Xem mẫu

  1. TINH THẦN PHÒNG THỦ BIỂN ĐÔNG CỦA TRIỀU NGUYỄN TỪ 1800 – 1884 ĐẶNG HIỀN Khoa Lịch sử Tóm tắt: Đất nƣớc Việt Nam trải dài hàng chục thế kỷ đấu tranh anh dũng, quật cƣờng. Đó là lịch sử của dân tộc anh hùng mà sự sống còn và phát triển luôn gắn liền với lịch sử các cuộc đấu tranh chống quân xâm lƣợc. Từ ý thức bảo vệ chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, đối phó với mọi ý đồ xâm lăng của các thế lực thù địch, ông cha ta đã sớm hƣớng ra bể lớn, xem đó là đầu cầu chiến lƣợc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Bởi lẽ đó mà tinh thần hƣớng ra biển Đông đã nhen nhóm trong tâm thức ngƣời Việt từ thuở bình minh lịch sử. Bài báo trình bày về tinh thần phòng thủ biển Đông cao độ của triều Nguyễn từ 1800-1884, thông qua việc thực hiện các chính sách bảo vệ biển đảo tích cực, có hiệu quả. Từ khoá: tinh thần, phòng thủ biển Đông, triều Nguyễn 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trải qua lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, các cộng đồng cƣ dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam không ngừng khai phá đất đai mở rộng lãnh thổ, chinh phục biển cả xác lập chủ quyền, viết tiếp trang sử hào hùng của các bậc tiền nhân để lại. Việt Nam có đƣờng bờ biển dài, lại ở vào vị trí quan trọng trên con đƣờng hàng hải quốc tế nên từ xƣa đến nay kẻ thù thƣờng sử dụng đƣờng biển và đƣờng sông xâm lƣợc nƣớc ta. Là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Nguyễn đã kế thừa những tri thức để bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, trong đó có biển Đông. Vấn đề Triều Nguyễn khẳng định chủ quyền Biển Đông đã có nhiều đề tài của nhiều tác giả khác nhau, nhƣ: Nguyễn Nhã với đề tài “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa”, hay gần đây là cuốn “Triều Nguyễn với công cuộc bảo vệ biển đảo tổ quốc thế kỷ XIX” của Đỗ Bang,… nhƣng chƣa có đề tài nào nói rõ về tinh thần phòng thủ biển Đông của Triều Nguyễn. 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Tinh thần phòng thủ biển Đông và những hoạt động thể hiện tinh thần đó: Xây dựng hệ thống phòng thủ biển, xây dựng thủy quân, tuần tra kiểm soát biển của triều Nguyễn. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở phƣơng pháp luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sử học. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2014-2015 Trƣờng Đại học Sƣ phạm Huế, tháng 12/2014: tr. 153-162
  2. 154 ĐẶNG HIỀN Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic và các phƣơng pháp cụ thể của bộ môn: Tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, nhận định, sƣu tầm tƣ liệu,... 2.3. Nội dung nghiên cứu Bài báo tập trung vào nghiên cứu và làm rõ nguồn gốc, quá trình hình thành tinh thần phòng thủ biển Đông. Đồng thời đã làm rõ thêm những hoạt động, công tác phòng thủ biển Đông của triều Nguyễn. Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền trên biển Đông ngày càng gay gắt thì những bài học từ tinh thần phòng thủ và những hoạt động bảo vệ chủ quyền biển của triều Nguyễn cần đƣợc nghiên cứu và phát huy hơn bao giờ hết. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Tổ quốc Việt Nam mênh mông trời biển, biển Việt Nam là một bộ phận cấu thành không thể tách rời hay nhƣợng lại cho một ai hay một quốc gia nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nƣớc Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một: Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”. Những ngày gần đây trƣớc hành động đƣa trái phép giàn khoan HD 981 vào vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam của chính quyền Trung Quốc, cả dân tộc đã đứng lên với sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Hơn 90 triệu ngƣời dân Việt Nam ở trong nƣớc và kiều bào ở nƣớc ngoài đã đấu tranh, tất cả đều có chung một tinh thần hƣớng về biển Đông. Tinh thần phòng thủ biển Đông đƣợc hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, tinh thần đó đƣợc hoàn thiện và phát huy dƣới Triều Nguyễn, hiện nay tinh thần đó càng cần đƣợc phát huy. Để hiểu và phát huy tinh thần ấy trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần lật lại một vài trang lịch sử để xem tinh thần phòng thủ biển Đông của Triều Nguyễn đƣợc hình thành và phát triển nhƣ thế nào, xem Triều Nguyễn thể hiện tinh thần đó ra sao. Trƣớc tiên là niềm tự hào con Rồng cháu Tiên, cha dân tộc chúng ta là Lạc Long Quân thống trị vùng biển lớn. Truyền thuyết nói rằng sau khi các con lớn khôn, Lạc Long Quân và Âu Cơ chia 50 ngƣời con theo mẹ lên núi, 50 ngƣời con theo cha xuống biển. Cuộc chia ly này không chỉ là do khó khăn về hoàn cảnh sống của Lạc Long Quân nhƣ đã phản ánh trong truyền thuyết mà nó còn phản ánh quá trình chiếm lĩnh và chinh phục miền núi và miền Biển của tổ tiên ta. Chính niềm tự hào này đã thôi thúc những ngƣời con dân đất Việt sớm hƣớng ra biển lớn, truyền thống này đã đƣợc các vua chúa triều Nguyễn tiếp thu. Lịch sử cho thấy các công trình nghiên cứu khảo cổ đã chứng minh rằng từ thời kỳ đồ đá mới con ngƣời đã sống ven biển, dựa vào biển cả để sinh sống, cụ thể là nền văn hóa đồ đá mới ở Hạ Long (Văn hóa Hạ Long) cách ngày nay khoảng 4000 năm. Các di chỉ khảo cổ thể hiện rằng đã có con ngƣời sinh sống, nơi cƣ trú là: Hang động, chân núi ven biển, doi cát, các bậc thềm và mặt đồng bằng cổ, tiêu biểu nhƣ: Hang Bái Tử Long, hang Soi Nhụ dƣới, Ngọc Vừng... Phƣơng thức sinh sống của cƣ dân văn hóa Hạ Long giai đoạn muộn đã cơ bản gắn với môi trƣờng biển cả với kỹ thuật chế tác công cụ đá và đồ gốm khá hoàn hảo, trở thành đặc trƣng của văn hóa Hạ Long đó là: Gốm văn thừng, văn chải,
  3. TINH THẦN PHÒNG THỦ BIỂN ĐÔNG CỦA TRIỀU NGUYỄN... 155 văn khắc vạch, rìu và bôn có vai có nấc. Do đó, cƣ dân Việt cổ đã sớm gắn bó với biển Đông nên tinh thần phòng thủ biển Đông của Triều Nguyễn có nguồn gốc từ rất sớm. Ngoài ra, tiến trình lịch sử dân tộc ta đã chứng kiến các cuộc xâm lăng của ngoại bang, rất nhiều các cuộc xâm lăng đó có hƣớng tấn công từ biển vào nhƣ: cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán của Ngô Quyền năm 938, cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lê Hoàn 981, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông dƣới sự chỉ huy của nhà Trần năm 1288. Bản thân Triều Nguyễn cũng phải đƣơng đầu với các mối đe dọa từ biển khá sớm “Ất Dậu năm thứ 28 [1585], bấy giờ có tƣớng giặc nƣớc Tây Dƣơng hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên hiệu của tù trƣởng phong kiến Phiên, không phải là tên ngƣời) đi 5 chiếc thuyền lớn, đến đậu ở Cửa Việt để cƣớp bóc ven biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn 10 chiếc thuyền, tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan 2 chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy” [4, tr. 32]. Điều đó chứng tỏ triều Nguyễn ý thức đƣợc vai trò của biển cả và sớm ý thức bảo vệ chủ quyền biển Đông. Vua Gia Long là ngƣời rất hiểu về vị trí quan trọng của biển, có tầm nhìn xa trông rộng, ý thức ngay tầm chiến lƣợc biển đảo trong việc phòng thủ đất nƣớc bởi vì là vị vua bôn ba, gian nan nhất của Triều Nguyễn. Cuộc sống của ông phần lớn gắn liền với những tháng năm lênh đênh trên biển, sống ở đảo này đến đảo khác để đối đầu với Tây Sơn. Năm 1811, khi cùng các triều thần Tống Phƣớc Long bàn về cơ lƣợc dùng binh, vua dụ rằng: “Côn Lôn, Phú Quốc, Thị Nại, Cù Mông, trẫm cùng các tƣớng sĩ các ngƣời đã đánh trăm trận vất vả mới có ngày nay. Lúc yên đừng quên lúc nguy, đó thực sự là đạo giữ nƣớc yên dân” [4, tr. 811]. Do đó, hơn ai hết vua Gia Long là ngƣời rất am hiểu, quý trọng biển cả và có tinh thần bảo vệ biển Đông. Có thể nói, tinh thần phòng thủ biển Đông chiếm một vị thế rất quan trọng trong nhận thức về an ninh chủ quyền quốc gia của Triều Nguyễn, vị trí và vai trò của biển đảo đƣợc đánh giá rất cao. Đó là cơ sở để các vua Nguyễn thƣờng xuyên tổ chức và tiến hành những hoạt động phòng thủ và bảo vệ hải đảo. Do đặc điểm địa hình nƣớc ta có bờ biển dài, lại giữ vị trí trọng yếu trên con đƣờng hàng hải quốc tế nên việc xây dựng một hệ thống phòng thủ, xây dựng thủy quân và tổ chức tuần tra kiểm soát vùng biển đảo là mối quan tâm thƣờng xuyên. Đầu tiên, nhà Nguyễn xây dựng một hệ thống phòng thủ kiên cố bảo vệ vùng biển từ mọi hƣớng. Đảm bảo cho hoạt động phòng thủ biển đảo nƣớc Đại Nam, ngay từ đầu Triều Nguyễn đã ra sức xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật lớn mạnh trong vùng biển của Tổ quốc. Ý thức đƣợc tầm quan trọng của của biển đảo trong việc xác lập và thực thi chủ quyền đất nƣớc, Triều Nguyễn đã đẩy mạnh thực hiện xây dựng hệ thống đồn lũy để phục vụ cho hoạt động phòng thủ biển đảo. Với nhận thức đúng đắn, năm 1834 vua Minh Mạng chỉ rõ tầm quan trọng của việc phòng thủ biển đảo: “các hải đảo thuộc địa phận các địa phƣơng, có nhiều dân ở, trƣớc giờ nhà nƣớc chƣa cấp phát cho thuyền và khí giới. Một khi có giặc biển nhân sơ hở mà đến cƣớp bóc thì họ không có gì để phòng thủ, đánh đuổi. Nay truyền dụ cho các tỉnh ven biển, xem xét những hòn đảo nào có dân ở thuộc hạt mình, thì sai sửa sang chỉnh đốn những thuyền đánh cá đi thực
  4. 156 ĐẶNG HIỀN mau lẹ… Rồi lại cấp phát cho trƣờng thƣơng, súng điểu sang và súng đạn, khiến cho họ đi tuần tiễn… Còn nhƣ việc làm cho hải phận đƣợc yên lặng lâu dài tất phải một phen xếp đặt có quy củ. Vậy chuẩn cho các viên đƣợc suy xét tính toán kĩ, hoặc nên đặt pháo đài, phái binh đến phòng giữ, hoặc nên mộ hƣơng dõng ở đó để phòng vệ cho dân” [6; tr. 108]. Từ ý thức về vị trí quan trọng của hải đảo, Triều Nguyễn lần lƣợt cho xây dựng hệ thống đồn lũy phòng thủ trên khắp cả nƣớc. Tại kinh đô Huế, ngoài tuyến phòng thủ từ xa và tuyến phòng thủ trung tâm trên đƣờng bộ, triều Nguyễn còn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống đồn lũy, cửa tấn ven biển. Năm 1813, vua Gia Long cho xây Trấn Hải thành ở cửa biển Thuận An (thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày nay). Đây là một pháo đài quân sự kiên cố hình tròn, chu vi 285m, cao 6,3m, dày 4m; xung quanh có hào nƣớc sâu bao bọc, trên đắp 99 ụ súng, ngoài đóng cọc, xây kè và cho trồng 4.000 cây dừa để ngăn sóng biển. Ngoài pháo đài này là một hệ thống đồn lũy khác bên cạnh cửa Thuận An, gồm đồn Hòa Duân, đồn Côn Sơn, đồn Hạp Châu và đập chắn Thuận An. Hệ thống đồn lũy này đều đƣợc bố trí một lực lƣợng lớn binh lính với các vũ khí mạnh nhất của triều Nguyễn. Cuối năm 1861, tại khu vực này có 1.961 binh lính, 308 đại bác các loại (đại pháo, Oanh sơn, Quá sơn, Thần công, Vũ công, Đăng uy, Thắng cơ, Chấn uy); đến những năm 1881-1882, số binh lính và vũ khí còn đƣợc tăng cƣờng nhiều hơn nữa. Ngoài cửa Thuận An, triều Nguyễn còn cho xây dựng hệ thống đồn lũy phòng thủ ở các cửa biển Hải Vân, Chu Mãi (Chân Mây), Cảnh Dƣơng và cửa Tƣ Hiền để bảo vệ các vùng biển quan trọng thuộc kinh đô. Triều Nguyễn, ngoài việc tăng cƣờng sức mạnh quân sự, an ninh cho hệ thống cảng biển Đà Nẵng, còn rất quan tâm đến việc cải tiến và tăng cƣờng hiệu quả hoạt động của cảng Đà Nẵng nhƣ lập quy chế về kiểm soát tàu thuyền ra vào bến cảng Đà Nẵng, cải tiến hệ thống thông tin liên lạc... Vùng địa phƣơng phía Đông Bắc Đà Nẵng cũng đƣợc triều Nguyễn xây dựng pháo đài và thành lũy nhằm liên kết, hợp tác với những chiến thuyền lớn đậu trên biển, khi lâm trận có thể dễ dàng ứng cứu lẫn nhau. Sau sự kiện quân Pháp tấn công, bắn chìm 5 chiến thuyền bọc đồng của triều Nguyễn tại Đà Nẵng, vua Thiệu Trị càng đặc biệt chú ý tới hệ thống phòng thủ Đà Nẵng, lệnh cho triều thần đặt 7 đồn, bố trí hỏa lực mạnh, thƣờng gọi là "Trấn Dƣơng thất bảo'' thuộc vùng biển Quảng Nam... Thời kỳ triều Nguyễn trị vì, tỉnh Bình Định đƣợc quan tâm bởi đây là một vùng trọng địa của đất nƣớc. Do đó, các vua triều Nguyễn đời trƣớc đến vua Minh Mạng đã có một tầm nhìn rất xa trong vấn đề phòng thủ và bảo vệ chủ quyền quốc gia tại Bình Định. Nhận thấy cửa biển Thị Nại là nơi mà cƣớp biển và giặc ngoại xâm có thể tấn công nên vua Minh Mạng đã giao cho các Bộ xây dựng pháo đài để phòng thủ đề phòng những biến cố có thể xảy ra. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), triều đình xây pháo đài Hổ Cơ ở cửa biển Thi Nại tỉnh Bình Định. Vua nghĩ cửa biển Thi Nại nƣớc sâu núi cao, thuyền tàu thƣờng hay đỗ lại, cũng là chỗ địa đầu xung yếu nên phái ty bộ Công và vệ Giám thành mỗi bên 1 ngƣời đi
  5. TINH THẦN PHÒNG THỦ BIỂN ĐÔNG CỦA TRIỀU NGUYỄN... 157 hội với quan tỉnh xem hình thế đất ấy và chuẩn cho lập một pháo đài ở xứ Hổ Cơ, gọi là pháo đài Hổ Cơ. Sau đó, vua cho đặt 1 bảo lắp lũy đất ở gò cát đối ngạn với pháo đài, gọi là bảo Thi Nại để chống đỡ với nhau, ai thuê 500 dân phu xây dựng công việc ấy (Xứ Hổ Cơ ở bờ Đông Nam đồn cửa biển, trên có một núi cao hơn 7 trƣợng, có thể trông ra ngoài biển. Pháo đài xây hình tròn, chu vi 27 trƣợng, thân đài cao 5 thƣớc 4 tấc, 3 mặt đằng trƣớc, bên tả, bên hữu đều xây bậc đá, chia đặt 10 cỗ súng gang Hồng y, 2 cỗ súng gang Phách sơn, 6 cỗ súng đồng Quá sơn. Mặt sau làm cửa đài, khoảng giữa đài về mạn trƣớc xây cột cờ, bên tả đặt kho thuốc súng, bên hữu làm trại lính. Gò cát ở phía Tây đồn cửa biển ngang đối với xứ Hổ Cơ, cách nhau hơn 280 trƣợng, bảo đắp hình dài, trƣớc sau đài đều 10 trƣợng, tả hữu ngang đều 7 trƣợng 2 thƣớc, thân lũy cao 6 thƣớc 3 tấc. Mặt trƣớc xây bậc để súng, chia đặt súng gang Hồng y, Phách sơn mỗi thứ 2 cỗ, 2 cỗ súng đồng Quá sơn. Mặt sau làm cửa bảo, quãng giữa bảo làm một trại lính. Chỗ gần bảo làm một cái nhà vuông, cho viên coi đồn ở.) Việc cho xây dựng pháo đài Hổ Cơ ở cửa biển Thị Nại đã cho thấy vƣơng triều Nguyễn đã xem cửa biển Thị Nại là một địa điểm tối quan trọng trong vấn đề bảo vệ chủ quyền đất nƣớc. Đó là một tầm nhìn xa bởi qua các sách chính sử chúng ta đã thấy cửa biển này nhiều lần có cƣớp biển và giặc ngoại xâm nhòm ngó và tại đây đã xảy ra nhiều cuộc giao tranh đẫm máu chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền đất nƣớc. Kể từ khi xây dựng pháo đài Hổ Cơ, vƣơng triều Nguyễn đã đập tan đƣợc nhiều âm mƣu của các thế lực ngoại bang nhòm ngó, xâm lăng. Triều Nguyễn xây dựng hệ thống phòng thủ bờ biển nhằm tăng cƣờng sức mạnh phòng thủ vùng biển, tạo cơ sở hƣớng ra biển Đông. Hệ thống phòng thủ biển đảo này rất hữu hiệu với công tác tuần tra, chống lại sự nhòm ngó của các nƣớc xung quanh đối với vùng biển của nƣớc ta cũng nhƣ sự quấy nhiễu của hải tặc. Tuy nhiên, đây cũng là lối tƣ duy quân sự thụ động không linh hoạt, khi gặp phải tàu to súng lớn của Phƣơng Tây khó bề chống đỡ. Tháng 8/1883, thực dân Pháp nổ súng tấn công cửa biển Thuận An, hệ thống phòng thủ bờ biển đã không trụ đƣợc, lần lƣợt thất thủ. Phải khẳng định việc Triều Nguyễn cho xây dựng hệ thống phòng thủ biển đảo là sự thể hiện một tinh thần phòng thủ biển Đông, là việc làm xuất phát từ ý tƣởng bảo vệ chủ quyền, nhƣng cách làm chƣa ổn. Cùng với đó triều đình rất mực quan tâm xây dựng lực lƣợng hải quân hùng mạnh để bảo vệ vùng biển nƣớc ta. Triều Nguyễn ý thức sâu sắc về chủ quyền biển nên ra sức tăng cƣờng xây dựng lực lƣợng hải quân, với tƣ tƣởng quân sự “lấy thủy quân làm trọng” và lòng tự hào về hải quân. Triều Nguyễn luôn chú trọng đến kỹ thuật phƣơng Tây về trang bị vũ khí và huấn luyện thủy quân. Theo tác giả Đỗ Văn Ninh: “Nhà Nguyễn đã nhận thức đúng đắn đƣợc tầm quan trọng của thủy quân và đã có sự cố gắng lớn trong việc xây dựng binh chủng này. Vào đầu thời Nguyễn, đặc biệt là Thiệu Trị và Tự Đức, hải quân đã đƣợc trang bị nhiều loại tàu thuyền, mỗi loại tùy cỡ lớn, nhỏ mà chức năng khác nhau, khả dĩ có thể đảm nhiệm tốt mọi nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ và chiến đấu của một binh chủng lớn đƣơng thời”
  6. 158 ĐẶNG HIỀN Dƣới triều vua Minh Mạng, thủy quân nƣớc ta đƣợc trang bị một số lƣợng tàu thuyền khá hùng hậu. Theo sách Đại Nam Thực Lục, đến năm 1821, tổng số tàu thuyền của Việt Nam là 3.190. Riêng lực lƣợng thủy binh dƣới triều vua Gia Long có 200 thuyền mang 16 đến 22 đại bác, 500 chiến thuyền nhỏ có 40 đến 44 thủy sƣ, vũ trang bằng nhiều tiểu bác và 1 đại bác; 200 chiến thuyền lớn với 50 đến 70 thủy sƣ, vũ trang bằng các đại bác và một tiểu bác; 3 tàu chiến theo kiểu châu Âu là Phụng Phi, Long Phi và Ƣng Phi, mỗi thuyền có đến 30 đại bác. Sang triều vua Tự Đức, ban đầu triều đình có ý duy trì việc đóng tàu máy hơi nƣớc nhƣ các triều trƣớc đã làm. Do đó, năm 1863, vua Tự Đức đã cử viên ngoại Lang Hoàng Văn Sƣởng, cai đội Lê Văn Mân cùng 8 ngƣời thuộc Thủy sƣ Vũ Khố sang Hƣơng Cảng học tập kỹ thuật đóng tàu trong các xƣởng của ngƣời Anh. Năm 1866, vua Tự Đức lại sai hai tỉnh Vĩnh Long và An Giang lựa chọn 20 thợ thủ công có tay nghề cao, cử tới Gia Định để học tập các nghề kỹ thuật cao nhƣ đúc súng bằng sắt, đóng tàu thủy, chế tạo máy móc trong các công xƣởng của ngƣời Pháp ở Gia Định. Đến cuối triều vua Tự Đức, do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện vật chất ngành đóng tàu, nhất là tàu chiến đã suy thoái và chấm dứt. Để sẵn sàng cho các tình huống trên biển, Triều Nguyễn đã quan tâm tổ chức và huấn luyện thủy quân làm cho trình độ tác chiến thủy của quân đội Triều Nguyễn đƣợc nâng cao, đồng thời thủy quân có thể làm quen, sử dụng thành thạo các trang bị mới. Theo nghiên cứu của tác giả Bùi Gia Khánh: “Tổng số lực lƣợng quân đội của Nguyễn Ánh năm 1800 là 139.000 ngƣời. Trong đó, lực lƣợng thủy quân có 26.800 ngƣời” [3, tr. 36]. Đến lƣợt mình, vua Minh Mạng ra sức củng cố lực lƣợng thủy quân mạnh để phục vụ cho việc trị quốc. Dƣới thời Minh Mạng, Triều Nguyễn có “Bốn binh chủng lớn là bộ binh, thủy binh, pháo binh và tƣợng binh. Tuy nhiên tƣợng binh và pháo binh là binh chủng phụ thuộc… chỉ có bộ binh và thủy binh mới đƣợc coi là binh chủng đúng với ý nghĩa của nó” [9, tr. 46]. Về tổ chức của thủy quân, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Hội điển) chép khá rõ: “Vào đầu thời Gia Long, lực lƣợng thủy quân có 5 doanh: Nội thủy, Tiền thủy, Tả thủy, Hữu thủy và Hậu thủy. Trong đó ở doanh Nội thủy, chi Trung và chi Hậu đặt 10 thuyền từ Trung Nhất đến Trung Thập; chi Tiền đặt từ đội Nhất đến đội Ngũ. Ba chi thuộc doanh Tiền thủy đều đặt làm 6 đội; ba chi Thủy doanh Tả, Hữu, Hậu, mỗi chi đều đặt ba đội. Đồng thời đặt thêm 5 vệ Ngũ tiệp Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu lệ thuộc vào 5 doanh. Đứng đầu các doanh là một Chánh doanh thống chế. Ở mỗi đội, Cai đội, Phó đội, Đội trƣởng số lƣợng không nhất định, dao động từ 17 đến 20 ngƣời” [8, tr. 134]. Năm 1836, vì công việc của thủy quân lớn và nhiều, vua Minh Mạng cho đặt thêm 5 vệ nữa, gộp với 10 vệ trƣớc đó, chia đặt làm 3 doanh Thủy sƣ Kinh kỳ. Đứng đầu Thủy sƣ Kinh kỳ là Đô thống, Đề đốc (chánh nhị phẩm), Hiệp lý (dùng quan nhị phẩm bên văn sung vào) đều 1 ngƣời. Thủy sƣ Kinh kỳ có 3 doanh Trung, Tả, Hữu; mỗi doanh 5 vệ, mỗi vệ 10 đội, đều lấy lính tuyển. Trong 5 vệ của mỗi doanh thì chỉ có 1 vệ đặt chức Chƣởng vệ 1 ngƣời, còn 4 vệ kia đều đặt 1 Vệ úy, 1 Phó Vệ úy. Quy chế về quan chức của 3 doanh đều nhƣ nhau.
  7. TINH THẦN PHÒNG THỦ BIỂN ĐÔNG CỦA TRIỀU NGUYỄN... 159 Không chỉ xây dựng và tổ chức thủy quân, công tác huấn luyện thủy quân cũng đƣợc triều đình quan tâm. Vua Minh Mạng từng nói: “Thủy quân, nên thi hành diễn tập, chẳng hạn loại thuyền mành, buồm chèo, cột buồm, dây buồm, ngƣời cầm lái và thủy thủ, tiến hành thao diễn đƣợc cố ngƣời tinh thạo, sau đến đƣờng biển đƣờng sông, chỗ nông chỗ sâu, chỗ hiểm chỗ dễ và chỗ đảo lớn, đảo nhỏ, nơi sâu cạn, nhất thiết phải tránh, nên khiến cho họ tập để biết tất cả” [8, tr. 395]. Năm Gia Long thứ 2 nghị chuẩn: “Về thủy quân diễn cách chèo thuyền, tức thì ở chổ đất liền, thiết lập đồ chèo thuyền, chọn vài trăm ngƣời biết chèo, cho diễn tập làm nhƣ hình dáng đi thuyền. Hằng năm đầu Xuân y theo phép ấy diễn tập” [8, tr. 394]. Triều Minh Mạng quan tâm xây dựng huấn luyện thủy quân theo phƣơng pháp châu Âu. Thời Minh Mạng dù đƣợc tiếp nhận từ tiền triều binh chủng có vài thập kỷ đào tạo huấn luyện theo “đƣờng lối Thái Tây” nhƣng vua Minh Mạng thấy thủy quân Đại Nam vẫn chƣa đƣợc “tinh thục”, khi so với các nƣớc phƣơng Tây có thủy quân thiện chiến. Vua lệnh cho bộ binh phải soạn “Quyển sách thủy chiến” làm giáo trình cho thủy quân học tập. Đến thời vua Thiệu Trị, công tác huấn luyện đã đạt đƣợc nhiều kết quả tích cực. Năm 1845, vua có dụ rằng: “Lần này 2 thuyền Định Lƣơng, Bình Dƣơng cùng thuyền hải vận ở Gia Định diễn tập, đƣơng lúc gió dập mƣa vùi, sóng réo ầm ầm, thế mà bọn ấy vẫn giữ gìn mấy ngày đƣợc không lo ngại” [7, tr. 534]. Do nhận thức đƣợc tầm quan trọng của lực lƣợng thủy quân trong việc bảo vệ biển Đông, giữ gìn an ninh quốc gia từ phía biển, từ thời vua Gia Long đến vua Minh Mạng thủy quân nƣớc ta đã có những thay đổi lớn, quan trọng về mặt tổ chức xây dựng cho đến công tác huấn luyện biến lực lƣợng hải quân triều Nguyễn thành một lực lƣợng hùng mạnh trong khu vực. Sang thời vua Thiệu Trị và đầu thời vua Tự Đức công tác tổ chức và huấn luyện thủy quân cũng y nhƣ phép cũ để lại. Các vua Nguyễn luôn ƣu tiên xây dựng lực lƣợng này. Lực lƣợng thủy quân hùng mạnh Triều Nguyễn đã thực thi đƣợc chủ quyền, làm yên cƣơng giới quốc gia trên biển Đông. Với lối tổ chức và huấn luyện trên, thủy quân Đại Nam tuy hùng mạnh và mang hơi hƣớng hiện đại phƣơng Tây, nhƣng xét tổng thể đây vẫn là đội quân lạc hậu theo kiểu phong kiến trung đại, trang bị còn thô sơ, chỉ huy còn thụ động nên khi đối đầu với thủy quân các nƣớc phƣơng Tây sau này đã nhanh chóng bị đánh bại, đó là vào tháng 4/1847, hải quân Pháp tấn công Đại Nam ở Đà Nẵng, đánh chìm 6 thuyền chiến của Triều Nguyễn, phá hủy nhiều hệ thống công sự chiến đấu. Điều này một lần nữa khẳng định tinh thần hƣớng ra biển Đông của Triều Nguyễn. Tuần tra là hoạt động quan trọng trong bảo vệ, thực thi chủ quyền vùng biển, thể hiện qua các hoạt động tuần tra, kiểm soát giữ yên vùng biển. Qua việc tổ chức, trang bị và huấn luyện quân thủy theo hƣớng thủy quân biển, nhà Nguyễn có điều kiện để thực hiện tuần tra, gìn giữ vùng biển dài rộng. Cái lợi của tuần tra mặt biển đƣợc vua Minh Mạng chỉ rõ: “đi tuần phòng ven bể, một là để thao luyện cách lái thuyền cho quen thiện dòng nƣớc, một là để tập đánh dƣới nƣớc,
  8. 160 ĐẶNG HIỀN biết rõ đƣờng bể, khiến cho bọn giặc bể nghe tin không giám gây sự. Thế có phải là một việc mà đƣợc ba điều lợi không” [6, tr. 310] . Công tác, tuần tra vùng biển nói chung đƣợc giao cho lực lƣợng thủy quân chính quy, song ở các địa phƣơng thƣờng đƣợc giao quyền chủ động. Các tỉnh lấy dân địa phƣơng (dân ngoại tịch) rồi lập thành các đội tuần tra, nhƣ tháng 7/1803, “lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng Sa. Sai thuộc nội Cai cơ Võ Văn Đức quản giữ ba đạo Cần Giờ, Vũng Tàu và Đồng Tranh. Võ Văn Đức tâu rằng: “Cần Giờ trƣớc có quân ba đội Bình Hải, gần đây trốn đi gần hết. Xin hạ lệnh cho Cai đội Tiền thủy là Bùi Văn Hạnh mộ dân ngoại tịch lập làm đội Bình Hải cho lệ theo để sai khiến. Vua y cho” [5; tr. 566]. Tuần tra đƣợc tiến hành theo chu kỳ nhất định, tùy thuộc vào thời gian có nhiều thuyền buôn và thuyền công sai đi lại nhiều hay ít. Nhƣ bản dụ năm 1835: “Mỗi khi mùa hè đến kỳ vận tải thì do Đề đốc Thừa Thiên liệu đem theo biền binh thuộc phủ và đem theo biền binh ở đồn biển cùng ra biển, căn cứ theo hải phận qua lại cùng tuần thám bảo vệ. Nếu kỳ nào đoàn thuyền đi vận tải số nhiều, thì cho tƣ bộ sức thêm thuyền binh, cùng đi do thám... Những thuyền binh hàng năm phái đi, cho cứ vào tháng 3 bắt đầu, tháng 7 thì thôi. Điều này ghi làm lệ” [8; tr. 427]. Tuy nhiên cũng tùy theo từng điều kiện cụ thể mà có thể tiến hành sớm hoặc muộn hơn có khi tháng Giêng, tháng Hai đã phải tiến hành tuần thám nhƣ bản dụ năm 1838 cho biết: “Trƣớc đây trẫm đã giáng lời dụ hàng năm binh thuyền đi tuần ngoài bể, cứ tháng Hai ra đi. Nay tháng Giêng trời đã sáng tỏ mà đƣờng đi thuận tiện, chính là thời kỳ thuyền buôn đi về, thời nên phái đi tuần tiễu ngay để yên vùng bể” [2; tr. 266]. Đặc biệt ở các vùng biển có nhiều hải tặc thì không kể mùa nào bởi “tấn thủ sở tại vốn có trách nhiệm tuần phòng” [8; tr. 435]. Với một bờ biển rộng dài thì việc kiểm soát tàu thuyền ra vào là hoạt động quan trọng, thƣờng xuyên dƣới triều Nguyễn. Thuyền công, thuyền tƣ, thuyền trong nƣớc và thuyền nƣớc ngoài đều phải quan tâm kiểm soát không ngoài mục đích an ninh và kinh tế. Các cơ quan có liên quan nhƣ ty Hành nhân, Tào chính và nha Thƣơng bạc ngoài việc chuyên môn còn có chức năng “quản chế ngoại thƣơng”. Tháng 12/1835, Minh Mạng sai “cấp đồ nhung phục cho quan Quảng Thủy để dùng mặc khi có sai phái và xét hỏi các tàu buôn ngoại quốc” [1; tr. 256]. Tàu phƣơng Tây đến cảng biển Việt Nam luôn đƣợc dành sự quan tâm đặc biệt. Năm Minh Mạng 18 (1837), vua ban dụ rằng: “tấn Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam là nơi bờ bể quan trọng ở gần Kinh kỳ, tàu thuyền nƣớc ngoài qua lại, quan hệ không phải là nhỏ. Vậy chuẩn định: Từ nay phàm tàu thuyền nƣớc ngoài bất kỳ đến khu tấn Đà Nẵng mà đậu nhờ, thì không kể là dấu hiệu nƣớc nào và là kiểu thuyền gì, viên tấn thủ tấn ấy phải tự đến hỏi rõ tình hình. Nếu là việc quan trọng, thì lập tức làm tờ tâu do đƣờng trạm phi ngựa dâng lên, hoặc do lệ tối khẩn phát trạm đƣa vào tâu. Còn các công việc tầm thƣờng, cũng lập tức kể đủ duyên do tƣ vào bộ để chuyển tâu, khiến trẫm sớm đƣợc biết hết tình trạng, điều ấy rất là quan trọng. Cần phải hết sức cẩn thận” [8, tr. 417 - 418]. Tháng 12 năm 1835, vua Minh Mạng quy định chặt chẽ việc kiểm soát tàu thuyền phƣơng Tây nhƣ: Khi đến đậu phải xét hỏi trong tàu có bao nhiêu ngƣời, đăng ký rõ
  9. TINH THẦN PHÒNG THỦ BIỂN ĐÔNG CỦA TRIỀU NGUYỄN... 161 ràng, bẩm lên thƣợng ty, mới cho lên bờ mua bán với các cửa hàng chợ búa gần đó, nhƣng phải nghiêm việc phòng bị, không cho ở tản mát nhà dân, mua bán xong rồi lại kiểm đủ số ngƣời, đuổi ra biển không cho một ngƣời ở lại. Sang thời vua Thiệu Trị, năm 1845, Nhà nƣớc quy định lại việc kiểm soát tàu thuyền nƣớc ngoài ra vào nhƣ: các tàu đến hải phận phải treo cờ, quy định việc tàu thuyền vào bờ lấy củi nƣớc phải đi ngay, kiểm soát tàu thuyền đi buôn khi ra vào cảng, cấm không cho nhân dân giao thiệp với thuyền buôn,... Nhận thức việc tuần tra là nhiệm vụ quan trọng thƣờng xuyên để đảm bảo an ninh quốc gia trên biển, Triều Nguyễn đẩy mạnh thực thi nhiệm vụ này. Vua Nguyễn tăng cƣờng hệ thống giám sát, các chính sách liên quan, khuyến khích nhân dân tại chỗ vào công tác đảm bảo chủ quyền biển đảo nên giữ cho biển Đông đƣợc “lặng sóng”. Bên cạnh đó, việc tuần tra và một số chính sách liên quan đã hạn chế nền ngoại thƣơng với các nƣớc bên ngoài, làm cho nền kinh tế chậm phát triển và lạc hậu. Nhƣng điều này càng làm rõ thêm tinh thần phòng thủ biển Đông của Triều Nguyễn và phƣơng sách dùng sức dân tại chỗ vào công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đây là một bài học mà chúng ta phải rút ra và ghi nhớ. 4. KẾT LUẬN Tinh thần hƣớng ra biển Đông sớm nảy mầm trong tâm thức ngƣời Việt thuở xa xƣa và đƣợc vun đắp, nuôi dƣỡng qua bao thế hệ. Tinh thần ấy càng đƣợc hun đúc trọn vẹn dƣới triều Nguyễn qua việc xây dựng một hệ thống phòng thủ nghiêm ngặt, một đội thủy quân hùng mạnh đi đôi với hoạt động tuần tra kĩ lƣỡng có tổ chức, tất cả đã đạt nền móng ban đầu trong việc bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia, để cho bậc hậu thế sau này tiếp bƣớc noi theo. Cho đến ngày nay, biển Đông vẫn muôn tràn sóng gió bởi các thế lực thù địch nhòm ngó hòng lấn chiếm, chúng ta – những con ngƣời Việt Nam kế thừa sự nghiệp nghìn năm của cha ông, chủ nhân tƣơng lai đất nƣớc hãy cùng chung nhìn về phía biển, chung tay góp sức bảo vệ biển bảo quê hƣơng, phát huy truyền thống tốt đẹp “hƣớng ra biển Đông” của tổ tiên, xứng đáng là “con rồng cháu tiên”, hoàn thành nhiệm vụ “các vua Hùng đã có công dựng nƣớc, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nƣớc” mà Bác Hồ kính yêu đã căn dặn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cao Xuân Dục tuyển tập (2002). Quốc triều sử toát yếu, Tập 1, Bản dịch, NXB Văn học, Hà Nội. [2] Trung tâm nghiên cứu Quốc học (2003). Châu bản triều Tự Đức (1848 – 1883), NXB Văn học, Hà Nội. [3] Bùi Gia Khánh (2010). Thủy quân triều Nguyễn thời kỳ 1802 – 1858, Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, bảo vệ tại khoa lịch sử, Trƣờng Đại học khoa học, Đại học Huế. [4] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (2001). Đại Nam thực lục, tập 1, Bản dịch của Viện Sử học, tái bản lần thứ nhất, NXB Giáo dục, Hà Nội. [5] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (2002). Đại Nam thực lục, Tập 4, Bản dịch của Viện Sử học, tái bản lần thứ nhất, NXB Giáo dục, Hà Nội.
  10. 162 ĐẶNG HIỀN [6] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (2004). Đại Nam thực lục, Tập 4, Bản dịch của Viện Sử học, tái bản lần thứ nhất, NXB Giáo dục, Hà Nội. [7] Nội các triều Nguyễn (2005). Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 2, bản dịch, in lần thứ 2, NXB Thuận Hóa, Huế. [8] Nội các triều Nguyễn (2005). Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 5, bản dịch, in lần thứ 2, NXB Thuận Hóa Huế. [9] Đỗ Văn Ninh (1993). “Quân đội nhà Nguyễn”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội. ĐẶNG HIỀN SV lớp Sử 3A, Khoa Lịch sử, Trƣờng Đại học Sƣ phạm – Đại học Huế ĐT: 0122 245 4846, Email: hiendang920531@gmail.com
nguon tai.lieu . vn