ý khác là trong những tháng vừa qua, lượng trái phiếu chính phủ phát hành ra thị trường khá lớn. Tổng giá trị phát hành thành công được đấu thầu tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội tính từ đầu năm đến 15/10/2010 đạt 26,315 tỷ đồng, bằng 48.37% tổng giá trị gọi thầu. Tuy số tiền huy động được còn thấp so với mục tiêu 56,000 tỷ đồng của năm nay, nhưng lại lớn hơn rất nhiều so với con số 2,385 tỷ thu được của năm 2009. Việc Chính phủ phát hành quá nhiều trái phiếu huy động vốn đã lấn át dòng vốn cho các doanh nghiệp và ảnh hưởng đến lãi suất thị trường.
  8. Nhận định: Việc giảm lãi suất vẫn chưa hoàn toàn như kỳ vọng của người dân cũng như Chính phủ. Với việc ”room” tín dụng còn lại cho 3 tháng chỉ là 4.6%, lãi suất trên thị trường trong thời gian tới rất khó để tiếp tục giảm xuống mạnh mẽ. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng cũng phải chịu một loạt sức ép như việc tăng vốn, quy định tại Thông tư 13, chi phí từ trích lập dự phòng. Những sức ép đó cũng làm cho mục tiêu giảm lãi suất càng thêm khó thực hiện. Những biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất dường như không mang lại hiệu quả thực tế. Trong khi đó các giải pháp có tính chất thị trường như việc tiếp tục bơm tiền để kích thích tăng trưởng tín dụng không còn nhiều không gian để áp dụng, khi mà sức ép về lạm phát đang khá lớn. Như vậy, khả năng lãi suất tiếp tục giảm mạnh là khó xảy ra. Chúng tôi cho rằng lãi suất có thể giảm thêm với điều kiện là lạm phát được không chế ở mức dưới 7% trong năm 2011. Về dài hạn để lãi suất vừa thấp mà không nhiều sức ép lên lạm phát chỉ có con đường tái cấu trúc nền kinh tế để tăng hiệu quả đầu tư. 1.6 Xuất nhập khẩu và thâm hụt thương mại Xuất khẩu tiếp tục đà tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu tháng 9/2010 ước tính đạt 6.1 tỷ USD, giảm hơn 10% so với tháng trước nhưng lại chủ yếu là do sự chênh lệch từ xuất khẩu vàng. Tính chung trong 9 tháng xuất khẩu đạt 51.5 tỷ đồng, tăng 23.2% so với cùng kỳ, vượt xa mục tiêu 10% của năm nay. Trong các mặt hàng xuất khẩu thì nhóm hàng Dệt may, Giày dép, Đồ gỗ, Thủy sản vẫn là nhóm đứng đầu và đạt được sự tăng trưởng ấn tượng. Trong khi đó, dù kim ngạch xuất khẩu dầu thô khá lớn nhưng đã giảm nhiều so với năm trước do phải dành một phần dầu thô cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Động lực cho tăng trưởng xuất khẩu trong những tháng vừa qua có sự đóng góp khá quan trọng của doanh nghiệp khu vực FDI.
  9. Nhập khẩu tăng chủ yếu từ khu vực doanh nghiệp FDI. Kim ngạch xuất khẩu tháng 9/2010 đạt 7.15 tỷ USD, giảm nhẹ so với tháng trước nhưng đã tăng gần 10% so với cùng kỳ năm 2009. Trong 9 tháng đầu năm, nhập khẩu đạt 60.08 tỷ USD, tăng 22.7%. Trong các mặt hàng nhập khẩu, máy móc, thiết bị vẫn đứng đầu tiếp đến là xăng dầu, sắt thép, vải... Các doanh nghiệp FDI đứng đầu trong tăng trưởng nhập khẩu với mức tăng 42.4%, khu vực trong nước chỉ tăng được 11.2%. Nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 12.5 tỷ USD (bằng 1/5 tổng kim ngạch nhập khẩu). Nhập siêu thấp nhờ xuất khẩu vàng. Với số liệu về xuất nhập khẩu trên, nhập siêu hàng hóa trong 9 tháng đầu năm ước đạt 8.6 tỷ USD, tăng 19.8% so với cùng kỳ và bằng 16.7% kim ngạch nhập khẩu (thấp hơn mức mục tiêu 20% của Chính phủ). Mặc dù vậy, nếu không tính đến 2.78 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu ròng hàng hóa đặc biệt là vàng thì nhập siêu đạt 11.38 tỷ USD, một mức rất cao so với quy mô nền kinh tế. Nguồn: GSO và Tổng hợp của Chứng khoán Rồng Việt Như vậy,trong những tháng vừa qua tăng trưởng xuất nhập khẩu đều ở mức khá cao. Tuy vậy, chúng ta vẫn chưa nhìn thấy sự chuyển biến đáng kể nào trong xu hướng xuất nhập khẩu. Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu các mặt hàng thô và nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị linh kiện. Trong những tháng tới, xuất nhập khẩu có thể sẽ tăng mạnh do nhu cầu cao vào những tháng cuối năm. Thông thường tăng trưởng nhập khẩu sẽ lớn hơn xuất khẩu, do vậy nhập siêu cũng có thể sẽ tăng mạnh. 1.7 Tỷ giá Chỉ trong 9 tháng đầu năm 2010, NHNN đã hai lần phải nới rộng tỷ giá liên ngân hàng thêm tổng cộng 5.27%. Nếu tính cả lần tăng tỷ giá ngày 25/11/2009 thìVND đã có 3 lần bị giảm giá trong vòng chưa đến 10 tháng. Thị trường thường phản ứng một cách khá tích cực sau các đợt điều chỉnh tỷ giá thể hiện qua việc tỷ giá trên thị trường tự do giảm xuống, nguồn cung ngoại tệ dồi dào hơn. Tuy nhiên, dường như sự ổn định chỉ diễn ra trong ngắn hạn. Trong khi đó, xu thế mất
  10. giá của tiền đồng trong trung và dài hạn luôn phải chịu nhiều áp lực. Nhà đầu tư và người dân cũng có tâm lý luôn kỳ vọng đồng nội tệ sẽ mất giá. Tỷ giá liên ngân hàng hiện nay đang được ấn định là 18,932 VND/USD, tỷ giá trần là 19,500VND/USD. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do hiện tại đang giao dịch quanh mức 19,900 VND/USD. Giao dịch chính thức tại các ngân hàng vẫn ở mức trần, nhưng thực tế người mua ngoại tệ phải đóng thêm các khoản phí 100–300 VND/USD. Nguyên nhân của việc tiền đồng nội tệ luôn chịu áp lực mất giá là do sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế và sự giảm sút lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Với bản chất là một nền kinh tế luôn nhập siêu rất lớn, cán cân tài khoản vãng lai (current account) luôn chênh lệch hàng chục tỷ USD. Trong khi đó, cán cân tài khoản vốn trong năm nay gồm vốn đầu tư trực tiếp (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI), vốn vay (ODA, vay thương mại của Chính phủ và doanh nghiệp) lại thường chịu sức ép bởi tình hình kinh tế toàn cầu. Theo số liệu của IMF, dự trữ ngoại tệ tính đến cuối tháng 6/2010 của Việt Nam chỉ còn 13.9 tỷ USD, tức là giảm 10 tỷ USD so với mức đỉnh điểm của dự trữ ngoại hối vào năm 2008. Tuy nhiên, theo số liệu của WB thì năm 2009 khoản mục sai số trong bảng tính cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam đến 9.4 tỷ USD. Nếu loại trừ các khoản sai số này thì thặng dự cán cân thanh toán quốc tế lên tới 2.7 tỷ USD. Nhiều người cho rằng nó chủ yếu nằm dưới dạng dự trữ của người dân và một phần ngoại tệ thất thoát bất hợp pháp ra bên ngoài. Vào trung tuần tháng 7 vừa qua, NHNN công bố báo cáo trong đó khẳng định tổng cán cân tài khoản vãng lai và tài khoản vốn của Việt Nam vẫn thặng dư 3.4 tỷ USD. Tuy
  11. nhiên, trong báo cáo trình Quốc hội mới đây thì dự trữ ngoại tệ hiện tại của Việt Nam còn khoảng 13.9 tỷ USD, giảm mạnh so với hồi đầu năm. Như vậy, có thể thấy khoản mục sai số trong tính toán cán cân thanh toán tiếp tục bị âm ở mức khá lớn. Điều này đồng nghĩa với một lượng ngoại tệ khá lớn có thể đang trôi nổi trong nền kinh tế hoặc được chuyển ra nước ngoài mà không được thống kê. Qua những phân tích trên chúng tôi cho rằng, áp lực về tăng tỷ giá tiếp tục ở mức khá cao trong thời gian tới. Nguyên nhân quan trọng xuất phát từ sự đô la hóa của nền kinh tế và tâm lý tích trữ ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp. Sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trong nước khiến nhu cầu tích trữ USD tăng lên, làm tăng khoản mục sai số dẫn đến mất cân đối cán cân thanh toán tổng thể. Trong khi đó, tổng cán cân tài khoản vãng lai và tài khoản vốn vẫn dương. Theo ước tính của chúng tôi, tổng cán cân thành toán và cán cân tài khoản vãng lai năm 2010 vẫn dương 4 tỷ USD. Điều này cho thấy có thể có một lượng ngoại tệ khá lớn đang được ”cất giữ” trong nền kinh tế. Ngoài ra, tỷ giá hối đoái thực của VND cũng không còn quá cao sau khi đã mất giá khá mạnh so với các đồng tiền khác. Do đó, chúng tôi cho rằng rất có thể sẽ không có thêm việc nới rộng tỷ giá trong năm 2010, dù điều này có thể diễn ra vào đầu năm 2011. 1.8 Thâm hụt ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2010 ước đạt 360,9 nghìn tỷ đồng, bằng 78,2% dự toán năm, cao hơn so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ đạt 70,4%).Trong đó các khoản thu nội địa bằng 77,2%; thu từ dầu thô bằng 66,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 89,8%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 77% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 68,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng
  12. 71,3%; thuế thu nhập cá nhân bằng 85,9%; thu phí xăng dầu bằng 75%; thu phí, lệ phí bằng 66,9%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/9/2010 ước tính bằng 69,7% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 69,6%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 70,8%; chi trả nợ và viện trợ bằng 79%. Như vậy,chi ngân sách hiện vẫn theo kế hoạch trong khi thu ngân sách vượt chỉ tiêu so với tiến độ. Điều này khiến thâm hụt ngân sách trong 9 tháng đầu năm chỉ khoảng 3,3% GDP so với 6,2% GDP trong dự toán ngân sách năm 2010 và mức 5,95% theo đề xuất gần đây của chính phủ. 1.9 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Giải ngân FDI đạt 800 triệu USD trong T9/2010, tăng 4.8% so với cùng kỳ năm ngoái Bộ Kế hoạch đầu tư vừa công bố số liệu ước tính cho FDI tháng 9 và 9 tháng đầu năm với diễn biến không mấy khả quan. Cả thu hút và giải ngân FDI đều tăng chậm lại trong khi vốn cấp mới thậm chí còn sụt giảm so với tháng 8. Tổng số vốn đăng ký đạt 616 triệu USD với 62 dự án trong tháng 9, giảm 10 dự án so với tháng 8. Tính chung 9 tháng đầu năm, với 720 dự án, tổng số vốn mà Việt Nam đã thu hút được là 11.4 tỷ USD, tăng 37,3% so với cùng kỳ 2009. Mặc dù có thêm 4 dự án tăng vốn trong tháng 9, song vốn FDI tăng thêm lại giảm 4 triệu USD, đưa con số này của 9T2010 đạt 783 triệu USD, chỉ bằng 13,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tổng số vốn FDI cấp mới và tăng thêm 9T2010 là 12.19 tỷ USD, chỉ bằng 87.3% so với cùng kỳ năm 2009, mới chỉ đạt khoảng một nửa kế hoạch thu hút từ 22 – 25 tỷ USD cả năm. Mặc dù chỉ tiêu duy trì khả năng thu hút FDI là quan trọng, việc hiện thực hóa các cam kết này còn đóng vai trò quan trọng hơn. Vốn FDI giải ngân trong tháng 9 đạt 800 triệu USD, thấp hơn 50 triệu so tháng trước, tổng số vốn giải ngân đạt 8.05 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2009. Như đã đề cập trong bản tin tháng trước, chúng tôi vẫn chưa tìm được số liệu thống kê cho con số thực tế bao nhiêu là giải ngân từ nước ngoài (chủ đầu tư) và bao nhiêu là huy động từ nguồn vay trong nước để từ đó có thể tính toán thiếu hụt trong giải ngân FDI sẽ gây áp lực như thế nào đến cán cân thanh toán tổng thể.
  13. Nguồn: GSO và Tổng hợp của Sacombank Securities 2. Môi trường pháp lý Cải cách thủ tục hành chính đạt được những bước tiến mới với việc Chính phủ công bố cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính trên mạng internet.Các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố đã công khai bộ thủ tục hành chính của Bộ, ngành, địa phương mình.Đề án 30 với nội dung cắt giảm 30% quy định hiện hành về thủ tục hành chính được triển khai đã giúp đơn giản hóa các thủ tục hành chính phát sinh trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp, Mô hình một cửa, một cửa liên thông, ứng dụng công nghệ thông tin và tiêu chuẩn ISO trong giải quyết thủ tục hành chính đang được tích cực triển khai tại các cơ quan hành chính nhà nước. Các cuộc họp, đối thoại trực tuyến đã góp phần nắm bắt nhanh tình hình, tháo gỡ kịp thời hơn các vướng mắc và tiết kiệm chi phí. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện tiếp tục được rà soát, kiện toàn. Việt Nam đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để phòng chống tham nhũng và đạt được những kết quả thiết thực trên cả 2 mặt phòng và chống. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra và điều tra, xử lý các vụ tham nhũng được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Chính quyền các cấp giải quyết được khoảng 84% các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài. Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được triển khai tích cực gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh Trong tương lai,Việt Nam tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách để thúc đẩy hình thành nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường; hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. 3.Môi trường chính trị
  14. Công tác quốc phòng và an ninh luôn được coi trọng; bảo đảm chủ quyền quốc gia và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố và tăng cường; xã hội đồng thuận; thực hiện tốt hơn dân chủ, tiến bộ công bằng xã hội và chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Việt Nam đã xử lý đúng pháp luật các hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền, chính sách tôn giáo, dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết và gây mất trật tự an toàn xã hội. Công tác phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội được quan tâm chỉ đạo và đã có những kết quả thiết thực.Nhờ đó,Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định nhất trên thế giới,là điểm đến hấp dẫn và an toàn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Chính sự ổn định chính trị này là một trong những yếu tố không thể thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế. Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hoà bình và thịnh vượng. Nếu nhìn sang một số quốc gia trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Singapore, thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu hết các nước khu vực đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị. Trong khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn định, đây là một đảm bảo cho sự gắn kết để thực hiện chính sách kinh tế nhất quán. 4.Môi trường công nghệ Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm cho việc đầu tư khoa hoac công nghệ.Trong 10 năm qua, nguồn ngân sách nhà nước chi cho KHCN được Quốc hội duy trì ở mức 2% tổng chi.Bên cạnh đó,nhà nước cũng đã có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tập trung đầu tư nghiên cứu - phát triển để nâng cao sức cạnh tranh, gia tăng giá trị sản phẩm với quy định cho phép doanh nghiệp được trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế để lập Quỹ phát triển KH - CN Ngày 22/9/2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức phê duyệt Đề án sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT-TT.Đề án này đặt ra một loạt mục tiêu đầy tham vọng với ngành CNTT-TT từ nay đến năm 2015 và 2020. Một trong những mục tiêu chủ đạo là đưa ngành CNTT-TT trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tăng trưởng hàng năm cao gấp 2-3 lần tăng trưởng GDP, đồng thời phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt chuẩn quốc tế và thiết lập hạ tầng viễn thông băng rộng trên phạm vi cả nước 5.Môi trường xã hội Dân số Theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số quốc gia năm 2009 thì dân số Việt Nam có 85.846.997 người.Trong đó nam giới có 42.413.143 người, chiếm 49,4%. Tính từ cuộc
  15. Tổng điều tra trước đó, số dân Việt Nam tăng thêm 9.523 nghìn người (bình quân mỗi năm tăng 952 nghìn người). Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, cơ cấu dân số theo tuổi của Việt Nam thay đổi theo hướng tích cực. Sau 10 năm, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33,1% (năm 1999) xuống còn 24,5%. Ngược lại, tỷ trọng dân số nhóm tuổi 15 - 64 (là nhóm tuổi chủ lực của lực lượng lao động) tăng từ 61,1% lên 69,1% và nhóm dân số từ 65 tuổi trở lên tăng từ 5,8% lên 6,4%. Cơ quan này cho rằng, đây là thời kỳ dân số nước ta có ưu thế về lực lượng lao động, còn được gọi là thời kỳ của “cơ cấu dân số vàng”. Thời kỳ “vàng” bắt đầu từ năm 2003 và có thể kéo dài từ 30 đến 50 năm. Điều này được đánh giá là lợi thế rất lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, nếu tận dụng được tính ưu việt về lực lượng lao động Lao động và việc làm Theo kết quả tổng hợp về tình hình lao động việc làm 9 tháng năm 2010 của Tổng cục Thống kê,hiện cả nước có 77,3% người từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động, trong đó khu vực thành thị là 69,4%; khu vực nông thôn 80,8%. Tỷ trọng lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật là 14,6%, chủ yếu là ở khu vực thành thị, chiếm khoảng 30%; khu vực nông thôn chỉ 8,6%. Tổng hợp tình hình kinh tế xã hội trong 9 tháng năm 2010 của cơ quan này cũng cho thấy, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi hiện là 4,31%, trong đó khu vực thành thị là 1,95%; khu vực nông thôn là 5,24%. Tỷ lệ lao động nữ thiếu việc làm cao hơn lao động nam. Trong khi đó, theo một báo cáo mới đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước đã giải quyết được gần 1,2 triệu việc làm trong 9 tháng đầu năm, song tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi vẫn ở mức khá cao. Cụ thể, trong tháng 9, cả nước ước giải quyết việc làm cho khoảng 141.500 người, trong đó xuất khẩu lao động ước đạt trên 6.500 người. Tính chung 9 tháng đầu năm 2010, tổng số lượt lao động được giải quyết việc làm ước đạt 1.186,1 nghìn lượt người, đạt 74,13% kế hoạch năm; xuất khẩu lao động ước đạt 58.075 người, đạt trên 68,3% kế hoạch năm. Việt Nam là điểm đến đầu tư tốt
  16. Theo báo cáo mới công bố trong tháng 9 của Cơ quan Thương mại và Đầu tư Anh quốc và Trung tâm Thông tin kinh tế thuộc tập đoàn Economist, thì các nhà đầu tư trên thế giới đã xác định Việt Nam là một trong những thị trường hàng đầu.Đây là năm thứ ba liên tiếp Việt Nam được các nhà đầu tư quốc tế chọn là thị trường hàng đầu nằm ngoài các nước BRIC (tức Brazil, Nga, Ân Độ và Trung Quốc).Theo khảo sát này, trên cả các ́ nước BRIC, Việt Nam được bình chọn là điểm đầu tư số một trong ba năm qua.Vẫn theo khảo sát này, ba thị trường hàng đầu cho các nhà đầu tư trong vòng hai năm tới là Trung Quốc (20%), Việt Nam (19%), và Ấn Độ (18%). 10 mục tiêu đầu tư Xếp hạng 2010 Xếp hạng 2009 Xếp hạng hàng đầu năm 2010 2008 Việt Nam 1 1 1 Indonesia 2 6 6 Mexico 3 3 5 Argentina 4 12 8 Ả Rập Saudi Cùng hạng 4 10 10 Nam Phi 6 4 8 Nigeria 7 2 12 Malaysia 8 5 12 Các tiểu vương quốc Cùng hạng 8 2 3 Ả Rập thống nhất Thổ Nhĩ Kỳ Cùng hạng 8 8 9 CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH NGÀNH 1. PHÂN TÍCH NGÀNH THÉP 1.1 TỔNG QUAN NGÀNH 1.1.1 Tầm quan trọng của ngành thép Sự ra đời của kim loại thép đã góp phần lớn vào quá trình phát triển của loài người. Kể từ khi công nghệ luyện thép đạt đến tầm cao mới là lúc kết cấu của thép tr ở
  17. nên vững chắc hơn, thép đã xuất hiện ngày càng nhiều trong các công trình xây d ựng cầu đường, nhà cửa và dần thay thế các nguyên liệu xây dựng khác như đá và gỗ b ởi đặc tính vững chắc và dễ tạo hình của thép. Hơn nữa, thép cũng là nguyên vật liệu chính cho các ngành công nghiệp khác như đóng tàu, phương tiện vận chuy ển, xây dựng nhà máy và sản xuất máy móc thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm phục vụ đời sống con người. Nhận biết được tầm quan trọng của ngành thép, hầu hết các quốc gia đã dành nhiều chính sách ưu đãi để phát triển ngành thép. Bởi thép được coi là nguyên v ật liệu lõi cho các ngành công nghiệp khác. Với mục tiêu đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam đã coi ngành sản xuất thép là ngành công nghiệp trụ cột của nền kinh tế, đáp ứng tối đa nhu cầu về các sản phẩm thép của các ngành công nghiệp khác và tăng cường xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính phủ dành nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư vào ngành thép nhằm tận dụng tối đa nguồn vốn và nhân lực còn rỗi của các ngành, thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động. 1.1.2 Ngành thép thế giới Trong 5 tháng đầu năm 2009, tổng sản lượng thép thô sản xuất trên th ế gi ới đạt 447,8 triệu tấn, giảm 22,6% so với cùng kỳ năm 2008; trong đó, Trung Quốc vẫn đóng vai trò quan trọng nhất trong ngành công nghiệp thép thế giới. Tổng sản lượng thép thô Trung Quốc sản xuất trong 5 tháng đầu năm nay đạt 216,6 triệu tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ và chiếm đến 48,4% tổng sản lượng toàn cầu. Trái với xu hướng gi ảm giá và nhu cầu tiêu thụ khá thấp trong quý 1, thị trường thép thế giới bắt đ ầu kh ởi s ắc từ cuối tháng 04-2009. Hiện nay giá phôi thép trên thị trường thế giới đ ạt 450 USD/tấn, tăng 15,4% so với mức 390 USD/tấn trung bình trong quý 1. Nhìn chung, giá thép ở hầu hết các nước trên thế giới thời gian qua đều theo xu hướng tăng, do nhu cầu tiêu thụ bắt đầu được cải thiện phần nào, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và sản xuất ôtô. Bên cạnh đó, giá các nguyên liệu đầu vào như thép phế, quặng sắt, dầu và than cốc cũng tăng lại trong thời gian qua, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thép tăng giá. Ngoài ra, giá tăng còn do hoạt động dự trữ nguyên liệu và thép bán thành phẩm của các
  18. doanh nghiệp trước dự đoán giá thép sẽ còn khả năng tăng thêm trong thời gian tới. Tốc độ tăng trưởng GDP 2009 của Trung Quốc gần đây được đánh giá lại khá lạc quan khi tăng từ 6% lên 8% nhờ vào các chính sách kích cầu của chính phủ là cơ sở quan trọng cho tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ thép ở Trung Quốc trong năm nay. Dự kiến với tốc độ tăng trưởng này, tổng nhu cầu tiêu thụ thép nội địa của Trung Quốc sẽ hơn 510 triệu tấn thép thô, tăng 7,4% so với mức 475 triệu tấn trong năm ngoái. Khi tiêu thụ nội địa có xu hướng tăng mạnh trong nửa cuối năm 2009, các lo ngại về tình tr ạng d ư cung thép Trung Quốc sẽ phần nào được giảm bớt. Xuất khẩu thép của Trung Quốc ra thế giới cũng sẽ không tăng mạnh, là một nhân tố tích cực làm giảm áp lực cạnh tranh trực tiếp cho các nước khác. Dự đoán nhu cầu tiêu thụ thép thế giới trong năm 2009 sẽ vào khoảng 1,21 tỷ tấn, giảm 10,2% so với năm 2008. Tuy nhiên, giá thép thế giới được dự đoán sẽ giảm nhẹ trong quý 3 và sẽ hồi phục lại vào cuối năm do nhu cầu của Trung Quốc tăng mạnh trong khi xuất khẩu của nước này giảm. Đồng thời, tiêu thụ ở các nước Châu Á, Châu Âu và Mỹcũng sẽ tiếp tục hồi phục nhẹ trong nửa cuối 2009. 1.1.3.Lịch sử ngành thép Việt Nam Trước khi đi vào tìm hiểu thực trạng ngành thép Việt Nam. Chúng tôi xin được sơ lược qua về lịch sử ngành thép, quá trình hình thành và phát triển, đ ể nhà đầu tư thấy rõ được cơ hội cũng như thách thức đối với ngành thép Việt Nam hiện t ại và trong tương lai. Ngành thép Việt Nam manh nha từ đầu những năm 60 của thế kỷ thứ XX với mẻ gang đầu tiên của khu liên hiệp gang thép Thái Nguyên, do phía Trung Quốc trợ giúp. Mặc dù năm 1963 mẻ gang đầu tiên được ra đời nhưng mãi đến năm 1975 Việt Nam mới có được sản phẩm thép cán. Sau đó, thời kỳ 1976 – 1989 là thời gian mà ngành thép không có bước tiến đáng kể, chỉ phát triển ở mức đ ộ cầm ch ừng. Nguyên nhân của sự phát triển cầm chừng này phải kể đến tình hình khó khăn của nền kinh tế, đất nước rơi vào khủng hoảng, nền nông nghiệp được ưu tiên trước nhất. Bên cạnh đó, Việt Nam là nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, được ưu tiên nhập khẩu thép với giá rẻ từ Liên Xô cũ và các nước XHCN khác. Do thép nhập khẩu rẻ hơn nhiều
  19. so với sản xuất trong nước nên Việt Nam chọn phương án nhập khẩu thép để đáp ứng cho nhu cầu trong nước, vì vậy mà ngành thép không phát triển. Sản lượng chỉ duy trì ở mức 40.000 – 85.000 tấn/năm. Do thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế và chính sách mở cửa của Chính phủ, thời kỳ 1989 – 1995, ngành thép bắt đầu có bước tăng trưởng đáng kể, sản lượng thép sản xuất trong nước vượt ngưỡng 100.000 t ấn/năm. Đánh dấu sự phát triển vượt bậc của ngành thép Việt Nam là sự ra đời của Tổng công ty Thép Việt Nam vào năm 1990. Tổng công ty được thành lập với mục đính thống nhất quản lý ngành thép quốc doanh trong cả nước. Thời kỳ này, ngành thép Việt Nam như được thay da đổi thịt, xuất hiện nhiều dự án đầu tư theo chiều sâu và liên doanh với đối tác nước ngoài được thực hiện. Ngành thép Việt Nam cũng thu hút được sự quan tâm từ các ngành trọng điểm khác của nền kinh tế như ngành cơ khí, xây dựng, quốc phòng… tham gia đầu tư dự án nhỏ sản xuất thép để phục vụ sự phát triển của chính ngành mình. Sản lượng thép cán của ngành Thép năm 1995 đạt 450.000 tấn/năm, tương đương tăng gấp 4 lần so với năm 1990. Theo mô hình Tổng công ty 91, tháng 4/1995, Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất giữa Tổng công ty Thép Việt Nam và Tổng công ty kim khí. Giai đoạn 1996 – 2000, ngành thép Việt Nam tăng trưởng với tốc đ ộ cao và có nhiều dự án đầu tư mới theo chiều sâu, có thêm 13 dự án liên doanh, trong đó có 12 nhà máy liên doanh cán thép và gia công chế biến sau cán. Năm 2000, ngành Thép đạt sản lượng 1,57 triệu tấn. Từ năm 2000 trở đi, do tác động của chính sách mở cửa và hội nhập nền kinh tế, Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ tiềm năng thu hút nhiều dự án đầu tư từ phía đối tác nước ngoài. Theo đó, nhu c ầu về thép xây dựng cũng như thép dung trong các ngành công nghiệp khác tăng. Các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đ ầu tư theo chiều sâu các dự án nhằm đáp ứng tối đa cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong một vài năm qua, nhu cầu thép của Việt Nam đều tăng ở mức 2 con số mỗi năm. Đáp ứng mức tăng ấy, sản lượng sản xuất thép của các doanh nghiệp trong nước tăng mạnh theo từng năm. Tuy nhiên, thực trạng gần đây cho thấy, ngành Thép cung vẫn ch ưa đủ cầu, sản xuất thép trong nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước,
  20. với ngành đóng tàu dường như phải nhập thép nguyên liệu hoàn toàn do trình đ ộ kỹ thuật trong nước không đáp được nhu cầu về chất lượng. 1.2. ĐẶC ĐIỂM NGÀNH THÉP VIỆT NAM 1.2.1 Thực trạng phát triển ngành thép Việt Nam Cũng giống với các nước đang phát triển khác, sự phát triển của ngành Thép Việt Nam bị coi là đi theo chiều ngược khi công nghiệp cán có trước công nghiệp luyện, phần lớn do hạn chế về vốn đầu tư, do chính sách phát triển ngành. Ý kiến khác lại cho rằng ngành Thép sở dĩ phát triển ngược là do Việt Nam không có chính sách bảo hộ đúng mức cho phần gốc là luyện phôi thép, cho nên mặc dù thời gian gần đây ngành Thép phát triển được là nhờ nguồn phôi nhập khẩu, không tận dụng được lợi thế giàu tài nguyên của Việt Nam Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thép đến năm 2010, ban hành năm 2001, đặt ra năm 2005 ngành Thép đạt sản lượng sản xuất 1,2 – 1,4 t ấn phôi thép; 2,5 – 3,0 tấn thép cán các loại; 0,6 triệu tấn sản phẩm thép gia công sau cán. Kế hoạch đến năm 2010 ngành Thép sẽ đạt sản lượng sản xuất 1,8 triệu tấn phôi thép; 4,5 – 5,0 triệu tấn thép cán các loại và 1,2 – 1,5 triệu tấn sản phẩm thép gia công sau cán. Tính đến hết 2007, về căn bản ngành thép Việt Nam đã đ ạt đ ược chỉ tiêu so v ới kế hoạch đề ra. Sản lượng phôi thép năm 2007 đạt 782.000 tấn, thép cán đạt 2,2 triệu tấn thấp hơn so với quy hoạch phát triển ngành phải đạt đến năm 2005. Tuy rằng sản lượng mục tiêu chưa đạt được nhưng sản lượng thép tiêu thụ trong nước năm 2007 đã tăng từ 10 – 14% so với mức tiêu thụ năm 2006. Năm 2007, mức bình quân tiêu thụ thép của Việt Nam đạt xấp xỉ 100 kg/người/năm, mức được coi là điểm khởi đ ầu giai đoạn phát triển công nghiệp các quốc gia. Mức tiêu thụ này đã vượt xa dự báo về mặt tăng trưởng, đưa Việt Nam trở thành thị trường có mức tiêu thụ thép cao nhất thế giới. Cuối năm 2007 và đầu năm 2008 do bùng nổ của xây dựng, thị tr ường Thép th ế giới tăng nhanh chóng. Tại Việt Nam, giá thép thời gian này tăng gấp 4 l ần so v ới th ời gian trước đó và có lúc lên đến 18 triệu VND/tấn. Giá Thép tăng đã đẩy giá nhà thầu xây
nguon tai.lieu . vn