Xem mẫu

  1. Tình trạng rút lại bài báo khoa học Báo chí, nhất là báo chí mạng, thường rút những bài báo đã công bố, nhưng không hề công bố lí do. Trong khoa học, việc rút bài báo cũng xảy ra, nhưng khác với giới báo chí phổ thông, các tập san khoa học phải công bố lí do tại sao bài báo bị rút lại. Chẳng hạn như Tập san vật lí EPL vừa rút lại bài báo khoa học của nhóm tác giả Lê Đức Thông vì đạo văn. Sự việc bài báo khoa học bị rút lại từng xảy ra trong hoạt động khoa học tuy với tần số thấp, nhưng có xu hướng đang gia tăng ... Nếu một nhà báo cảm đau lòng khi thấy bài viết của mình bị rút lại, thì trong giới khoa học, cường độ đau lòng đó còn cao gấp bội lần. Thật vậy, một trong những biến cố làm nhức nhối nhà khoa học nhất là bắt buộc phải rút lại một bài báo khoa học đã được công bố trên một tập san. Việc rút lại bài báo đồng nghĩa với tuyên bố rằng những gì đã trình bày trong bài báo không đáng tin cậy, vì sai sót hay vì vi phạm đạo đức khoa học. Phủ nhận những gì được trình bày trong bài báo hay trong công trình nghiên cứu là một cái tát tay vào chính mình. Rút lại bài báo cũng thể hiện một phần sự thất bại trong khoa học. Nếu bài báo bị rút lại vì lí do vi phạm đạo đức khoa học (như đạo văn hay sao chép kết quả người khác) cũng là một vết nhơ trong sự nghiệp của một nhà khoa học. Không chỉ nhà khoa học chịu ảnh hưởng, tập san khoa học và rộng hơn nữa là cộng đồng khoa học cũng chịu vạ lây khi một bài báo bị rút lại. Tập san phải chịu trách nhiệm một phần, vì sự thất bại trong qui trình bình duyệt (peer review), vì đi đến quyết định sai cho công bố bài báo, hay vì hấp tấp chạy theo những chủ đề giật gân, thời thượng. Thật vậy, phần lớn những bài báo khoa học
  2. bị rút lại là những nghiên cứu liên quan đến đề tài “nóng” hiện hành. Những nghiên cứu này dù tồi cũng dễ được công bố (và công bố nhanh hơn) những nghiên cứu nghiêm chỉnh. Cộng đồng khoa học cũng bị ảnh hưởng bởi công chúng đặt dấu hỏi về độ tin cậy của khoa học. Người ta có lí do để hỏi còn bao nhiêu bài báo khác chưa phát hiện sẽ bị rút lại, hay khoa học có đáng tin cậy không khi có những bài báo bị rút lại. Đó là những quan tâm chính đáng, và cộng đồng khoa học phải đương đầu với những quan tâm đó. ”Hiện tượng” rút lại bài báo khoa học xảy ra tương đối hiếm, nhưng có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Năm 2008, có 95 bài báo khoa học bị rút lại trong số 1.4 triệu bài báo công bố (tức cứ 100,000 bài công bố, có ~7 bài bị rút lại). Riêng ngành y sinh học trong thời gian 1966 – 1997 (30 năm), có 235 bài bị rút lại trong số ~9 triệu bài công bố (tức cứ 100,000 bài có ~3 bài bị rút lại). Như vậy, tỉ lệ rút lại bài báo khoa học có xu hướng tăng theo thời gian. Trong thực tế, không ai biết bao nhiêu bài báo khoa học sai và đáng lẽ nên bị rút lại, vì những trường hợp bị rút lại chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm. Tập san càng nổi tiếng, số bài báo bị rút càng nhiều. Theo thống kê, số bài báo từ 4 tập sanNature, Science, PNAS và Cell bị rút lại chiếm 18% tổng số bài báo bị rút xuống. Đây là những tập san khoa học danh tiếng thế giới. Thông thường những tập san này từ chối từ 95% đến 99% số bài báo khoa học nộp cho họ. Dù với hệ thống bình duyệt gắt gao và chặt chẽ như thế, nhưng tại sao số bài báo bị rút xuống từ những tập san này lại cao? Câu trả lời là do các tập san công bố những đề tài thời thượng, và họ có khi hấp tấp để gây sự chú ý của công chúng. Tuần vừa qua, tập san Science (Mĩ) ra thông báo rút lại 2 bài báo đã công bố trước đây. Một trong 2 bài báo đó có liên quan đến một đề tài rất thời sự: dùng gen để tiên đoán tuổi thọ. Công trình do một nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Boston (Mĩ) thực hiện, và họ tin rằng đã khám phá một số gen có thể giúp tiên lượng ai có khả năng thọ lâu, với độ chính xác lên đến 77%! Đây là một khám
  3. phá rất có ý nghĩa cho những người (từ cổ chí kim) đi tìm sự trường thọ. Như là một thông lệ trong khoa học, công trình sau khi được công bố đã được các đồng nghiệp xâm soi kĩ. Chỉ chưa đầy một tuần sau khi công bố, có nhiều nhà khoa học chỉ ra một sai lầm quan trọng trong công trình nghiên cứu. Đến bây giờ thì không phải phát hiện của công trình nghiên cứu, mà chính là sai lầm của công trình nghiên cứu đã trở thành một đề tài thời sự. Có vài trường hợp cá biệt với tác giả có hàng chục bài báo bị rút lại. Chẳng hạn như năm ngoái một giáo sư bị buộc phải rút lại 21 bài báo, vì ngụy tạo dữ liệu. Đó là trường hợp của Giáo sư Scott S. Reuben, một chuyên gia và giám đốc bộ môn gây mê của Trung tâm Y khoa Baystate (bang Illinois, Mĩ) và một “ngôi sao” trong chuyên ngành gây mê. Ông đã có đến 72 công trình nghiên cứu khoa học trên các tập san y khoa hàng đầu trong ngành gây mê như Anesthesiology, Anesthesia and Analgesia, Journal of Clinical Anesthesia, v.v… Nhưng sau này người ta phát hiện rằng trong 21 bài, ông chẳng làm nghiên cứu gì cả, ông chỉ giả tạo dữ liệu theo giả thuyết của mình để công bố! Chẳng những ngụy tạo dữ liệu, giáo sư Reuben còn ngụy tạo cả … tác giả. Theo giáo sư Evan Ekman (chuyên gia phẫu thuật chấn thương chỉnh hình ở Columbia) cho biết tên của ông xuất hiện trong 2 bài báo của Reuben, nhưng ông Ekman chẳng biết gì cả! Thật là hi hữu! Giới khoa học xem đây là một trường hợp gian lận khoa học lớn nhất trong lịch sử y khoa Mĩ, một Madoff trong y khoa. Những tác giả có bài bị rút lại không chỉ là những người cấp thấp trong đẳng cấp khoa học (như nghiên cứu sinh, hậu tiến sĩ hay giáo sư dự khuyết), mà còn là những người từng chiếm giải Nobel. Mới vài tuần trước đây, Tập san Science rút lại một bài báo công bố vào năm 2006, và tập san Proceedings of the National Academy of the Sciences (PNAS) rút lại một bài báo đăng vào năm 2005. Cả 2 bài đều của nhóm của bà Linda Buck, người được trao giải Nobel y sinh học năm 2004 vì những đóng góp trong nghiên cứu về khứu giác. Cả hai bài mô tả thụ thể khứu giác hoạt động như thế nào trên chuột. Bài trên
  4. PNAS đã được trích dẫn 61 lần, và bài trên Science 73 lần. Lí do các tập san quyết định rút lại bài báo là do bà không thể lặp lại những phát hiện chính được mô tả trong bài báo do postdoc (nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ) của bà thực hiện, và một bài báo khác phải rút lại vì một số số liệu trong biểu đồ không ăn khớp với dữ liệu công bố. Hệ quả của việc rút lại bài báo thường khác nhau giữa các cấp. Các giáo sư ít bị ảnh hưởng, những các nghiên cứu sinh và đồng nghiệp trẻ hơn thì … lãnh đủ tai họa. Theo Giáo sư Buck, 2 bài báo đó không có ảnh hưởng lớn đến chuyên ngành và cũng không dính dáng đến công trình bà từng được trao giải Nobel! Sự nghiệp của bà không hề bị ảnh hưởng gì. Còn người cộng sự và đồng tác giả là Tiến sĩ Zhihua Zou thì … trốn biệt. Không ai biết địa chỉ của ông ở đâu, người ta chỉ biết sau giai đoạn postdoc (nghiên cứu hậu tiến sĩ) ở một trung tâm nghiên cứu ung thư vào năm 2005, Zou được bổ nhiệm giáo sư dự khuyết (assistant professor, một chức danh khởi đầu trong hệ thống thang bậc giáo sư) tại Đại học Texas ở Galveston. Tháng 11/2008, Zou cùng với 2400 nhân viên khác bị mất việc vì cơn bão Hurricane Ike phá tan hoang đại học. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tác giả chính của bài báo bị rút lại phải lãnh hình phạt nặng nề. Eric Poehlman là cựu giáo sư y khoa của Trường Đại học Vermont (Mĩ), chuyên nghiên cứu béo phì. Với hơn 200 bài báo khoa học trên các tập san y khoa quốc tế, ông là một “sao” lớn trong môi trường y khoa. Nhưng ông phạm phải một lỗi tày trời: ngụy tạo dữ liệu. Có đến 10 công trình khoa học và bài giảng trong các hội nghị từ 1992 đến 2002 lại là những tác phẩm khoa học dựa vào số liệu do ông giả tạo để phù hợp với lí thuyết của mình. Năm 1995, trong một hội nghị y khoa, Poehlman trình bày dữ liệu mà ông báo cáo là thu thập từ một nghiên cứu đánh giá các đặc điểm về chuyển hóa năng lượng ở phụ nữ trong thời gian trước và sau mãn kinh. Nhưng trong thực tế, Poehlman chỉ theo dõi 1 bệnh nhân duy nhất, phần còn lại là ông giả tạo số liệu một cách tài tình. Kĩ thuật giả tạo số liệu của ông (bằng kĩ thuật mô phỏng)
  5. qua mặt cả 3 chuyên gia bình duyệt, và một nhà thống kê học. Ngoài ra, Poehlman còn giả tạo nhiều số liệu trong hơn 10 bài báo khoa học khác. Chẳng những thế, Poehlman còn ngụy tạo số liệu mà ông cho là “nghiên cứu sơ bộ” để thu hút tài trợ đến gần 3 triệu USD từ NIH (cơ quan tài trợ cho phần lớn nghiên cứu y khoa ở Mĩ). Sau nhiều năm điều tra, Trường đại học quyết định sa thải Poehlman và Nha liêm chính trong nghiên cứu (ORI) truy tố ông ra tòa. Ngày 28/6/2006, Poehlman bị tòa xử phạt một năm tù và phải hoàn trả cho Nhà nước 542.000 USD. Đây là trường hợp nghiêm trọng nhất và lần đầu tiên trong lịch sử khoa học Mĩ một giáo sư gian lận trong khoa học phải ngồi tù. Tập san Nature, Science, PNAS, v.v… là những tập san hàng đầu của khoa học và việc rút bài báo có ảnh hưởng chẳng mấy tốt. Việc rút lại những bài báo một cách đồng loạt như thế làm nhiều người đặt dấu hỏi: hệ thống bình duyệt (peer review) không còn vận hành? Tại sao các chuyên gia bình duyệt để cho những công trình như thế “lọt lưới”? Tại sao những bất cập và bất bình thường trong số liệu không được phát hiện sớm hơn? Các chuyên gia bình duyệt không làm việc tốt? Khi những câu hỏi này được đặt ra cho các ban biên tập, thì họ trả lời rằng tập san không thể nào kiểm tra hết tất cả dữ liệu được. Nếu một nhà nghiên cứu sửa một con số thì làm sao các chuyên gia bình duyệt p hát hiện được. Đòi hỏi các chuyên gia phải biết hết và kiểm tra tất cả là một đòi hỏi không tưởng. Vận hành của khoa học dựa vào sự tin tưởng và tự chỉnh. Ban biên tập đặt niềm tin vào các giáo sư, giáo sư tin vào cộng sự của mình, và cộng sự tin vào phụ tá nghiên cứu. Đạo đức khoa học là nền tảng của sự tin tưởng. Làm khoa học là phải có đạo đức, và đạo đức là hành trang đầu đời của nhà khoa học. Khoa học cũng mang tính tự sửa. Khi một công trình nghiên cứu đã công bố, thì cộng đồng khoa học săm soi, kiểm tra, và nếu có vấn đề thì sẽ chỉnh sửa. Do đó, dù có vài trường hợp rút lại bài báo trong thời gian gần đây, nhưng điều đó không nói lên rằng hệ thống bình duyệt đã hư hỏng, mà những sự kiện đó chính là một qui trình tất yếu của khoa học.
nguon tai.lieu . vn