Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN TRẦN ÂN VẬN DỤNG QUY TẮC TAYLOR TRONG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS., TS. LÝ HOÀNG ÁNH TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016
  2. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang ngày trở nên toàn cầu hóa mạnh mẽ với sự hội nhập tài chính sâu rộng, vai trò của ngân hàng trung ương (NHTW) ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của NHTW các nước trên thế giới, vấn đề quan tâm hàng đầu vẫn là công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) nào là hiệu quả nhất và cách thức vận dụng như thế nào, cơ chế vận hành và kiểm soát. Thực tế hiện nay do bởi tính phức tạp của việc sử dụng khối lượng tiền là công cụ điều hành do khả năng không bền vững của cầu tiền một phần do sự bất ổn trong ngắn hạn hoặc phần khác bởi sự thay đổi liên tục tạo ra từ các đổi mới tài chính, các NHTW của các nền kinh tế hiện đại đang dần chuyển sang điều hành lãi suất mục tiêu thay cho khối lượng tiền tệ mục tiêu. Đa số NHTW trên thế giới, bao gồm cả Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) xác định mục tiêu đầu tiên của CSTT là ổn định giá trị của nội tệ của quốc gia, thông qua việc kiểm soát lạm phát. Lãi suất là một trong những công cụ được sử dụng để kiểm soát lạm phát một cách hữu hiệu. Thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT, NHTW khi quyết định mở rộng (thắt chặt) CSTT sẽ giảm (tăng) mức lãi suất chính sách (LSCS) thông qua tăng (giảm) cung tiền. LSCS thay đổi sẽ tác động đến các thị trường làm thay đổi lãi suất thị trường, qua đó tác động làm thay đổi nhu cầu chi tiêu dùng (C), nhu cầu chi đầu tư (I) và xuất khẩu ròng (NX) của nền kinh tế, kéo theo tổng cầu thay đổi. Khi tổng cầu tăng sẽ làm tăng GDP thực và mức giá chung và ngược lại. Sự tác động dẫn truyền của lãi suất trong cơ chế truyền dẫn CSTT cho thấy lãi suất là công cụ được lựa chọn để kiểm soát lạm phát hữu hiệu cũng như kích thích tăng trưởng kinh tế. Việt Nam do chưa hội nhập đầy đủ vào thị trường tài chính thế giới nên ít chịu ảnh hưởng bởi các cơn bão khủng hoảng tài chính song ít nhiều cũng có tác động đến nền kinh tế, cụ thể là tốc độ phát triển kinh tế chậm lại, chỉ số tiêu dùng năm 2008 tăng 19,89% và năm 2011 là 18,13%1 so với năm trước đó, nhiều dự án đã phải đình lại, giá cả tăng cao do đó mục tiêu kìm chế lạm phát ưu tiên so với mục tiêu phát triển kinh tế. Thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán đỏ liên tục, ảm đạm. Trong bối cảnh đó, hệ thống ngân hàng – hệ thống mạch máu của nền kinh tế - đóng vai trò quan trọng trong việc kìm chế hoặc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế mà lãi suất là một trong những công cụ tài chính quan trọng và cần thiết để điều tiết dòng chảy tiền tệ trong nền kinh tế. Lãi suất được điều chỉnh liên tục để phù hợp với từng thời kỳ của nền kinh tế. Vai trò điều tiết của NHNN quan trọng hơn bao giờ hết. Vấn đề đặt ra là loại lãi suất nào là lãi suất chủ đạo của CSTT và mức lãi suất bao nhiêu là phù hợp trong từng giai đoạn để đảm bảo thực hiện tốt hai nhiệm vụ cơ bản của CSTT là ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế. Một quyết định sai lầm về mức lãi suất có thể làm cho nền kinh tế bị ngưng trệ hoặc tăng trưởng quá nóng. Do vậy cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong từng thời kỳ có vai trò quan trọng giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể chủ động thực hiện chính sách lãi suất của mình phù hợp mục tiêu huy động và cho vay vốn. Quan trọng hơn, một khi Việt Nam hội nhập đầy đủ vào 1 Số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (www.gso.gov.vn)
  3. 2 nền kinh tế thương mại và tài chính thế giới, các ảnh hưởng từ nền kinh tế toàn cầu sẽ tác động mạnh mẽ vào các lĩnh vực kinh tế trong nước. Có nhiều mô hình liên quan đến việc xác lập LSCS từ đơn giản đến phức tạp, sử dụng các hàm số kinh tế lượng nhiều biến nhằm tối ưu hóa công cụ lãi suất để thực hiện CSTT một cách hiệu quả. Và trong nhiều mô hình đó, quy tắc của Giáo sư John B. Taylor, trường Đại học Standford, Mỹ được công nhận đơn giản và sát với LSCS của NHTW Mỹ (Cục Dự trữ Liên Bang - Fed), đặc biệt trong thời kỳ năm 1987 – 1992. Quy tắc Taylor xác định mức LSCS trên cơ sở sự thay đổi của chỉ số lạm phát, độ lệch về tổng sản lượng nền kinh tế theo GDP và độ lệch giữa tỉ lệ lạm phát thực tế và tỉ lệ lạm phát mục tiêu dài hạn. Xuất phát từ sự quan tâm đến vai trò hữu dụng của quy tắc Taylor trong việc tính toán mức LSCS làm cơ sở tham chiếu để đánh giá hiệu quả của CSTT của các nhà hoạch định chính sách trong bối cảnh Việt Nam chưa công bố thông tin về CSTT định kỳ và dư luận công chúng vẫn còn phải dự đoán tương lai lãi suất sẽ lên hay xuống mà chưa có cơ sở tham khảo khoa học, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam” để tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu. 2. Tổng quan về công trình nghiên cứu Trên thế giới và tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về quy tắc Taylor. Vì vậy, đề tài này không phải là một hướng nghiên cứu mới. Tuy nhiên, do tính chất của các biến số kinh tế vĩ mô là lãi suất, tăng trưởng kinh tế và lạm phát trong từng thời điểm, tại mỗi quốc gia đều khác nhau, do đó, nghiên cứu về các biến số này tại từng thời điểm đều rất cần thiết và hữu ích đối với mỗi quốc gia. Hầu hết các nghiên cứu về quy tắc Taylor trên thế giới và Việt Nam đi theo hướng kiểm định tính đúng đắn của CSTT với công cụ LSCS, trong khi đó luận án của nghiên cứu sinh bên cạnh việc kiểm chứng sự phù hợp của quy tắc Taylor đối với chính sách lãi suất của Việt Nam còn nghiên cứu, tìm tòi sự vận dụng của quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. Đây là hướng đi mới trong nghiên cứu. Trên thế giới đã có những nghiên cứu về quy tắc chính sách từ rất sớm, trước khi quy tắc Taylor ra đời vào năm 1993. Các nghiên cứu này tập trung nghiên cứu những CSTT có thể thực thi theo quy tắc nào đó và kết luận rằng CSTT nên được thực thi theo quy tắc tốt hơn là theo sự chủ động tùy ý. Một số quy tắc tiêu biểu như quy tắc Wicksell (1898) (Δi = θπ) cho rằng “lãi suất là biến thay đổi theo mức giá”, khi giá cả tăng thì lãi suất tăng và ngược lại; quy tắc Friedman (1960) về khối lượng tiền trong lưu thông được biết dưới tên gọi phương trình trao đổi nổi tiếng của Friedman (mv = pq). Quy tắc McCallum năm 1988 đưa ra quan điểm về khối lượng tiền trong lưu thông, theo đó sự biến thiên của khối lượng tiền trong lưu thông phụ thuộc vào sự biến thiên của thu nhập danh nghĩa tự nhiên của một quốc gia (Δx*) tương ứng với sự biến thiên của sản lượng tiềm năng tại mức lạm phát mục tiêu2. Năm 1993, Giáo sư John B. Taylor đã đưa ra quy tắc đề xuất tính mức LSCS trên cơ sở hai biến số kinh tế vĩ mô chính là lạm phát và mức tăng trưởng sản lượng, được biết với tên gọi là quy tắc Taylor (1993). Kể từ sau năm 1993, rất nhiều nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra các biến thể của quy tắc Taylor gốc (1993) tiêu biểu như dạng quy tắc Taylor nhìn về quá khứ, dạng hướng về tương lai, dạng hỗn hợp và dạng 2 Quy tắc McCallum được biểu diễn qua phương trình Δmt = Δx* - Δvt*+ 0.5 (Δx* - Δxt-1) (McCallum 2000)
  4. 3 kết hợp với các mô hình khác như kết hợp với mô hình về mức tăng cơ số tiền cơ sở được biết đến với tên quy tắc Taylor-McCallum, hoặc kết hợp với mô hình về mức tăng cơ số tiền cơ sở, vòng quay tiền, lạm phát và mức tăng sản lượng. Bên cạnh đó, mục tiêu của các NHTW là tối thiểu hóa sự biến động của lạm phát và sản lượng trong nền kinh tế sao cho giá trị hàm tổn thất đạt được là thấp nhất, được tính toán theo các giá trị dự báo của mức lạm phát và độ lệch sản lượng theo một lộ trình LSCS ước tính và NHTW sẽ chọn lựa giải pháp nào có giá trị hàm tổn thất tối ưu (có giá trị nhỏ nhất). Theo đó, các NHTW sẽ sử dụng quy tắc mục tiêu (targeting rules) là công cụ hướng dẫn thay cho quy tắc công cụ (instrument rules) thông qua việc sử dụng các quy tắc công cụ gắn liền với hàm tổn thất để tạo ra quy tắc mục tiêu với giá trị nhỏ nhất của hàm tổn thất mục tiêu. Bên cạnh các lý luận về quy tắc Taylor và các dạng phát triển mô hình dạng Taylor, có nhiều công trình nghiên cứu định lượng về quy tắc Taylor với các phương pháp hồi quy khác nhau và ở tại các quốc gia khác nhau. Để phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu của đề tài, nghiên cứu sinh đã tìm hiểu một số công trình tiêu biểu trên thế giới nghiên cứu về phân tích định lượng, khả năng vận dụng, đánh giá hiệu quả của CSTT thông qua các mô hình có dạng quy tắc Taylor liên quan đến nội dung của đề tài nghiên cứu, cụ thể là công trình của Soderlind, Soderstrom, và Vredin năm 2004 đã thực nghiệm phân tích quy tắc Taylor dạng làm phẳng lãi suất, hướng về tương lai ở bậc (t+1) và sử dụng kết hợp phương trình đường cung Phillips và phương trình đường cầu dạng IS theo mô hình New Keynesian của Rudebusch; công trình của Siklos và Wohar năm 2004 đã thực nghiệm phân tích quy tắc Taylor dạng làm phẳng lãi suất, nhìn về quá khứ ở bậc (t-1) với phương pháp hồi quy là bình phương nhỏ nhất (OLS); và công trình của Driffill và Rotondi năm 2007 đã thực nghiệm phân tích quy tắc Taylor dạng làm phẳng lãi suất, nhìn về quá khứ bậc (t-1) kết hợp mô hình dự báo lạm phát và sản lượng và đề cập đến hàm tổn thất. Phương pháp hồi quy OLS được sử dụng để dự báo tỉ lệ lạm phát và độ lệch sản lượng. Cả ba công trình nghiên cứu trên đều sử dụng mô hình làm phẳng lãi suất với các biến ở bậc 1 để kiểm định CSTT của Fed và sử dụng mô hình New Keynesian để tính toán giá trị hàm tổn thất thông qua việc dự báo sản lượng và tỉ lệ lạm phát bằng các mô hình kinh tế lượng. Tại Việt Nam, số lượng nghiên cứu về quy tắc Taylor và hàm tổn thất còn ít và phạm vi nghiên cứu cũng giới hạn bởi một loại lãi suất cố định của NHNN. Một số nghiên cứu khá chi tiết về quy tắc Taylor bao gồm các bài viết như sau: Tác giả Nguyễn Thị Hương Liên với đề tài “Taylor rule and Optimal monetary policy in Vietnam” đăng trên tạp chí Yokohama Journal of Social, quyển thứ 15 năm 2010 với dữ liệu quý ở giai đoạn 2000 – 2008 sử dụng các biến lãi suất công trái, độ lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và chênh lệch tỉ giá hối đoái danh nghĩa với phương pháp hồi qui OLS, đã kết luận không có bằng chứng cho thấy NHNN tuân theo quy tắc Taylor. Bên cạnh đó tác giả Liên đã sử dụng phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên để tính toán hệ số tối ưu của CSTT theo giá trị hàm tổn thất nhỏ nhất và đã đưa ra kết quả từ phương pháp mô phỏng cho thấy CSTT tối ưu có hệ số độ lệch sản lượng là 0,3 và hệ số lạm phát là 0,7. Nghiên cứu có đề cập đến hàm tổn thất để xác định hệ số tối ưu của quy tắc Taylor áp dụng cho một loại lãi suất là lãi suất công trái không phải là LSCS của NHNN. Tác giả Vũ Xuân Hòa với đề tài Taylor rule and optimal interest rate policy in Vietnam năm 2012 sử dụng dữ liệu quý giai đoạn 2000 – 2011 nghiên cứu ảnh hưởng của độ lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và tỉ giá hối đoái đến lãi suất ngắn hạn và kết
  5. 4 luận rằng không có bằng chứng cho thấy chính sách lãi suất Việt Nam tuân theo quy tắc Taylor. Nếu Việt Nam tuân theo quy tắc Taylor sẽ cải thiện được chính sách lãi suất. Về dài hạn NHNN nên tiếp tục tăng trưởng kinh tế và tiếp theo là kiểm soát lạm phát. Các tác giả Đào Mạnh Trường, Vũ Xuân Hòa và Nguyễn Thị Loan với đề tài Assessing Vietnam’s monetary policy through the perspective of monetary rules vào tháng 7 năm 2012 thực nghiệm quy tắc Taylor với dữ liệu quý trong thời gian năm 1996 – 2011, tỉ lệ lạm phát tính theo CPI, sản lượng tiềm năng tính theo bộ lọc HP, hiệu chỉnh thời vụ X12, lãi suất được chọn là lãi suất tái chiết khấu, quy tắc Taylor áp dụng ở dạng mô hình gốc và có sử dụng độ trễ bằng 1 với các biến ở bên phải của quy tắc. Nhóm tác giả đã kết luận là chính sách lãi suất của NHNN không tuân theo quy tắc Taylor mà thiên về chính sách chủ động tùy ý và chính sách lãi suất tập trung vào kiểm soát lạm phát. Nghiên cứu chỉ tập trung làm rõ quy tắc Taylor đối với lãi suất tái chiết khấu và kết luận về CSTT chưa đầy đủ. Qua ba nghiên cứu trên tại Việt Nam cho thấy các tác giả chỉ sử dụng một loại lãi suất duy nhất của NHNN để tính toán với quy tắc Taylor, trong đó không đề cập đến lãi suất cơ bản (LSCB) và trần lãi suất là loại lãi suất đặc trưng của NHNN được sử dụng đặc biệt trong thời kỳ lạm phát cao. Việc kết luận chính sách lãi suất của NHNN chỉ dựa trên một loại lãi suất mà không xem xét đến các loại lãi suất khác là chưa thể hiện đầy đủ vai trò và tác dụng của chính sách lãi suất của NHNN. Tóm lại, hầu hết các nghiên cứu về quy tắc Taylor trên thế giới và Việt Nam đều tập trung đánh giá tính đúng đắn của CSTT qua lăng kính quy tắc Taylor mà chưa đề cập nhiều đến hướng nghiên cứu khả năng vận dụng của quy tắc Taylor trong việc hoạch định và thực thi CSTT hay cụ thể hơn là chính sách lãi suất, đặc biệt ở Việt Nam. Vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất là hướng đi mới mà nghiên cứu sinh mong muốn làm rõ để có thể ứng dụng linh hoạt và phù hợp quy tắc Taylor trong việc hoạch định chính sách lãi suất trong điều kiện kinh tế Việt Nam. Do đó đề tài không trùng lắp với các công trình nghiên cứu và công bố trước đây. 3. Mục tiêu nghiên cứu - Khả năng và cách thức vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu cơ bản của CSTT là ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế bền vững. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. Luận án sẽ tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau đây: - Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về quy tắc Taylor. - Nghiên cứu kinh nghiệm phân tích và vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của một số NHTW trên thế giới, từ đó đúc kết bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và các điều kiện chính yếu để vận dụng quy tắc Taylor đối với các NHTW. - Phân tích thực trạng của chính sách lãi suất của NHNN từ năm 2000 đến năm 2015 bằng quy tắc Taylor để giải thích những hợp lý và bất hợp lý của chính sách lãi suất, nêu bật các thuận lợi và khó khăn khi vận dụng quy tắc Taylor ở Việt Nam đối chiếu với các điều kiện vận dụng quy tắc Taylor, qua đó đề xuất các giải pháp cơ bản để vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.
  6. 5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là sự vận dụng của quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. Phạm vi nghiên cứu về nội dung là lý luận chung về quy tắc Taylor và vai trò của quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHTW; kinh nghiệm vận dụng quy tắc Taylor của các NHTW Mỹ, Châu Âu, Anh, Úc và Nhật trong việc hoạch định và điều hành chính sách lãi suất; các điều kiện áp dụng; các thuận lợi và khó khăn khi vận dụng quy tắc Taylor tại Việt Nam; và các phương pháp phân tích chính sách lãi suất sử dụng quy tắc Taylor. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2000 đến năm 2015. Các giải pháp đề xuất dựa trên định hướng phát triển kinh tế xã hội và CSTT đến năm 2020. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm phương pháp thống kê, so sánh đối chứng, phương pháp phân tích định lượng bao gồm phương pháp tính toán thông thường và phương pháp phân tích kinh tế lượng (hồi quy mô hình đa biến bằng phương pháp bình phương tối thiểu OLS, phương pháp TSLS -Two-stage least quare, mô hình vec-tơ tự hồi quy VAR, phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên). 6. Những đóng góp và hạn chế của luận án Theo quan điểm của tác giả, đóng góp chính của luận án gồm có: - Nghiên cứu quy tắc Taylor một cách tương đối chi tiết, đầy đủ với mô hình gốc và các dạng phát triển quy tắc Taylor hiện nay. - Việc vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành chính sách lãi suất của NHNN dựa trên kinh nghiệm vận dụng quy tắc Taylor của một số NHTW trên thế giới như NHTW Mỹ (Fed), Châu Âu, Anh, Nhật Bản và Úc áp dụng vào điều kiện kinh tế đặc thù của Việt Nam, đúc kết các điều kiện cần thiết để có thể vận dụng quy tắc Taylor của một NHTW. - Kiểm định đầy đủ các loại lãi suất điều hành của NHNN là LSCB, trần lãi suất huy động (TLS), lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), và lãi suất tái cấp vốn (LSTCV) theo quy tắc Taylor trên cả hai phương cách là (i) phương pháp tính thông thường không hồi quy theo các hệ số cố định và (ii) phân tích mô hình kinh tế lượng. Từ đó đưa ra kết luận về thực trạng chính sách lãi suất của NHNN trong thời kỳ năm 2000 – 2015 và tính hiệu quả của quy tắc Taylor khi áp dụng trong chính sách lãi suất của NHNN. Kết quả phân tích chính sách lãi suất với các bằng chứng thực nghiệm minh chứng tính hiệu quả khi ứng dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. - Tính toán hàm tổn thất theo ba dạng khác nhau dựa trên phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên để rút ra hệ số độ lệch lạm phát và hệ số độ lệch sản lượng của CSTT tối ưu và kiểm định các hệ số đó trong điều kiện kinh tế vĩ mô thực tế ở Việt Nam giai đoạn năm 2000 - 2015. - Các giải pháp tổng thể về vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN nhằm nâng cao hiệu quả, độ tin cậy và sự minh bạch trong chính sách lãi suất của NHNN. Ngoài ra, luận án cũng có một số hạn chế nhất định: - Do nguồn dữ liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa đảm bảo sự thống nhất và độ chính xác nên kết quả nghiên cứu định lượng chịu ảnh hưởng nhất định từ tính chất của dữ liệu.
  7. 6 - Quy tắc Taylor được các nhà kinh tế trên thế giới nghiên cứu chuyên sâu dưới nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều quốc gia từ năm 1993 đến nay nên trong thời hạn nghiên cứu cho phép, nghiên cứu sinh chỉ có thể tiếp cận các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên thế giới nên mặc dù cố gắng trình bày các vấn đề cốt lõi liên quan đến quy tắc Taylor, có thể còn một số khía cạnh về lĩnh vực này nghiên cứu sinh chưa đề cập đến. - Quy tắc Taylor được các nhà kinh tế sử dụng với mục đích chính là kiểm nghiệm lại CSTT hay chính sách lãi suất đã được hoạch định trước đó nên việc nghiên cứu vận dụng quy tắc này vào cơ chế điều hành lãi suất là một hướng đi mới, do đó không khỏi có những vấn đề còn tranh luận. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu, nghiên cứu sinh đã cố gắng đề xuất một số giải pháp cơ bản để có thể vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng, danh mục các hình, danh mục các công trình công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án bao gồm bốn chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về quy tắc Taylor và vai trò quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương – Sự vận dụng ở các nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Chương 2: Phương pháp phân tích thực trạng chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bằng quy tắc Taylor. Chương 3: Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qua phân tích bằng quy tắc Taylor. Chương 4: Các giải pháp cơ bản vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY TẮC TAYLOR VÀ VAI TRÒ QUY TẮC TAYLOR TRONG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG – SỰ VẬN DỤNG Ở CÁC NƢỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 1.1 Những vấn đề cơ bản về quy tắc Taylor 1.1.1 Khái niệm Quy tắc Taylor là mô hình CSTT được giới thiệu bởi Giáo sư Taylor năm 1993 mô tả LSCS ngắn hạn (FFR) của Fed được đo lường bằng hai thành tố chủ yếu là độ lệch lạm phát giữa mức lạm phát thực tế so với tỉ lệ lạm phát mục tiêu và độ lệch sản lượng giữa mức sản lượng thực tế so với sản lượng tiềm năng. Một cách khái quát, quy tắc Taylor là hàm phản ứng của NHTW trước cục diện kinh tế thay đổi (tỉ lệ lạm phát và độ lệch sản lượng). 1.1.2 Quy tắc Taylor tính lãi suất chính sách Công thức nguyên thủy của Giáo sư Taylor (1993) như sau: it = πt + 0,5(yt)+ 0,5(πt – 2) + 2 (1.1) và dạng tổng quát: it = πt + r* + α(πt – π*) + β(yt) (1.2)
  8. 7 Trong đó: it : LSCS của Fed; r*: Lãi suất thực cân bằng (equilibrium real interest rate); πt: Tỉ lệ lạm phát bình quân qua 4 quý liên tiếp (Judd và Rudebusch 1998); π*: Tỉ lệ lạm phát mục tiêu dài hạn; yt: Độ lệch sản lượng (output gap), yt = 100 x Ln(GDP thực/GDP tiềm năng) (Kozichi 1999); α: hệ số độ lệch lạm phát; β: hệ số độ lệch sản lượng Biến đổi công thức (1.2) ta có dạng như sau: it = π* + r* + 1,5(πt – π*) + 0,5 (yt) (1.3) Từ công thức (1.3) cho thấy “nguyên tắc Taylor” gắn với quy tắc Taylor yêu cầu LSCS thực phải tăng khi tỉ lệ lạm phát thực vượt qua mức lạm phát mục tiêu. Dạng tổng quát của (1.3) sẽ là: it = π* + r* + βπ(πt – π*) + βy(yt) (1.4) Trong đó, βπ=1+α, βy = β. Billi (2011) trình bày một dạng biến thể của quy tắc Taylor như sau: it = π* + r* + βπ(πt – π*) + βy(gt – g*) (1.5) Trong đó: gt là mức tăng trưởng GDP thực và g* là xu hướng tăng trưởng của GDP thực được đo lường bằng mức bình quân tỉ lệ tăng trưởng GDP trong giai đoạn dài. + Nếu πt > π* hoặc GDP thực > GDP tiềm năng (hay yt > 0) thì it sẽ tăng. + Nếu πt < π* hoặc GDP thực < GDP tiềm năng (hay yt < 0) thì it sẽ giảm. + Nếu πt > π* và GDP thực < GDP tiềm năng (hay yt < 0): Xảy ra khi tỉ lệ lạm phát thực vượt mức lạm phát mục tiêu trong khi mức sản lượng thực dưới sản lượng tiềm năng. Đây là tình trạng lạm phát đình trệ (stagflation) của nền kinh tế. Trong trường hợp này, quy tắc Taylor đóng vai trò trung hòa giữa hai thành tố xảy ra theo hướng nghịch nhau là lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đưa ra một mức LSCS phù hợp mang tính chất chỉ dẫn. Xét hai mô hình sau: a1. it = π* + r* + 1,5(πt – π*) + 0,5 (yt) a2. it = π* + r* + 0,5(πt – π*) + 0,5 (yt) Sự khác biệt giữa hai mô hình (a1) và (a2) được xác định như sau: - it của (a1) lệch với it của (a2) một khoảng bằng (πt – π*). Điều này cho thấy khi tỉ lệ lạm phát thực càng lớn hơn so với lạm phát mục tiêu, sự cách biệt giữa it theo quy tắc Taylor (a1) càng lớn so với it theo quy tắc Taylor (a2). Khi lãi suất trở nên quá cao sẽ tác động rất mạnh đến tiêu dùng và đầu tư, tín dụng bị hạn chế, chi tiêu dùng và chi đầu tư giảm mạnh, các doanh nghiệp lo ngại kinh doanh không có lãi nên không phát triển kinh doanh sản xuất, hàng hóa khan hiếm, cung hàng hóa giảm sẽ tiếp tục gây áp lực lên lạm phát. Điều đó giải thích lý do tại sao một số NHTW thận trọng khi áp dụng nguyên lý “lãi suất cao chống lạm phát cao”. - Khi πt = π*: không có sự khác biệt của it giữa (a1) và (a2). - Khi πt < π*: giá trị it tính theo (a1) sẽ nhỏ hơn so với it tính theo (a2). Ví dụ về tính toán LSCS theo quy tắc Taylor của NHTW Iceland (với các dữ liệu từ tháng 11 năm 2000 đến tháng 3 năm 2001: π*=2,5%, r*=4%, πt = 9% và ước lượng yt = 3%; NHTW Iceland đã áp dụng mức LSCS là 11,4%, sát với mức lãi suất tính từ mô hình a2: 11,25% hơn mô hình a1: 17,75%) và NHTW Romania (dữ liệu từ năm 2002-2010: độ lệch trung bình giữa LSCS của NHTW Romania và lãi suất tính theo quy tắc Taylor từ mô hình a1: -3,46, từ a2: -1,53) cho thấy LSCS của các NHTW này sát với mức lãi suất tính từ mô hình (a2) với cặp hệ số (βπ, βy) là (0,5; 0,5).
  9. 8 1.2 Các thành tố quyết định tính chính xác của quy tắc Taylor 1.2.1 Lãi suất thực cân bằng (r*) hay Lãi suất tự nhiên3 Lãi suất tự nhiên (LSTN) tương đương với mức lãi suất thực cân bằng đối với nền kinh tế, là mức lãi suất tại đó CSTT là trung tính, không thắt chặt cũng như không nới lỏng. Tổng quát hơn, LSTN được định nghĩa như là mức lãi suất phù hợp với mức sản lượng hội tụ về mức sản lượng tiềm năng, tại đó mức sản lượng phù hợp với mức lạm phát ổn định. Một NHTW mong muốn giữ giá cả bền vững phải hành động nhằm giữ mức lãi suất thực tế của ngân hàng bằng với mức LSTN. Quan điểm này gần đây trở thành một phần quan trọng trong học thuyết kinh tế Keynes mới. Khi NHTW giữ LSCS thấp hơn mức LSTN nhằm gia tăng sử dụng các tài nguyên, đó là sự thể hiện CSTT nới lỏng; ngược lại nếu NHTW giữ LSCS cao hơn mức LSTN nhằm hạn chế sử dụng các tài nguyên thể hiện CSTT thắt chặt. LSTN thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào mức độ biến động của kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến nền kinh tế và phải được xác định trước khi có thể quyết định CSTT nới lỏng hay thắt chặt. Trong thực tế, việc xác định mức LSTN là khó khăn, phụ thuộc vào việc chọn lựa phương pháp ước lượng, ví dụ như ước lượng LSTN căn cứ vào các giá trị lãi suất lịch sử hoặc trên cơ sở LSTN của các quốc gia khác, phương pháp sử dụng mô hình kinh tế lượng dùng bộ lọc Kalman và phương pháp tính bình quân lãi suất thực qua một thời kỳ. 1.2.2 Lạm phát mục tiêu Lạm phát mục tiêu là ý muốn chủ quan của các nhà hoạch định kinh tế trên cơ sở điều kiện kinh tế và các chỉ tiêu dự báo để ước lượng một mức lạm phát mong đợi trong một giai đoạn kinh tế nhất định. 1.2.3 Độ lệch sản lƣợng Độ lệch sản lượng được đo lường bằng sự khác biệt giữa sản lượng thực và sản lượng tiềm năng qua công thức sau: ̅ ̅ (1.6) Trong đó: OGAP: độ lệch sản lượng; Yt: sản lượng thực tính theo giá năm gốc năm thứ t; ̅ là sản lượng tiềm năng năm thứ t. Sản lượng tiềm năng là số lượng hàng hóa và dịch vụ tối đa một nền kinh tế có thể đạt được ở trạng thái hiệu quả nhất, đó là năng lực toàn dụng. Sản lượng tiềm năng được xem như là năng lực sản xuất của một nền kinh tế. Bất kỳ phương pháp ước lượng sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào điều kiện giả thiết của mô hình và chuỗi số liệu. Các phụ thuộc này là chủ thể của sự không chắc chắn và sai số. Một số phương pháp xác định sản lượng tiềm năng bao gồm phương pháp tách thành phần dữ liệu sử dụng bộ lọc Hodrick-Prescott hoặc mô hình không gian-trạng thái của Watson hoặc một số kỹ thuật phức tạp khác như mô hình MV (multivariate), SVAR (structural vector auto-regression), multivariate unobserved components (UC), và phương pháp dùng hàm sản xuất Cobb-Douglas. Trong các điều kiện kinh tế khác không đổi, nếu OGAP dương, khi đó giá cả bắt đầu tăng do phản ứng với áp lực cầu tăng trên thị trường, điều này thường xảy ra trong nền kinh tế tăng trưởng nóng làm gia tăng áp lực lạm phát và NHTW có thể áp 3 Hai khái niệm này sử dụng tương đương. Trong luận án tác giả sử dụng thuật ngữ lãi suất tự nhiên
  10. 9 dụng CSTT thắt chặt để làm nguội nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất. Ngược lại, nếu OGAP âm, giá cả bắt đầu giảm tương ứng với việc áp lực cầu giảm, thường xảy ra trong thời kỳ suy thoái kinh tế, NHTW có thể áp dụng CSTT mở rộng bằng cách hạ thấp lãi suất, thúc đẩy tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi OGAP bằng không (0), nền kinh tế ở trạng thái việc làm đầy đủ. Đây là một trong những mục tiêu CSTT của NHTW. Sản lượng thực tăng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng không phải lúc nào cũng gây ra lạm phát. Nếu sự tăng trưởng sản lượng thực do kết quả của sự tăng năng suất lao động, hay nếu có sự trì trệ trước đây trong nền kinh tế, các doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu gia tăng bằng cách sử dụng tốt hơn, hiệu quả hơn các yếu tố sản xuất (các sốc cung hàng hóa), thường không gây áp lực gia tăng tỉ lệ lạm phát. Tuy nhiên, nếu sản lượng thực tăng do cầu tăng vượt quá mức sản lượng tiềm năng sẽ gây tăng tỉ lệ lạm phát. 1.2.4 Một số khái niệm kinh tế vĩ mô + Độ lệch lãi suất được định nghĩa là sự chênh lệch giữa lãi suất thực và LSTN. + Độ lệch thất nghiệp là sự chênh lệch giữa tỉ lệ thất nghiệp thực tế và tỉ lệ thất nghiệp không gia tăng lạm phát (NAIRU). NAIRU là tỉ lệ thất nghiệp tương ứng với mức lạm phát bền vững. Sự chênh lệch của tỉ lệ thất nghiệp so với NAIRU có liên quan đến sự chênh lệch của sản lượng thực và mức sản lượng tiềm năng. Tỉ lệ thất nghiệp xoay quanh giá trị NAIRU. Nếu các nhà hoạch định chính sách đạt được tỉ lệ thất nghiệp ở mức bằng với NAIRU, nền kinh tế sẽ sản xuất ra giá trị sản lượng tối đa mà không có hạn chế về nguồn lực, hay nói cách khác đi là trong điều kiện độ lệch sản lượng bằng 0 và không có áp lực lạm phát (lạm phát ổn định). + Trạng thái cân bằng lý tưởng của nền kinh tế đạt được khi các độ lệch kinh tế vĩ mô (độ lệch sản lượng, độ lệch lạm phát, độ lệch lãi suất và độ lệch thất nghiệp) bằng không. 1.3 Quan hệ giữa các thành tố và ý nghĩa các hệ số trong quy tắc Taylor 1.3.1 Quan hệ giữa các thành tố Từ công thức (1.2), biến đổi về phép tính đơn giản, ta có: (1.7) (it – πt) là lãi suất thực của nền kinh tế tại kỳ t hay bằng rt; (rt – r*) là độ lệch lãi suất. Như vậy phương trình (1.7) dạng tổng quát đơn giản của quy tắc Taylor có nghĩa diễn đạt như sau: Độ lệch lãi suất = α(độ lệch lạm phát) + β(độ lệch sản lƣợng) Bên cạnh đó, phương trình (1.2) có thể biểu diễn bằng cách khác: (1.8) Gọi i**= πt + r* là mức lãi suất cơ sở, (1.8) có thể viết lại như sau: (1.9) Hay: Độ lệch LSCS = α(độ lệch lạm phát) + β(độ lệch sản lƣợng) Như vậy, độ lệch LSCS là độ khác biệt giữa LSCS ngắn hạn danh nghĩa của NHTW với mức lãi suất cơ sở là tổng của tỉ lệ lạm phát thực tế và LSTN hay là LSTN danh nghĩa.4 4 Từ công thức Fisher: lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỉ lệ lạm phát kỳ vọng, tác giả đưa ra khái niệm về LSTN danh nghĩa khi thay lãi suất thực bằng lãi suất (thực) tự nhiên (natural real interest rate) trong công thức Fisher với tên tiếng Anh là nominal natural interest rate
  11. 10 1.4 Các dạng phát triển của quy tắc Taylor và mô hình kinh tế lƣợng 1.4.1 Dạng phát triển nhìn từ quá khứ (back-looking) Quy tắc Taylor dạng nhìn từ quá khứ có dạng tổng quát như sau: (1.10) Trong đó: c = r* - απ*; βπ = 1 + α; 0
  12. 11 1.4.4 Dạng kết hợp với các mô hình khác 1.4.4.1 Mô hình kết hợp giữa cơ số tiền, lạm phát và mức tăng sản lƣợng Danfeng (2008) đề cập đến mô hình dạng này như sau: ( ) (1.20) Trong đó, [Δm = ln(mt) – ln(mt-1)] là tỉ lệ tăng của cơ số tiền cơ sở; là tốc độ vòng quay tiền cơ sở bình quân trong 16 quý (theo McCallum); Δx* là tỉ lệ tăng GDP danh nghĩa mục tiêu, được tính bằng tổng của tỉ lệ lạm phát mục tiêu và tỉ lệ tăng bình quân của GDP thực dài hạn; (Δx* - Δxt-1) là độ lệch mức tăng sản lượng GDP danh nghĩa; λ là hệ số của độ lệch (Δx* - Δxt-1). 1.4.4.2 Mô hình kết hợp giữa cơ số tiền, độ lệch lạm phát, độ lệch sản lƣợng và độ lệch tỉ giá hối đoái Mehrotra and Sánchez-Fung (2010) đưa ra dạng mô hình kết hợp như sau: (1.21) Trong đó: (π - π*): độ lệch lạm phát giữa tỉ lệ lạm phát thực tế và mức lạm phát mục tiêu; (y - y*): độ lệch sản lượng giữa sản lượng (GDP) thực tế so với sản lượng tiềm năng; (e - e*): độ lệch tỉ giá hối đoái đo lường sự cách biệt giữa tỉ giá hối đoái theo trọng số thương mại và xu hướng của nó. 1.5 Vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW 1.5.1 Các mục tiêu và công cụ chính sách của ngân hàng trung ƣơng NHTW thực hiện các mục tiêu CSTT trên cơ sở các công cụ của mình thông qua các chỉ tiêu hoạt động và chỉ tiêu trung gian theo Bảng 1.1. Bảng 1.1: Các công cụ, chỉ tiêu và mục tiêu chính sách tiền tệ của NHTW Các công cụ Chỉ tiêu hoạt Chỉ tiêu trung Mục tiêu chính của NHTW động (policy gian sách tiền tệ instruments) -Nghiệp vụ thị -Tổng lượng dự trữ -Tổng lượng -Ổn định giá cả trường mở (dự trữ, dự trữ tiền tệ (M1, -Việc làm cao -Chính sách không vay, cơ số M2) -Tăng trưởng chiết khấu tiền tệ, cơ số không -Lãi suất (ngắn kinh tế -Dự trữ bắt vay hạn và dài hạn) -Ổn định thị buộc -Lãi suất ngắn hạn trường tài chính ví dụ như FFR -Ổn định lãi suất (federal funds rate) -Ổn định thị trường ngoại hối Nguồn: Mishkin (2010) 1.5.2 Chính sách lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ƣơng “Cơ chế quản lý (điều hành) là việc sử dụng các công cụ để điều tiết các hoạt động kinh tế theo hướng kích hoạt hướng dẫn hoặc hạn chế các hoạt động kém hiệu quả hoặc không có lợi cho quốc kế dân sinh”, và “chính sách được hiện thực hóa bằng việc sử dụng các công cụ điều hành (cơ chế quản lý)” (Nguyễn Thanh Tuyền và Nguyễn Lê Anh 2015). Do vậy, cơ chế điều hành lãi suất của NHTW có thể được hiểu là cách thức sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm đạt được
  13. 12 các mục tiêu của CSTT, và chính sách lãi suất được thực thi thông qua cơ chế điều hành lãi suất. NHTW ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào tình hình và đặc điểm nền kinh tế có những loại lãi suất khác nhau và cách thức điều hành khác nhau ví dụ như LSCB, LSTCK, LSTCV, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chính thức, v.v. Xét về phương diện đối tượng tác động, theo tác giả, cơ chế điều hành lãi suất được phân loại như sau: - Cơ chế điều hành trực tiếp: NHTW sử dụng công cụ lãi suất tác động trực tiếp đến các hoạt động đầu tư, tiết kiệm, chi tiêu của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế, ví dụ cơ chế điều hành LSCB của NHNN. Cơ chế điều hành lãi suất dạng này mang tính mệnh lệnh hành chính. - Cơ chế điều hành gián tiếp: NHTW sử dụng công cụ lãi suất tác động đến các TCTD, ngân hàng thương mại (NHTM), các tổ chức trung gian tài chính thông qua thị trường tài chính qua đó điều tiết quan hệ cung-cầu vốn trong nền kinh tế, ví dụ như cơ chế điều hành lãi suất điều hòa vốn dự trữ (FFR) của Fed, cơ chế điều hành LSCB chính thức của NHTW Anh. Cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp mang tính thị trường, định hướng. Thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT, sự thay đổi LSCS của NHTW được dẫn truyền qua các kênh truyền dẫn tác động đến tổng cầu, cuối cùng là ảnh hưởng đến mức lạm phát. 1.5.3 Cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ Cơ chế truyền dẫn CSTT với công cụ CSTT là lãi suất ngắn hạn bắt đầu từ sự thay đổi về LSCS ngắn hạn tác động đến thị trường tài chính với sự thay đổi của lãi suất thị trường và giá cả tài sản, dẫn truyền tác động từ thị trường tài chính đến thay đổi hành vi tiêu dùng của cá nhân và doanh nghiệp làm thay đổi GDP và mức lạm phát. Như vậy, việc thay đổi cách thức điều hành lãi suất của NHTW sẽ tác động đến các hoạt động của nền kinh tế thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT. Quy tắc Taylor mô tả cách thức tính toán mức LSCS dựa trên sự thay đổi của độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế vĩ mô của từng quốc gia trong từng thời kỳ, do đó việc vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW có vai trò quan trọng nhất định trong hoạch định và điều hành CSTT. 1.5.4 Vai trò của quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Thứ nhất, quy tắc Taylor mang tính định hướng về LSCS, làm cơ sở để các NHTW quyết định mức lãi suất phù hợp với từng thời kỳ kinh tế. Thứ hai, quy tắc Taylor cung cấp độ tin cậy đủ để các NHTW ra các quyết định về chính sách lãi suất hay bao quát hơn là CSTT. Điều này chứng minh qua các nghiên cứu và ứng dụng quy tắc Taylor trên toàn thế giới5. Thứ ba, LSCS đang dần trở thành công cụ thực thi CSTT, do đó vai trò của quy tắc Taylor trong việc hoạch định và đánh giá sự phù hợp của chính sách lãi suất hay rộng hơn là CSTT ngày càng trở nên quan trọng. Công cụ kiểm soát qua khối lượng tiền lưu thông ngày nay càng trở nên ít tác dụng so với mục tiêu kiểm soát lãi suất. 5 Tham khảo phần 1.4
  14. 13 1.5.5 Quy tắc Taylor trong nền kinh tế mở Trong một nền kinh tế mở, vai trò của tỉ giá hối đoái được xem là quan trọng do sự trao đổi thương mại của các quốc gia tác động đến CSTT. Thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát. Do vậy một số nhà kinh tế học đã đưa yếu tố tỷ giá hối đoái vào quy tắc Taylor để xem xét tác động của nó đến việc thay đổi LSCS như mô hình của Ball (1999), Batini và Millard (2001), Woglom (2003), Qin và Enders (2008), Barnett và Duzhak (2008) hay của Mehrotra và Sánchez-Fung (2010). Tuy nhiên, Giáo sư Taylor (2007) cho rằng quyết định CSTT tối ưu nên phản ứng chủ yếu với tỉ lệ lạm phát và GDP thực mà không phản ứng trực tiếp với tỉ giá hối đoái. Hay nói cách khác, để tối thiểu hóa hàm mục tiêu, quy tắc chính sách của NHTW bao gồm tỉ lệ lạm phát thực (so với mức lạm phát mục tiêu) và GDP thực (so với GDP tiềm năng) mà không bao gồm sự thay đổi trong tỉ giá hối đoái. Nhiều nghiên cứu về các mô hình của nền kinh tế mở, quy mô nhỏ như quy tắc Ball (1999) chỉ ra CSTT phản ứng với tỷ giá hối đoái có thể cải thiện thành quả kinh tế nhưng kết quả đạt được nhỏ. Các nghiên cứu bởi Batini, Levine, và Pearlman năm 2007 cho thấy CSTT không phản ứng với tỉ giá hối đoái là gần như tối ưu. Tương tự, Coenen, Lombardo, Smets, và Straub năm 2007 nghiên cứu về lợi ích của việc liên kết CSTT giữa các quốc gia và thấy rằng lợi ích đạt được là nhỏ. Vai trò không đáng kể của tỷ giá hối đoái trong quy tắc Taylor được giải thích như sau: i. Tỷ giá hối đoái biến động hơn GDP thực và tỉ lệ lạm phát. Do vậy, phản ứng theo tỷ giá hối đoái có thể làm cho lãi suất dao động nhiều hơn, từ đó có thể gây tác hại cho nền kinh tế. ii. Phản ứng với tỉ lệ lạm phát tự động đưa đến phản ứng đối với tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái giảm đến một mức nào đó sẽ truyền dẫn đến lạm phát. Do vậy, tăng lãi suất khi tỉ lệ lạm phát tăng là một phần của phản ứng đến việc tỷ giá hối đoái giảm. 1.6 Vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của một số ngân hàng trung ƣơng trên thế giới 1.6.1 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Mục tiêu CSTT của Fed bao gồm ba mục tiêu chính là ổn định giá cả, mức lãi suất dài hạn vừa phải, và tối đa việc làm. Công cụ CSTT của Fed hiện nay là lãi suất của các khoản vay qua đêm trên thị trường vốn dự trữ (FFR). Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của Fed Việc trao đổi và vận dụng quy tắc Taylor tại các cuộc họp của Ủy ban Thị trường mở Liên bang Mỹ (FOMC) tập trung ở các nội dung: (i) Quy tắc Taylor là sự hướng dẫn cho chính sách tiền tệ; (ii) Quy tắc Taylor là khung để phân tích các vấn đề. Thông qua phân tích việc vận dụng quy tắc Taylor của Fed, một số vấn đề chính có thể được rút ra như sau: + Quy tắc Taylor được xem là công cụ hướng dẫn đối với việc quyết định CSTT và được các nhà lãnh đạo Fed tin tưởng như Janet Jellen, Lawence Meyer, Edward Gramlich, Robert Parry. + Các vấn đề đặt ra khi vận dụng quy tắc Taylor: chọn chỉ tiêu đo lường tỉ lệ lạm phát: chỉ số giảm phát GDP hay CPI; sự chính xác trong đo lường sản lượng tiềm năng và LSTN do hai đại lượng này không quan sát được và thay đổi theo thời gian. + Chọn lựa mô hình quy tắc Taylor: mô hình khác nhau sẽ dẫn đến kết quả khác nhau; dạng hướng về quá khứ cho kết quả tính toán gần sát với LSCS thực tế của Fed thời kỳ năm 2003 – 2004; sử dụng độ trễ với các thành tố bên phải quy tắc Taylor cho
  15. 14 kết quả hồi qui có ý nghĩa thống kê cao và gia tăng khả năng giải thích của quy tắc Taylor; quá trình điều chỉnh LSCS bằng các bước nhỏ nên sử dụng mô hình làm phẳng lãi suất. + Trường hợp giới hạn lãi suất bằng 0: khi lãi suất bằng 0, công cụ lãi suất hầu như không có tác dụng nên các nhà hoạch định CSTT sử dụng các công cụ khác để kích thích tăng trưởng kinh tế như tăng cơ số tiền, tăng tỉ lệ tín dụng, v.v. 1.6.2 Ngân hàng Trung ƣơng Anh Một trong bốn mục tiêu CSTT của NHTW Anh là lãi suất thị trường qua đêm phải phù hợp với mức LSCB chính thức của NHTW (official Bank rate). NHTW Anh hoạt động dưới chế độ CSTT lạm phát mục tiêu chính thức kể từ tháng 10 năm 1992. Theo đó, NHTW Anh hoạt động theo quy tắc lạm phát mục tiêu hơn là qui tắc công cụ chính sách giống như quy tắc Taylor. Công cụ CSTT của NHTW Anh là LSCB chính thức của NHTW trả trên dự trữ của NHTM kể từ ngày 18 tháng 5 năm 2006 cho đến hiện nay6. Khuôn khổ CSTT của NHTW Anh là sự cam kết tỉ lệ lạm phát thấp được duy trì ở mức 2,5%/năm. Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Anh NHTW Anh không sử dụng quy tắc công cụ chính sách để hoạch định chính sách. Các thành viên NHTW và Ủy ban CSTT (MPC) xem xét cách thức tính toán công cụ chính sách của một số mô hình làm cơ sở so sánh với với LSCS hiện hành. Các quy tắc đó là quy tắc Taylor, quy tắc McCallum và quy tắc Brainard. Thông qua việc phân tích sự vận dụng quy tắc Taylor của NHTW Anh, một số vấn đề chính được rút ra như sau: + Quy tắc Taylor là một trong ba quy tắc được sử dụng để tính toán LSCS theo lý thuyết so sánh với LSCS thực tế. + Dạng quy tắc Taylor sử dụng có hệ số cố định: hệ số lạm phát bằng 1,5 và hệ số độ lệch sản lượng là 0,5. + Sử dụng độ trễ bằng 1 với các biến số lạm phát và sản lượng. Trong trường hợp này kết quả tính toán cho thấy hệ số sản lượng dao động trong khoảng (0,25, 0,75). 1.6.3 Ngân hàng Trung ƣơng Châu Âu (ECB) Mục tiêu cơ bản của CSTT của ECB là duy trì sự ổn định giá cả, tỉ lệ lạm phát thấp hơn nhưng gần ở mức 2% trong thời kỳ trung hạn (https://www.ecb.europa.eu/ ECB: Monetary Policy ). Công cụ CSTT của ECB bao gồm các loại lãi suất chủ yếu: - Lãi suất trên nghiệp vụ tài trợ chính (MRO – main refinancing operations) để cung cấp tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. - Lãi suất tiền gửi mà các ngân hàng có thể sử dụng để tạo các khoản tiền ký gửi qua đêm với cơ quan quản lý tiền tệ khu vực đồng Euro (Eurosystem). - Lãi suất tiền vay biên tế đối với các khoản cho vay qua đêm đối với các ngân hàng từ cơ quan quản lý tiền tệ khu vực đồng Euro. Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Châu Âu Thông qua các dự án tính toán trong phần phân tích kinh tế từ các nhân viên của ECB, quy tắc Taylor cũng có khả năng được xem xét dưới việc thực hiện các dự án kinh tế vĩ mô. ECB đã sử dụng mô hình theo vùng (AWM – Area-wide model) để đánh giá các điều kiện kinh tế, dự báo và phân tích chính sách. Trong đó lãi suất ngắn 6 http://www.bankofengland.co.uk/statistics/pages/iadb/notesiadb/wholesale_baserate.aspx
  16. 15 hạn danh nghĩa được tính toán theo dạng của công thức tính lãi suất đơn giản có dạng log-linear về cơ bản dựa trên độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng. Lãi suất ngắn hạn được quyết định bởi một quy tắc Taylor chuẩn tắc (Asso, Kahn và Leeson 2010). Lee và Crowley (2010) đã đánh giá CSTT của ECB đối chiếu với quy tắc Taylor qua dữ liệu của 12 nước thành viên ECB trong giai đoạn từ năm 1999 – 2009 với LSCS (it) là Euribor 3 tháng là loại LSCS đối với tất cả các nước thành viên ECB sau khi họ trao trách nhiệm hoạch định CSTT cho ECB vào năm 1999. Sử dụng ba mô hình tính toán LSCS là quy tắc Taylor gốc với các hệ số mặc định, quy tắc Taylor tối ưu biến thể từ quy tắc Taylor gốc với các hệ số tối ưu rút ra từ quy tắc Taylor gốc gần với mô hình và quy tắc chính sách tối ưu với sự cân chỉnh trên cơ sở mô hình New Keynesian sử dụng thuật toán kinh tế lượng dưới dạng không gian – trạng thái, với giả định π* là 2%. Một số vấn đề chính được rút ra qua phân tích sự vận dụng quy tắc Taylor tại ECB: + ECB đã đưa ra sáu điểm lo ngại về việc áp dụng quy tắc Taylor, trong đó có quan điểm cho rằng CSTT không chỉ bao gồm hai yếu tố duy nhất là tỉ lệ lạm phát và độ lệch sản lượng mà còn phải quan tâm đến các dữ liệu kinh tế vĩ mô khác như tỉ lệ tăng trưởng tiền, tín dụng, giá cả tài sản tài chính, giá cả hàng hóa và tiền lương. CSTT phản ứng với các cú sốc cung và cầu khác nhau. + Giống như Fed, NHTW Châu Âu lo ngại về độ chính xác trong việc đo lường sản lượng tiềm năng và LSTN do hai biến này không thể quan sát được. + ECB vẫn nhìn nhận quy tắc Taylor đã và đang trở nên một công cụ để so sánh CSTT giữa lý thuyết và thực tiễn trong nhiều mặt khác nhau và trong công tác dự báo các sốc của nền kinh tế cùng với các mô hình kinh tế vĩ mô khác. + Nghiên cứu của Lee và Crowley (2010) chỉ ra CSTT gần như tương thích với đề xuất từ quy tắc Taylor gốc đối với các quốc gia có tỉ lệ lạm phát thấp như Pháp, Đức. Đối với các quốc gia có tỉ lệ lạm phát cao như Hy Lạp và Ireland, nghiên cứu chỉ ra CSTT thực tế là quá nới lỏng so với đề xuất từ quy tắc Taylor gốc. Lee và Crowley đã sử dụng lý thuyết mô hình cân bằng tổng thể ngẫu nhiên (DSGE) vào quy tắc Taylor dạng New Keynesian để xác định hệ số của quy tắc Taylor sao cho hàm phúc lợi tổn thất có giá trị nhỏ nhất. Khi đó hình thành quy tắc Taylor tối ưu. 1.6.4 Ngân hàng Trung ƣơng Nhật Bản Mục tiêu CSTT của NHTW Nhật Bản (BoJ) là đạt được sự ổn định giá cả và qua đó đóng góp đến sự phát triển vững mạnh của nền kinh tế. Vào tháng 1 năm 2013 BoJ đã thiết lập mục tiêu ổn định giá cả là 2% so với cùng kỳ năm trước tính theo chỉ số giá tiêu dùng CPI. Công cụ CSTT của BoJ là cơ số tiền tệ. LSCS của BoJ là lãi suất cho vay qua đêm giữa các ngân hàng (overnight call rate). Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Nhật Bản (BoJ) Vào đầu và giữa thập niên 1990, trong khi Fed và các NHTW khác đưa quy tắc Taylor vào quá trình hoạch định CSTT thì BoJ lại hướng về chính sách lãi suất bằng không (0). Nới lỏng định lượng chỉ bắt đầu được thực hiện từ tháng 3 năm 2001. Trong khoảng thời gian từ năm 1999 – 2001, quy tắc Taylor đã được sử dụng để chứng minh cho cả hai lý do nên tiếp tục hay chấm dứt chính sách lãi suất bằng không (0) của BoJ. Quy tắc Taylor cũng được dùng để đánh giá CSTT trong thập niên 1980 và 1990 của Nhật Bản. Có rất nhiều nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà kinh tế trong và
  17. 16 ngoài nước Nhật. Họ phát hiện bằng chứng rằng khi so sánh với quy tắc Taylor, CSTT có phần quá chặt ở Nhật kể từ năm 1993 (Asso, Kahn và Leeson 2010). Việc nghiên cứu quan điểm của NHTW Nhật Bản đối với quy tắc Taylor có ích trong việc nghiên cứu lãi suất tiến gần tới giới hạn không, điểm mà quy tắc Taylor gần như mất ý nghĩa áp dụng thực tế do lãi suất không còn phát huy tác dụng. Tuy nhiên, quy tắc Taylor vẫn được sử dụng để kiểm tra làm rõ quyết định nên thực thi chính sách lãi suất bằng không (0) hay không. 1.6.5 Ngân hàng Trung ƣơng Úc (RBA) Mục tiêu CSTT của NHTW Úc (theo Luật NHTW Úc năm 1959) bao gồm: ổn định đồng nội tệ Úc; duy trì việc làm đầy đủ tại Úc; và sự thịnh vượng của nền kinh tế và phúc lợi của người dân Úc. Kể từ đầu thập niên 1990, các mục tiêu này đã được diễn tả bằng mục tiêu tỉ lệ lạm phát giá tiêu dùng khoảng 2-3%/năm, bình quân theo chu kỳ kinh tế trung hạn. Công cụ CSTT của RBA là mức lãi suất cho vay qua đêm giữa các tổ chức trung gian tài chính trên thị trường tiền tệ (cash rate). RBA thực thi việc kiểm soát chặt chẽ lãi suất cho vay qua đêm thông qua các hoạt động thị trường tài chính. Lãi suất cho vay qua đêm tạo nên cơ sở để xây dựng cấu trúc của các loại lãi suất trong nền kinh tế. Sự thay đổi của CSTT có nghĩa là sự thay đổi của mục tiêu hoạt động đối với lãi suất cho vay qua đêm và từ đó sự thay đổi về cấu trúc lãi suất lan tỏa khắp hệ thống tài chính7. Lãi suất cho vay qua đêm được quyết định trên thị trường tiền tệ hình thành từ sự tương tác giữa cung và cầu khối lượng tiền qua đêm. RBA sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để duy trì mức lãi suất cho vay qua đêm gần với mục tiêu thiết lập bởi Hội đồng RBA. Sự vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của NHTW Úc Stevens (2001) đã phát biểu về quá trình ra quyết định CSTT tại RBA, trong đó đề cập đến sự quan tâm về vị thế của chính sách có thể được bổ trợ bởi hai nguồn phân tích. Một là kết quả tính toán từ công thức dạng quy tắc Taylor, hai là việc sử dụng một mô hình kinh tế lượng vĩ mô của nền kinh tế được phát triển bởi Phòng Nghiên cứu Kinh tế. De Brouwer và O’Regan (1997) đánh giá các qui luật CSTT giản đơn đối với nền kinh tế Úc đã kiểm định 7 mô hình tính lãi suất ngắn hạn đơn giản để xác định xem mô hình nào hoạt động tốt nhất với lãi suất kiểm định là lãi suất cho vay qua đêm danh nghĩa, dữ liệu kinh tế vĩ mô của Úc trong giai đoạn năm 1980 – 1996 với các biến theo quý có độ trễ là 1. Giả thiết trong kiểm định mô hình của de Brouwer và O’Regan (1997) là mục tiêu lạm phát bằng 2½%/năm, mức tăng giá mục tiêu là 2½%/năm, sản lượng tiềm năng tăng bình quân khoảng 3%/năm trong vòng 15 năm, mục tiêu tỉ lệ tăng thu nhập danh nghĩa là 5½%/năm. Phương pháp kiểm định sử dụng là phân tích mô phỏng đối với từng mô hình với các giá trị hệ số khác nhau trong hàm phản ứng. Sử dụng phương pháp mô phỏng với các hệ số cố định nằm trong dãy (0, 2), bước nhảy là 0,1, qua đó tính toán độ lệch chuẩn của độ lệch lạm phát và độ lệch sản lượng, từ đó xây dựng đường biên đồ thị của các độ lệch chuẩn để so sánh hiệu quả của các mô hình. Một số vấn đề chính được rút ra qua phân tích sự vận dụng quy tắc Taylor tại RBA và từ kết quả kiểm định bảy mô hình: - Quy tắc Taylor giản đơn có kết quả tốt nhất so với các quy tắc còn lại. 7 www.rba.gov.au/monetary-policy/about.html
  18. 17 - Quy tắc Taylor thích nghi với sự tăng trưởng nhanh trong thời kỳ đầu bởi vì vấn đề quan trọng không phải là tăng trưởng nhanh hay chậm mà ở chỗ năng lực còn thừa của nền kinh tế. - Lạm phát được quyết định phần lớn do nhu cầu vượt quá, trực tiếp hay gián tiếp thông qua tiền lương, do đó nhu cầu hiện tại là yếu tố quan trọng để dự báo về lạm phát tương lai. - Giống như Fed và ECB, RBA lo ngại về độ chính xác của việc đo lường LSTN và sản lượng tiềm năng và hai đại lượng này thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên qua kiểm định cho thấy ngay cả trong trường hợp NHTW áp dụng quy tắc Taylor một cách máy móc khi xác định LSCS theo tính toán cao hơn thực tế, nếu NHTW phản ứng mạnh với lạm phát, kết cuộc lạm phát sẽ tiến gần hơn đến mức lạm phát mục tiêu. - Việc vận dụng quy tắc Taylor là một quá trình rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc thực sự của nền kinh tế. 1.7 Điều kiện vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ƣơng Một là, ổn định lạm phát, và tăng trưởng kinh tế bền vững (hoặc tối đa việc làm) là các mục tiêu chính, cơ bản của CSTT của NHTW được thực hiện chủ yếu bằng công cụ của CSTT là loại lãi suất ngắn hạn hay LSCS. Theo Asso, Kahn, và Leeson (2010), quy tắc Taylor có thể áp dụng trong chế độ tiền tệ thực hiện mục tiêu kép là ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế hoặc trong chế độ tiền tệ qui định lạm phát là mục tiêu chính yếu như ở các quốc gia áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu. Hai là, phân tích chính sách lãi suất của NHTW trong lịch sử bằng quy tắc Taylor với các kết quả thực nghiệm cho thấy sự hợp lý và/hoặc bất hợp lý của chính sách lãi suất của NHTW có thể giải thích bằng quy tắc Taylor. Giá trị hàm tổn thất của NHTW được tính toán theo mô hình kinh tế vĩ mô đặc thù nhỏ đi khi NHTW vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của mình so với khi không áp dụng quy tắc Taylor. Bằng chứng thực nghiệm là kết quả nghiên cứu khoa học minh chứng hiệu quả của việc vận dụng quy tắc Taylor của NHTW trong cơ chế điều hành lãi suất. Ba là, NHTW có sự độc lập về thực thi CSTT. Một NHTW độc lập về thực thi CSTT có thể cam kết đáng tin cậy hơn trong việc thực hiện mục tiêu giá cả bền vững và tối đa hóa việc làm8. Điều kiện này giúp NHTW chủ động trong việc điều hành công cụ lãi suất và các công cụ CSTT khác nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất góp phần thực hiện tốt các mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định lạm phát và tăng trưởng kinh tế bền vững. Bốn là, sự minh bạch về CSTT. Mức độ công bố thông tin về CSTT ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát của công chúng và các tổ chức kinh tế thông qua sự hiểu biết về cách thức điều hành CSTT của NHTW. Sự minh bạch về CSTT giúp công chúng hiểu rõ hơn về mức độ cam kết của NHTW trong việc thực hiện các mục tiêu CSTT và cách thức điều hành công cụ CSTT. Điều kiện (1) và (2) là điều kiện cần thiết để có thể vận dụng quy tắc Taylor trong hoạch định chính sách lãi suất; điều kiện (3) và (4) giúp nâng cao hiệu quả của việc vận dụng quy tắc Taylor trong quá trình điều hành lãi suất. Ngoài bốn điều kiện trên, đối với các nền kinh tế mở có qui mô nhỏ, các yếu tố về khung pháp lý của CSTT, dạng quy tắc Taylor sử dụng (hướng về tương lai hay nhìn về quá khứ), việc chọn lựa quy tắc chính sách (công cụ - instrument rules hay mục tiêu – targeting rules) 8 https://www.richmondfed.org/research/our_perspective/monetarypolicyindependence
  19. 18 trong quá trình ra quyết định về CSTT và công bố thông tin của NHTW cũng nên được xem xét trong việc vận dụng quy tắc Taylor của các NHTW (Asso, Kahn, và Leeson 2010). 1.8 Các thuận lợi và khó khăn khi vận dụng quy tắc Taylor tại Việt Nam 1.8.1 Thuận lợi + Chương trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam do Quốc hội và Chính phủ đề ra về dài hạn và ngắn hạn đều đưa ra mục tiêu tỉ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế rõ ràng, cụ thể. Đây là định hướng chiến lượng kinh tế quốc gia ngắn hạn và dài hạn ở VN thuận lợi cho việc vận dụng quy tắc Taylor để hoạch định CSTT vì hai mục tiêu trên là biến số chính trong quy tắc Taylor để NHNN có thể sử dụng công cụ lãi suất hợp lý nhằm ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế. + NHNN là NHTW được Luật NHNN năm 2010 cho phép có thể sử dụng các công cụ CSTT một cách chủ động và phù hợp để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội do Quốc hội và Chính phủ đề ra trong ngắn hạn và dài hạn. + Trên thế giới hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về quy tắc Taylor và các mô hình kinh tế từ đơn giản đến phức tạp để phân tích và dự báo tình trạng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Việt Nam có thể học tập và vận dụng phù hợp trong điều kiện kinh tế vĩ mô của mình. 1.8.2 Khó khăn + Dữ liệu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam về GDP, CPI, tỉ lệ thất nghiệp, FDI, tỉ lệ nợ xấu…còn tồn tại vấn đề về sự thống nhất và chính xác, có sự khác biệt giữa công bố số liệu trong nước so với công bố của các tổ chức quốc tế. Hậu quả của số liệu công bố không phản ánh đúng thực trạng kinh tế sẽ dẫn đến kết quả nghiên cứu có thể bị sai lệch, dẫn đến việc hoạch định chính sách không đúng hướng và do đó giảm tính hiệu quả của việc ứng dụng chính sách. + Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN chưa cố định. NHNN đã công bố LSCB là LSCS từ năm 2008. Tuy nhiên từ tháng 12 năm 2010 đến nay, NHNN không công bố LSCB định kỳ nữa, thay vào đó là TLS và TLSCV, bên cạnh LSTCK và LSTCV. + Chế độ tiền tệ của Việt Nam chưa được công bố rõ ràng, khung CSTT chưa được thể hiện rõ nét. NHNN áp dụng CSTT đa mục tiêu, linh hoạt trong việc điều hành CSTT. Tuy nhiên quá nhiều mục tiêu có khả năng dẫn đến xung đột giữa các mục tiêu ví dụ như mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, lãi suất giảm trong khi vẫn đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát, các yêu cầu và cân đối giữa các mục tiêu trở nên nhạy cảm, lệch hoặc quá ở một mục tiêu, cân đối nào đều có thể dẫn đến xung đột cân đối, mục tiêu khác. 1.8.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam + NHTW các nước có khung pháp lý CSTT rõ ràng, xác định một loại lãi suất làm LSCS, trên cơ sở đó hoạch định và điều hành CSTT, đảm bảo đạt được mục tiêu CSTT, chủ yếu hai mục tiêu cơ bản là ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế. + NHTW các nước đã và đang vận dụng quy tắc Taylor như là công cụ hướng dẫn thông qua sự kết hợp với các mô hình kinh tế khác để hoạch định CSTT (Fed, BoE, RBA), quyết định sử dụng các công cụ kích thích tăng trưởng kinh tế khác khi lãi suất tiến về mức không (BoJ), và đánh giá sự hợp lý của CSTT. Mặc dù còn một số vấn đề tồn tại trong bản thân quy tắc Taylor, tuy nhiên, chi phí cho việc thắt chặt CSTT trong khi việc không thắt chặt CSTT là hợp lý nhỏ hơn chi phí việc không thắt
  20. 19 chặt CSTT trong khi việc thắt chặt mới là hợp lý (Fed) cho thấy việc sử dụng quy tắc Taylor để kiềm chế lạm phát là phù hợp. Suy cho cùng nếu NHTW phản ứng mạnh với lạm phát, kết cục lạm phát sẽ tiến gần đến mức lạm phát mục tiêu (RBA). + Sự thống nhất về cơ sở dữ liệu kinh tế vĩ mô và phương pháp tính các biến trong quy tắc Taylor, bảo đảm tính xuyên suốt của kết quả tính toán. Do LSTN và sản lượng tiềm năng là hai đại lượng không thể quan sát và chỉ có thể ước lượng nên độ chính xác mang tính chất tương đối. Sự thống nhất phương pháp ước lượng đảm bảo các kết quả có thể so sánh được giữa các thời kỳ và sử dụng để dự báo cho tương lai. Việc vận dụng quy tắc Taylor là một quá trình kinh nghiệm và đúc kết từ thực tiễn dựa trên cấu trúc đặc thù của nền kinh tế (RBA). + Về quy tắc Taylor, mô hình được sử dụng ở dạng làm phẳng lãi suất và nhìn về quá khứ (Fed), độ trễ của biến độc lập phổ biến là 1 (Fed, BoE, RBA). Mô hình New Keynesian kết hợp quy tắc Taylor được sử dụng để tính toán hệ số lạm phát và hệ số độ lệch sản lượng của quy tắc CSTT tối ưu với giá trị hàm tổn thất nhỏ nhất (ECB). Phản ứng với sốc cung, hệ số độ lệch lạm phát có thể bằng hệ số độ lệch sản lượng; với sốc cầu, hệ số độ lệch lạm phát nhỏ hơn hệ số độ lệch sản lượng (Fed). + Xem xét sự thay đổi của LSTN và tỉ lệ lạm phát mục tiêu trong trung và dài hạn khi có sự thay đổi cấu trúc của nền kinh tế và/hoặc sự thay đổi của chu kỳ kinh tế (Fed, ECB, RBA). NHTW các nước có xu hướng xây dựng tỉ lệ lạm phát mục tiêu ở mức thấp từ 2%-3%/năm. + NHTW các nước họp định kỳ xem xét việc thay đổi CSTT và công bố thông tin ngay sau khi ra quyết định về CSTT, góp phần minh bạch hóa chủ trương, đường lối của NHTW, tăng niềm tin của công chúng vào cam kết thực hiện mục tiêu CSTT của NHTW. Kết luận chƣơng 1: Chương 1 của luận án đã khái quát hóa những nét chung nhất và cơ bản nhất của quy tắc Taylor cùng với vai trò, ý nghĩa của các thành tố của quy tắc gắn liền với các quyết sách về CSTT trong quá trình hoạch định và ứng phó với các thay đổi của nền kinh tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh cũng trình bày nội dung cơ chế điều hành lãi suất của NHTW, kinh nghiệm vận dụng quy tắc Taylor trong chính sách lãi suất của một số NHTW trên thế giới, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi vận dụng quy tắc Taylor cùng với các khó khăn và thuận lợi. Lý luận ở chương 1 là nền tảng cơ bản để tiến hành công tác phân tích thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam qua lăng kính quy tắc Taylor với phương pháp và kỹ thuật phân tích được trình bày chi tiết ở chương 2 của luận án, đồng thời là cơ sở đề xuất các giải pháp cơ bản để vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN. CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM BẰNG QUY TẮC TAYLOR 2.1 Phƣơng pháp tính toán thông thƣờng 2.1.1 Quy tắc Taylor sử dụng trong phƣơng pháp tính toán thông thƣờng Phương pháp tính toán thông thường dựa trên công thức (1.5) của Billi (2011), một dạng biến thể của quy tắc Taylor (1993) có dạng it = π* + r* + βπ(πt – π*) + βy(gt – g*) để tính toán mức LSCS và so sánh với các loại lãi suất của NHNN để kết luận về sự phù hợp giữa quy tắc Taylor và chính sách lãi suất thực tế ở Việt Nam.
nguon tai.lieu . vn