- Trang Chủ
- Chính trị học
- TINH HOA GIÁO DỤC QUÂN SỰ VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN, Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC HUẤN LUYỆN- GIÁO DỤC TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Xem mẫu
- TINH HOA GIÁO DỤC QUÂN SỰ VIỆT NAM
THỜI KỲ PHONG KIẾN, Ý NGHĨA ĐỐI VỚI
VIỆC HUẤN LUYỆN- GIÁO DỤC TRONG QUÂN
ĐỘI HIỆN NAY
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước dân tộc Việt
Nam đã nhiều lần bị các thế lực thù địch xâm lược và âm mưu đồng hoá.
Song với một nội lực mạnh mẽ từ ngàn đời cha ông ta đã biết gắn liền cuộc
đấu tranh giành độc lập với việc chống đồng hoá, giữ gìn và phát triển bản
sắc riêng của mình. Một cốt cách dân tộc , một tinh thần dân tộc, một bản
lĩnh dân tộc trải qua hàng ngàn năm sóng gió được hình thành và được hun
đúc vững vàng. Cùng với nền văn hiến Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc là
một truyền thống quân sự, tài thao lược Việt Nam cũng được hình thành,
phát triển theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là truyền thống anh hùng
bất khuất, thông minh, sáng tạo: truyền thống lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch
nhiều, truyền thống “cầm quân, dùng quân, nuôi quân” độc đáo …Do vậy
việc tìm hiểu giáo dục quân sự Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc là một công việc cần thiết, vừa có ý nghĩa tổng kết kinh
nghiệm, xây dựng lý luận , vừa có ý ngjhĩa giáo dục truyền thống và vân
dụng kinh nghiệm , lý luận, phát huy truyền thống đó vào việc giáo dục- đào
tạo thế hệ trẻ hiện nay
I. GIÁO DỤC QUÂN SỰ VIỆT NAM TỪ BUỔI ĐẦU DỰNG
NƯỚC ĐẾN THẾ KỶ THỨ XIV
1. giáo dục quân sự Việt Nam thời kỳ tiền Đại việt
a. Bối cảnh lịch sử.
1
- Từ thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư ở Bắc Bộ và
Trung Bộ. Lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ Lạc Việt và hàng chục bộ lạc Âu
Việt cùng chung sống, bộ lạc Âu Việt chủ yếu sống ở miền Việt Bắc .
Do nhu cầu trị thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh
tế, văn hoá ngày càng gia tăn, các bộ lạc sống gần nhau có xu hướng tập hợp
và thống nhất lại. Thu lĩnh bộ lạc Văn Lang hùng mạnh, thống nhất các bộ
lạc Lạc Việt, dựng nước Văn Lang xưng vua hiệu là Hùng Vương, cha
truyền con nối nhiều đời sau vẫn giữ danh hiệu đó.
Đây là thời kỳ chuyển biến sâu sắc về nhiều mặt như chính trị, xã hội ,
kinh tế, văn hoá quân sự…dẫn đến sự hình thành nhà nước phôi thai đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam.
Năm 257 trước công nguyên, thủ lĩnh Âu Việt là Thục Phán thống
nhất hai bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt lập nước Âu Lạc xưng là An Dương
Vương. Sau khi lên ngôi vua, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa (
ngoại thành Hà Nội).
Năm 218 trươc công nguyên, nhà Tần huy động50 vạn quân chia làm
5 đạo đi chinh phục Bách Việt, Quân Tần gặp phải sự chống trả quyết liệt
của các tộc người Việt. Năm214 trước công nguyên, An Dương Vương lãnh
đạo người Âu Việt kháng chiến đại phá quân Tần, giết được tướng giặc là
Đồ Thư.
Năm 179 trước công nguyên, Triệu Đà đã dùng mưu phản gián chiếm
được Âu Lạc. Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà sát nhập Âu Lạc vào
Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ(Bắc bộ ) và Cửu Chân (Bắc
trung bộ), cử quan lại sang cai trị. Nước ta bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Dưới ách áp bức bóc lột và đồng hoá nhân dân ta với lòng yêu nước
nồng nàn , tinh thần đoàn kết cộng đồng dân tộc, ý chí độc lập tự chủ, kiên
cường bất khuất liên tiếp đứng lên, dựng cờ khởi nghiã đánh giăc ngoại xâm,
2
- lật đổ chính quyền đô hộ giành quyền tự chủ. Điển hình như cuộc khởi nghĩa
Hai Bà Trưng( 2/40), khởi nghiũa Bà Triệu (năm 248); khởi nghĩa Lý Bí (
năm 542), năm 544 Lý Bí lên ngôi hoàng đế, hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên
nước là Vạn Xuân; khởi nghĩa Mai Thúc Loan ( năm 722), khởi nghĩa Phùng
Hưng (năm 776); khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ (năm 905). Khúc Thừa Dụ là
người mở đầu cách ứng sử khôn khéo với chính quyền phong kiến phương
bắc: Độc lập thực sự, thần phục danh nghĩa”. Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ
( năm 931), năm938 Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc , mở đầu thời kỳ độc lập lâu dài của dân
tộc.
Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta thời kỳ bắc thuộc đã để lại nhiều
bài học quí báu về chiến tranh nhân dân, vũ trang toàn dân, hình thành
truyền thống luyện quân – dạy quân mà các thế hệ sau đã giữ vững trong các
cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
b.Truyền thống luyện quân –dạy quân của cha ông ta từ thời các vua
hùng đến đầu thế kỷ X.
* Tổ chức lực lượng
Ngay từ thời các vua Hùng, lực lượng vũ trang thường trựcđã ra đời
và phát triển gắn liền với tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước. Bước khởi
đầu đầu này xảy ra vào khoảng thế kỷ VIII – VII trước công nguyên. Trong
cuộc đấu tranh chống quân Tần lực lượng vũ trang của An Dương Vương
khá mạnh, có khoảng 3 vạn người .
Trong thời Bắc thuộc, Bắt đầu từ khởi nghĩa hai Bà Trưng đến cuộc
kháng chiến của Ngô Quyền chống quân Nam Hán, đều được các hào trưởng
chỉ huy quân của mình hưởng ứng, hình thành truyền thống toàn dân đánh
giặc. Quân đội liên minh chống giặc của cha ông ta thường được tổ chức
thành hai đạo quân lớn, lục quân và thuỷ quân.
3
- Vũ khí, trang bị: lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của các thủ lĩnh
quân sự Giao Châu thời Bắc thuộc cơ bản có các loại sau: Vũ khí đánh xa
gồm: mũi tên – bộ phận hợp thành của cung nỏ, làm bằng đá, xương và
đồng), Lao; vũ khí đánh gần gồm: giáo, dao găm, kiếm, qua, rìu chiến, dao
chiến; vũ khí phòng hộ gồm tấm che ngực, lá chắn; phương tiệnu bảo đảm
cơ động gồm thuyền, bè, ngựa trâu, voi…; phương tiện thông tin truyền lệnh
có trống da, trống đồng. Thành trì kiên cố cũng là phương tiện quân sự quan
trọng
Mục đích luyện quân, dạy quân: Nhằm huấn luyện, giáo dục
quân đội thường trực hùng mạnh để tự vệ
Nội dung luyện quân, dạy quân thời kỳ này bao gồm sử dụng
thành thạo, có hiệu quả các loại trang thiết bị, phương tiện chiến đấu; luyện
tập đánh tiến công, phòng ngự, tập kích, phục kích, phản công , bao vây…
giáo dục lòng yêu nước căm thù giặc, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý thức độc
lập tự chủ, không cam chịu bị áp bức bóc lột. Giáo dục quan điểm chiến
tranh nhân dân, vũ trang toàn dân
Về tổ chức, phương pháp luyện quân, dạy quân: cho đến nay
chưa có tài liệu nào nói về việc đào tạo các vị tướng lĩnh, chỉ huy của nhà
nước , chủ yếu mang tính chất cá nhân tự học là chính, nhiều vị thủ lĩnh xuất
phát từ các lò võ, lò vật. Việc huấn luyện binh sĩ do các thủ lĩnh tổ chức chu
đáo, chủ yếu trên thao trường thực địa.
Truyền thống luyện quân , dạy quân của cha ông ta đã kết tinh những
giá trị cao quí, đó là lòng yêu nước, căm thù giặc, tính cố kết cộng đồng, tinh
thần độc lập tự chủ cao, tình nguyện tham gia đánh giặc khi tổ quốc bị xâm
lăng
2. GIÁO DỤC QUÂN SỰ VIỆT NAM THỜI KỲ LÝ- TRẦN
a. bối cảnh lịch sử
4
- Trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, năm 938 đất nước ta đã giành
được độc lập bằng mốc son chói lọi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam hán
trên sông Bạch Đằng, sau khi lên ngôi trị vì đất nước 27 năm thì xảy ra loạn
12 sứ quân (năm 965).
Năm 968 Đing bộ Lĩnh dẹp được loạn 12 sứ quân, lên ngôi vua đặt
tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Vào cuối triều Đinh nạn tranh
chấp ngôi vua lại xảy ra, trong lúc giăc Tống đang lăm le xâm lược nước ta.
Vì vua còn quá nhỏ tuổi , chưa thể đảm nhiệm được trọng trách giang sơ
giao phó, Thái Hậu Dương Vân Nga cùng với các quan rong triều tôn Thập
đạo t]ngs quân Lê Hoàn lên ngôi vua. Lê hoàn đã cùng quân dân cả nước
đánh tan quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước. Vào cuối
đời Lê lại xảy ra chuyện tranh giành ngôi báu gây ra sự khủng hoảng nghiêm
trọng trong triều đình. Năm 1009 Lê Long Đĩnh mất, chấm dứt triều đại Tiền
Lê.
Thế kỷ XI đến thế kỷ XV, với sự kế tiếp nhau của các triều đại phong
kiến Lý, Trần được xem như là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ
nhất của lịch sử Đại Việt, đó là thời kỳ củng cố độc lập và chủ quyền dân
tộc, xây dựng nhà nước phong kiến thống nhất; thực hiện các cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Tống và Nguyên Mông.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý, đồng thời tiến
hành việc xây dựng và phát triển toàn diện quốc gia độc lập, tự chủ và thống
nhất. Lý Công Uẩn đã xuống chiếu dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.
Cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Tống đã bị quân dân ta dưới
triều Tiền Lê đánh bại, song vua tôi nhà Tống vẫn nuôi dã tâm thôn tính
nước ta. Từ giữa thế kỷ XI, quân Tống ráo riết chuẩn bị cuộc xâm lược nước
ta lần thứ hai. Với chủ trương chủ động đánh trước để chế ngự quân địch của
Lý Thường Kiệt , quân ta mở cuộc tiến công bất ngờ vào đất Tống nhằm tiêu
5
- diệt các căn cứ xuất phát xâm lược của quân địch. Sau đó quân dânta lui về
xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt, và bằng chiến tuyến này đã chặn
đứng được 30 vạn quân Tống xâm lược. Mùa xuân năm1077, quân ta mở
cuộc phản công lớn, tiêu diệt được số lượng lớn quân địch số còn lại phải rút
về nước. Với chiến thắng oanh liệt trên phòng tuyến sông Như Nguyệt ý đồ
xâm lược của Tống đối với Đại Việt hoàn toàn bị tiêu tan .
Triều Lý suy vong, triều Trần được thành lập vào năm 1226. Triều
Trần bắt tayvào xây dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Triều
Trần thay thế Triều Lý, khi triều Lý đã đến giai đoạn tàn tạ, trong bối cảnh
có ý nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là lúc quân xâm lược Mông
Cổ đang tung hoành trên các lục địa từ á sang Âu, vận mệnh của nhiều dân
tộc trên thế giới và đất nước ta đang bị đe doạ nghiêm trọng.
trong 30 năm (1258- 1288), quân Mông - Nguyên đã ba lần xâm lược
nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Nhà Trần và nhà quân sự thiên tài Trần Quốc
Tuấn, cả nước đứng lên, trên dưới một lòng, với tinh thần dám đánh và
quyết thắng kẻ thù xâm lược. Quân Mông – Nguyên cả ba lần sang xâm lược
nước ta đều bị thất bại thảm hại.
Thắng lợi của quân và dân Đại Việt không những giữ vững được dộc
lập dân tộc mà còn góp phần to lớn ngăn chặn sự bành trướng của đế quốc
Mông – nguyên xuống vùng Đông Nam Á
b. Giáo dục quân sự dưới thời Lý – Trần
* Về tổ chức quân đội và việc chăm lo tổ chức huấn luyện- giáo dục
cho quân sĩ
Sau khi đánh thắng ngoại xâm, để củng cố nền độc lập dân tộc xây
dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền, các triều đại Lý, Trần đều
đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức quân đội và việc huấn luyện – giáo dục
cho quân sĩ.
6
- Quân đội được tổ chức hợp lý, chính qui, tướng sĩ được tuyển chọn kỹ
lưỡng, luyện tập công phu. Thời Lý- Trần áp dụng chính sách “ngụ binh ư
nông”, khi thời bình quân lính được phân chia thành các bộ phận luân phiên
về làm ruộng; nhằm mục đích vừa bảo đảm thường xuyên củng cố quốc
phòng, sẵn sàng chiến đấu vừa duy trì lực lượng lao động cần thiết cho sản
xuất nông nghiệp. Bởi vậy, giáo dục quân sự phải được tiến hành bằng
những nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp theo từng loại đối
tượng của lực lượng vũ trang.
thời Lý quân đội bao gồm: quân cấm vệ và quân các Lộ. Quân cấm vệ
là quân thường trực của triều đình có nhiệm vụ bảo vệ kinhg thành. Quân
các Lộ là quân địa phương làm nhiệm vụ canh phòng tuần tra bảo vệ các lộ,
phủ, châu. Quân đội thời Lý đã đạt đến trình độ tổ chức khá cao và được
huấn luyệ chặt chẽ, biên chế thành các đơn vị như: quân, vệ và phân thành
các binh chủng chiến đấu: bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh. Quân đội
được trang bị các loại vũ khí chủ yếu như, giáo, mác, cung tên, khiên, nỏ,
máy bắn đá…
Quân đội thời Trần có nhiều tiến bộ về mặt tổ chức và được huấn
luyện rất chu đáo. Quân cấm vệ và quân các lộ được tuyển chọn trong số các
trai tráng thuộc các gia đình nông dân. Quân vương hầu được tuyển chọn
trong số các gioa nô của gia đình quí tộc. Chính sách “ngụ binh ư nông” của
nhà Lý vẫn được nhà Trần áp dụng, đồng thời thực hiện chế độ đăng ký
quân dich chặt chẽ, đảm bảo “khi có việc chinh chiến, toàn dân đều là lính”
Về mục tiêu và nội dung huấn luyện- giáo dục quân sự
Nhằm củng cố nề thống trị và để tăng cườnglực lượng quốc phòng,
sẵn sàng đối phó vơis sự xâm lược của ngoại bang; các Triều đại Lý, Trần ở
các mức độ khác nhau nhưng nhìn chung đều đặc biệt quan tâm củng cố
quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang. Mục tiêu là, đào tạonhững người
7
- có đủ phẩm chất và năng lựcđáp ứng yêu cầu chỉ huy chiến đấu và chín đấu
thắng lợi, bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ phong kiến.
Để thực hiện được mục tiêu trên về mặt nội dung huấn luyện – giáo
dục quân sự luôn phải bảo đảm tính toàn diện và tính thiết thực, sát với điều
kiện khí hậu, địa hình, hoàn cảnh kinh tế và truyền thống nghệ thuật quân sự
độc đáo của dân tộc.
Dưới thời Lý, Trần , nội dung giáo dục quân sự chú trọng giáo dục:
Về chính trị- tinh thần truyền thống lịch sử đấu tranh của dân tộc; gắn chặt
huấn luyện về mặt lý thuyết quân sự với thực hành quân sự; huấn luyện cho
tướng sĩ cả võ kinh và võ nghệ. Hệ thống sách võ kinh ( lý luận quân sự)
trong đó có sách binh pháp của các quân sự gia Trung Quốc cổ đại như: Tôn
Tử, Ngô Khởi, binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn … Về võ nghệ, được
những người cầm quyền rất coi trọng huấn luyện cho tướng sĩ như: cưỡi
ngựa, đấu vật , đấu võ, đấu kiếm, bắn cung, lăn khiên, chèo thuyền, bơi lặn,
luyện tạp trận đồ để phối hợp tác chiến… nhằm hình thành kỹ xảo, kỹ năng
chiến thuật cho cá nhân và tập thể.
Về nội dung giáo dục xây dựng phẩm chất chính trị, tinh thần bản lĩnh
cho tướng sĩ tập trung ở việc giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần
độc lập dân tộc , ý chí quyết chiến quyết thắng; giáo dục lòng nhân ái, đoàn
kết trong quân đội…
* Về phương pháp , hình thức tổ chức huấn luyện giáo dục quân sự
Thời Lý, Trần các phương pháp huấn luyện giáo dục quân sĩ được vận
dụng khá linh hoạt. Tuỳ theo từng điều kiện hoàn cảnh để sử dụng các
phương pháp, nhưng nhìn chung đã đạt tới trình độ vận dụng tổng hợp các
phương pháp, và thực tế đã đạt được kết quả thiét thực trong thực tế giáo dục
quân sĩ.
8
- Đó là sự kết hợp giữa phương pháp giáo trí dục với phương pháp đức
dục trong lĩnh vực quân sự; gắn giáo dục chính trị tinh thần với huấn luyệ kỹ
thuật và chiến thuật. Những người cầm quân rất coi trọng phương pháp thực
hành chỉ huy, các thao tác hành động sử dụng vũ khí chiến đấu như: luyện
tập trận đò hiệp đồng tác chiến, tập dượt cung ten cưỡi ngựa đấu gươm, chèo
thuyền luyện tập thuỷ chiến, tập đánh thành , tập kích , tiến công mai phục…
Để giáo dũcây dựng tinh thần, ý chí bản lĩnh chiến đấu cho quân sĩ,
các vị tướng lĩnh chỉ huy, những người lãnh đạo với tư cách là những nhàg
giáo dục có uy tín như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, trần Quang Khải,
Phạm Ngũ Lão… đã sử dụng sáng tạo các cách thức, biện pháp giáo dục
như: giảng giải, thuyết phục- xây dựng lòng tin cho quân sĩ, rèn luyện thói
quen ứng xử theo điều lệnh. Họ biết khích lệ lòng yêu nước của người lính
đồng thời thực hiện thưởng phạt một cách công minh.
Về mặt hình thức tổ chức giáo dục quân sự dưới thời Lý- Trần cũng
rất đa dạng. Ngoài những trường học có tính chất chính qui cấp nhà nước,
như Quốc học viện, Giảng võ đường còn có các trường tư, dân lập, lò luyện.
Thời Lý năm 1170, lập “Xạ Đình” ở phía Nam kinh thành làm nơi kuyện tập
bắn cung, cưỡi ngựa tập trận pháp cho quân sĩ . Thời Trần, năm 1253 cho
lập Giảng võ đường là nơi đào tạo thanh niên quí tộc thành võ quan của trièu
đình.
Trong các hình thức tổ chức huấn luyện- giáo dục quân sự, các triều
đại Lý, Trần rất coi trọng hình thức diễn tập, thao diễn chién đấu. Thời trần,
hệ thống đường thuỷ trên sông vị hoàng ( Nam Định ) là nơi các vua thường
mở hội đua thuyền cho quân sĩ và trai tráng địa phương. Đẻ rèn luyện tác
phong nhanh nhẹn và tăng thêm sức khoẻ bền bỉ dẻo dai cho quân sĩ, danh
tướng Phạm Ngũ Lão đã sáng tạo ra trò “ vật cầu”. Để nêu gương các anh
hùng, những người có công với nước , giáo dục truyền thống yêu nước bảo
9
- vệ độc lập dân tộc; các hình thức giáo dục thể hiện thông qua việc tôn vinh,
xây dựng đền miếu thờ phụng các anh hùng, người có công với nước. Các
vua triều Lý cho dựng đền thờ Hai Bà Trưng và các nữ tướng, đền thờ
Phùng Hưng, đền thờ Phạm Cự Lạng…Lý Thường Kiệt, người anh hùng
được nhân dân tôn kính thờ ở nhièu nơi. Dưới triều Trần sau khi Trần Hơng
Đạo mất, vua Anh tông đã cho lập đền thờ ở Vạn Kiếp …
Tóm lại, giáo dục quân sự Việt Nam dưới thời Lý- Trần đã có bước phát
triển vượt bậc so với trước đó. Trình độ , qui mô, hệ thống tổ chức giáo dục
đã có bước phát triển khá cao. Các nội dung huấn luyện- giáo dục phong phú
thiết thực, thể hiện sự chăm lo đào tạo, xây dựng con người, khả năng phòng
thủ cũng như chuẩn bị và tiến hành kháng chiến chống ngoại xâm của các
triều đại . Các nội dung huấn luyện giáo dục được tiến hành thông qua nhiều
phương pháp, hình thức khác nhau và được vận dụng hết sức sáng tạo, thích
ứngvới tờng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Hầu hết các nhà lãnh đạo kháng
chiến, lãnh đạo quan đội thời bấy giờ đồng thời là các nhà chính trị, quân sự
tài năng kiệt xuất và chính họ cũng là những là những nhà giáo dục xuất sắc,
là những tấm gương sáng cho quân sĩ noi theo
2. giáo dục quân sự Việt Nam trong thế kỷ XV
a. bối cảnh lịch sử
Cuối thế kỷ XIV, triều Trần suy yếu . Năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần.
Nhà Hồ đã tiến hành hàng loạt chính sách cải cách về kinh tê, chính trị, văn
hoá, xã hội, quân sự…Năm1406, trước nguy cơ quân Minh xâm lược, nhà
Hồ ra sức chuẩn bị kháng chiến ; cuối năm 1406, hàng trục vạn quân Minh
tiến công xâm lược nước ta. Vì không qui tụ được khối đại đoàn kết toàn
dân, không phát huy được sức mạnh toàn diện của đát nước, cuộc kháng
chiến chống quân Minh do Hồ Quí Ly lãnh đạo bị thất bại nhanh chóng.
10
- Quân Minh đánh bại được Nhà Hồ nhưng không thể khuất phục được ý chí
của dân tộc ta. Phong trào yêu nước chống quân Minh phát triển khắp mọi
nơi thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia và dần dần qui tụ vào cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy ( năm 1418). Trải qua
mười năm chiến đấu đầy gian khổ hy sinh; cuối cùng cuộc chiến tranh yêu
nước, chính nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi oanh liệt, kết thúc bằng
chiến thắng lịch sử Chi lăng – Xương Giang – cuối năm 1427, tiêu diệt 10
vạn quân địch. Với chiến thắng có ý nghĩa quyết định đó, buộc Vương
Thông và 10 vạn quân Minh bị vây hãm trong các thành phải đầu hàng.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, mở ra một thời kỳ mới trong
lịch sử phát triển của quốc gia phong kiến Việt Nam. Nền độc lập được khôi
phục và củng cố vững mạnh. Đó là điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sau chiến thắng quân Minh, Lê Lợi cũng như các triều vua kế tiếp, đã tập
trung xây dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Yêu cầu đặt ra lúc
này là phải khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội sau nhiều năm bị chiến
tranh tàn phá; đồng thời phải phải xây dựng một nền giáo dục mới trên cả
hai phương diện: tư tưởng và tổ chức giáo dục.
Với sự quan tâm phát triển kinh tế – xã hội, nhà Lê đã thi hành chính sách
mới, đó là chế độ lộc điền và chế độ quân điền. nhờ chính sách đó , công
thương nghiệp phát triển nhanh chóng . cơ sở kinh tế mới là nền tảng vững
chắc cho việc xây dựng quốc gia phong kiến độc lập tự chủ, đồng thời cũng
là cơ sở để phát triển giáo dục. Mặt khác, dưới các triều Lê sơ, đặc biệt là
triều Lê Thánh Tông đã tập trung xây dựng bộ máy chính quyền vững chắc,
một quân đội thóng nhất về tổ chức và chỉ huy. Về mặt đối ngoại, nhà Lê áp
dụng chính sách bang giao khéo léo, mềm mỏng nhưng rất kiên quyết đối
với các nước láng giềng; do đó chủ quyền , an ninh đất nước, độc lập dân tộc
11
- được giữ vững . Xét về cả nội trị và ngoại giao, các triều đại Lê sơ đã khẳng
định sự hiện diện của quốc gia Đai Việt độc lập tự chủ và cường thịnh ở
vùng Đông Nam Châu Á.
b. Giáo dục quân sự dưới thời lê sơ
* Về tổ chức quân đội
Thời Lê sơ quân đội bao gồm: lực lượng quân đọi thường trược của nhà
nước và lực lượng dự bị động viên đông đảo, có thể điều động một cách
nhanh chóng khi có chiến tranh xảy ra. Nhà nước thâu tóm toàn quyền về
lãnh đạo, tổ chức lực lượng vũ trangcũng như việc sản xuất chế tạo, quản lý
và sử dụng vũ khí và kỹ thuật chiến đấu. binh lính được chia ruộng đất công
của làng xã và thay nhau về sản xuất nông nghiệp. Nhà Lê tiếp tục thực hiện
chính sách “ngụ binh ư nông”. Dưới triều Lê Thái Tổ (1428 -1433), quân đội
thường trực gồm 10 vạn, được chia làm 5 phiên, bốn phiên về sản xuất, một
phiên thường trực chiến đấu lần . triều vua Lê Thánh Tông(1460- 1497), lực
lượng quân đội là 16 vạn được chia làm hai phiên lượt thay nhau về làm
ruộng, số quân duy trì thường trực là 8 vạn.
Quân đội thời Lê Sơ được tổ chức chặt chẽ, việc huấn luyện về chiến thuật
và kỹ thuật đạt đến trình độ cao. Trang bị của quân đội có thêm những vũ
khí mới như các loại hoả pháo, hoả đồng. Dưới triều Lê Thánh Tông hầu
như không có hiện tượng tướng sĩ thua trận trong các cuộc chiến. Trong suốt
thời gian dài Ông trị vì đất nước, giang sơn bờ cõi được giữ yên. Mặt khác
bằng mưu lược, bằng chính sách đối ngoại vừa mềm mỏng vừa kiên quyết
nên không chỉ định yên được các vùng biên cương mà còn làm cho các quốc
vương Chiêm Thành, Bồn man, Chân Lạp phải thần phục và ngay cả phong
kiến phương Bắc cũng không dám xâm lược nước ta.
*Về mục tiêu và nội dung huấn luyện giáo dục quân sự
12
- Trong giai đoạn thực hiện cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nghĩa quân
Lam Sơn- đứng đầu là Lê Lợi, Nguyễn Trãi đặc biệt quan tâm giáo dục bồi
dưỡng xây dựng lên những con người có đức có tài, phục vụ tốt nhất cho
cuộc kháng chiến cứu nước.
Những người lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn coi trọng giáo dục chính trị -
tinh thần, truyền thống bất khất của của nhân dân ta trước kẻ thù xâm lược,
nô dịch. Tập trung giáo dục lòng yêu nước cho quân sĩ, tố cáo tội ác của kẻ
thù; giáo dục về lòng tự hào tự tôn dân tộc, giáo dục về tinh thần đoàn kết, ý
thức tổ chức kỷ luật, giáo dục tư tưởng nhân đạo nhân văn.
Đi đôi với việc huấn luyện- giáo dục về chính trị, tinh thần chiến đấu, các
nhà cầm quyền trong thời kỳ này còn quan tâm và thường xuyên tiến hành
võ kinh võ nghệ, kỹ thuật chiến thuật cho quân sĩ . Trên cơ sở kế thừa những
di sản về nghệ thuật quân sự truyền thống Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vận dụng
một cách sáng tạo vào đặc điểm tình hình cụ thể, đồng thời đề xuất những tư
tưởng độc đáo về nghệ thuật quân sự, có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn hoạt
động quân sự như: “lấy nhỏ thắng lớn”, “ lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch
nhiều”, “ đánh thành là hạ sách … không bằng nuôi sức, chứa uy để chờ
viện dứt, thì thành tất phải hàng. Thế là làm một mà được hai”, “ bỏ chỗ
vững, đánh chỗ hở, tránh chỗ chắc, đánh chỗ hư… dùng sức có một nửa mà
thành công gấp đôi”…
Tóm lại, về mục tiêu, nội dung huấn luyện thời kỳ này, có nhiều mặt phong
phú và không ngừng phát triển . Nhất là về nội dung huấn luyện giáo dục
quân sĩ . Cùng với việc huấn luyện về kỹ thuật, chiến thuật nghệ thuật quân
sự, những người lãnh đạo, chỉ huy quân đội rất chú trọng giáo dục về mặt
chính trị tinh thần cho tướng sĩ . Không ngừng xây dựng ở tướng sĩ tinh thần
“trung quân ái quốc”, sẵn sàng xả thân vì độc lập dân tộc. Điều này đã được
Nguyễn Trãi khát quát “ Vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài,
13
- sửa sang khí giới, luyện tập binh tượng, dậy cho nhữnh phép ngồi dậy tiến
lui, lại được hun đúc bằng những điều nhân nghĩa, khiến ai ai cũng hết lòng
thành, thân với kẻ trên chết, cho người trưởng”.
*Về phương pháp và hình thức tổ chức huấn luyện – giáo dục quân sự
Trong quá trình thực hiện cuộc chiến tranh yêu nước chống quân Minh xâm
lược cũng như sau khi đất nước được giải phóng; Lê Lợi cũng như các trièu
vua kế tiếp luôn quan tâm đến việc huấn luyện giáo dục quân đội. Bằng các
phương pháp , hình thức tổ chức huấn luyện phong phú, đa dạng sát với yêu
cầu của hoạt động quân sự trong từng giai đoạn lịch sử., những người chỉ
huy, lãnh đạo quân đội da tiến hành huấn luyện giáo dục quân sĩ có hiệu quả.
Trong kháng chiến, Lê Lợi, Nguyễn Trãi rất coi trọng gắn phương pháp đức
dục với phương pháp trí dục. Kết hợp dạy quân với luyện quân; kết hợp thực
hành chỉ huy với hành động, thao tác kĩ thuật, chiến thuật; kết hợp các
phương pháp huấn luyện giảng giải, dẫn dụ, rèn luyện hành vi; xây dựng,
củng cố lòng trung quân ái quốc cho quân sĩ. Những người lãnh đạo, cầm
quân thường xuyên chú ý đến việc nêu gương, thưởng công để giáo dục,
động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, đồng thời đó cũng thể
hiện sự tôn trọng, lòng biết ơn đối với những người có công với nước.
Về hình thức tổ chức huấn luyện - giáo dục quân sự, các triều vua dưới thời
Lê Sơ rất quan tâm đến việc tổ chức luyện tập võ nghệ, tập dượt trận đồ.
Năm1465, vua Lê Thánh Tông cho ban phép tập dượt trận đồ cả thuỷ và bộ,
các quân lệnh về thuỷ trận , tượng trận, mã trận và tượng trận …Ông ban
lệnh: “Theo những đồ trận đã ban ra ở ngay đại phận vệ mình sứa sang đội
ngũ , dạy cho (quân) những phép ngồi đứng, tiến, lui, tập nghe những tiếng
hiẹu lệnh chiêng trống, để cho quân lính tập quan cung tên, không quên võ
bị. Nếu quan nào không biết để lòng dăn dạy, rèn tập quân lính, dám sai làm
việc tạp nhiều thì xử biếm hay bãi”.
14
- ở thời Lê Sơ, vào mùa xuân hàng năm, quân đội thường trực phải tập trung
ở địa phương hoặc về kinh thành để tham gia huấn luyện caca kỳ diễn tập.
Các điều lệnh huấn luyện và chiến đấu của từng binh chủng được ban hành.
Việc kiểm tra, thi đánh giá về huấn luyện giáo dục quân sự được tiến hành
chặt chẽ. Theo định kỳ, triều đình tổ chức thi võ ở kinh thành để lựa chọn bổ
dụng các võ quan. Dưới thời Lê Sơ các triều vua rất chú trọng đến giáo dục.
Sau khi chiến thắng quân Minh, mục tiêu cấp bách đặt ra là phải nhanh
chóng đào tạo được một đội ngũ quan lại đông đảo từ triều đình đến địa
phương để giúp vua trị nước; trong đó có đội ngũ võ quan lãnh đạo, chỉ huy
quân đội. ở triều vua Lê Thánh Tông Ông coi việc huấn luyện thi cử là biện
pháp hàng đầu để chọn người có học chọn, võ quan. Là một nhà chính trị lỗi
lạc, đồng thời Lê Thánh Tông còn có tài năng trong lãnh đạo, tổ chức, chỉ
huy quân đội. Ông không chỉ quan tâm đến vấn đề “Văn trị” mà còn rất coi
trọng đến vấn đề “võ bị”. Khi cầm quân đi đánh Chiêm Thành ông viết
“Sách Bình Chiêm”. Dưới thời Lê Thánh Tông, quân đội được tổ chức cân
đối, hợp lý phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tướng sĩ được lựa
chọn kỹ, luyện tập, thi cử nền nếp, qui củ ; chất lượng quân sĩ tốt, tinh nhuệ ,
giữ vai trò tích cực trong việc củng cố quốc phòng, bảo vệ độc lập chủ
quyền và sự bình yên của tổ quốc .
Tóm lại, Giáo dục quân sự Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh yêu nước
chống quân minh và dưới triều Lê Sơ luôn luôn phát triển cùng với sự phát
triển của lịch sử dân tộc. ở thời kỳ này trình độ, qui mô và hệ thống giáo dục
đã từng bước được nâng cao, ngày càng đi vào qui củ, vững chắc. Các nội
dung huấn luyện, giáo dục phản ánh rõ nét nền văn hiến dân tộc, sự quan
tâm củng cố nền quốc phòng vững mạnh, khả năng tiến hành chiến tranh giải
phóng và bảo vệ độc lập dân tộc. các phương pháp và hình thức tổ chức giáo
dục đạt đến trình độ khá cao, được vân dụng hết sức linh hoạt, phù hợp với
15
- các hoàn cảnh, đặc điểm truyền thống dân tộc Việt Nam. Trong kháng chiến
cứu nước cũng như trong công cuộc bảo vệ tổ quốc, các nhà lãnh đạo kháng
chiến, lãnh đạo quân đội, các triều đại phong kiến tiến bộ đã thống nhất giáo
dục quan sĩ về lòng “trung quân ái quốc”, cũng có nghĩa là yêu nước trung
thành với vua theo mục tiêu cứu nước giữ nhà, giữc vững độc lập chủ quyền
cuả dân tộc. Trên cơ sở đó mà các triều đại đã tập hợp được đông đảo các
tầng lớp nhân dân. thực hiện được toàn dân đánh giặc dưới ngọn cờ đại ngiã
của dân tộc, lập nên những chiến công hiển hách, xây dựng nước ta trở thành
một quốc gia cường thịnh ở vùng Đông Nam châu á.
16
nguon tai.lieu . vn