Xem mẫu

  1. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG CHĂN NUÔI TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN Nguyễn Thu Quyên1*, Phan Thị Hồng Phúc1 và Phạm Thị Trang1 Tóm tắt Việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi không tuân thủ nguyên tắc đã, đang và sẽ làm tăng khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn, có nguy cơ lây lan sang người từ chuỗi thực phẩm. Nhằm đánh giá tình hình sử dụng kháng sinh cũng như những hiểu biết về cách sử dụng kháng sinh, cách xử lý vật nuôi sau khi sử dụng kháng sinh của các hộ chăn nuôi, chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát trực tiếp tại 200 hộ chăn nuôi chuồng hở, quy mô nông hộ và 50 hộ chăn nuôi chuồng kín, theo quy mô công nghiệp. Bảng khảo sát được thiết kế trên phần mềm ODK collect phiên bản v1.30.1. Điều tra viên thực hiện điền bảng khảo sát dựa trên sự quan sát và thông tin thu được từ buổi phỏng vấn, dữ liệu nghiên cứu được tổng hợp trên phần mềm ODK và được xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả. Kết quả nghiên cứu cho thấy: phần lớn các hộ chăn nuôi được tham gia khảo sát đều có những hiểu biết nhất định về kháng sinh. Mặc dù vậy, với những nội dung khảo sát về nhận thức của người chăn nuôi với kháng sinh, vẫn có khoảng 30 - 40% số hộ chưa nhận thức đúng về kháng sinh sử dụng trong chăn nuôi. Đối với các hộ chăn nuôi quy mô lớn, việc tuân thủ các nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh cho vật nuôi được thực hiện khá tốt, đạt từ 74 - 90% ở các nội dung được hướng dẫn. Tuy nhiên, đối với các hộ chăn nuôi quy mô nông hộ, thì việc tuân thủ các nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh cho vật nuôi còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc tuân thủ ngừng sử dụng kháng sinh trước khi bán để giết mổ theo hướng dẫn của nhà sản xuất chỉ có 30,50% số hộ thực hiện, còn gần 70% số hộ chăn nuôi còn lại vẫn xuất bán vật nuôi ngay cả khi đang sử dụng kháng sinh cho vật nuôi. Từ khóa: Kháng sinh, kháng kháng sinh, Thái Nguyên. THE USAGE OF ANTIBIOTIC IN LIVESTOCK IN THAI NGUYEN PROVINCE Abstract The use of antibiotics in livestock that do not comply with the principles has been, is and will increase the antibiotic resistance of bacteria, and there is a risk of spreading to humans from the food chain. In order to assess the use of antibiotics as well as the understanding of how to use antibiotics, how to treat animals after using antibiotics, we conducted a direct survey at 200 households raise open stables, small scale and 50 households raise closed pens, according to industrial scale. The survey was designed on the ODK collect software version v1.30.1. The enumerators filled out the survey based on the observations and information obtained from the interview, the research data was synthesized on the ODK software and processed by descriptive statistical methods. The research results show that: the majority of households participating in the survey have certain knowledge about antibiotics. However, with the contents of the survey on the farmers’ perception of antibiotics, about 30 - 40% of the households are still not aware of the antibiotics used in livestock production. For large-scale livestock households, compliance with the principles of using antibiotics for livestock is quite good, reaching from 74 to 90% of the instructed content. However, for small-scale producers, compliance with the principles of using antibiotics for livestock is still limited, especially the compliance with stopping antibiotics before slaughter. Only 30.50% of the households follow the instructions of the producer, while nearly 70% of the remaining households still sell their animals even when using antibiotics for livestock. Keywords: Antibiotic, AMR, Thai Nguyen. 1 Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. * Tác giả liên hệ: Nguyễn Thu Quyên. Email: nguyenthuquyen@tuaf.edu.vn; ĐT: 0989386130 1004
  2. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Trong khoảng một thập kỷ trở lại đây, NGHIÊN CỨU vấn đề kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01 đến được đề cập đến ngày càng nhiều hơn. Thực tháng 12 năm 2020. trạng kháng kháng sinh đã mang tính toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển với - Địa điểm: Tỉnh Thái Nguyên các bệnh truyền nhiễm còn chiếm tỷ lệ cao Mục đích: Đánh giá tình trạng sử dụng trong số các bệnh ở người và động vật. Thực kháng sinh trong chăn nuôi, làm cơ sở xây dựng trạng này đang là mối lo và là gánh nặng thực giải pháp giảm thiểu nguy cơ về kháng kháng sự cho ngành y tế và thú y vì việc điều trị sinh cho cộng đồng thông qua việc kiểm soát sẽ gặp khó khăn hơn, nhiều trường hợp phải việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi. thay thế kháng sinh cũ bằng kháng sinh mới 2.1. Nội dung đắt tiền hơn, thậm chí phải sử dụng liều cao hơn với thời gian điều trị dài hơn nhưng hiệu - Khảo sát hiểu biết của người chăn quả vẫn không cao. Nguyên nhân chính của nuôi về kháng sinh. tình trạng kháng thuốc kháng sinh là việc sử - Khảo sát mục đích sử dụng kháng sinh dụng kháng sinh không đúng kỹ thuật, không cho động vật. theo hướng dẫn của nhà xản xuất trong nhân - Khảo sát chủng loại kháng sinh được y cũng như trong thú y. sử dụng cho động vật. Việc sử dụng kháng sinh không kiểm - Khảo sát việc tuân thủ hướng dẫn sử soát để chữa bệnh và kiểm soát dịch bệnh dụng kháng sinh. hoặc kích thích tăng trưởng ở vật nuôi đã làm tăng khả năng kháng kháng sinh của vi khuẩn - Khảo sát cách xử lý các động vật sau có khả năng lây lan sang người từ chuỗi thực khi điều trị kháng sinh không khỏi. phẩm. Đặc biệt ở Việt Nam, vấn đề sử dụng - Khảo sát sự sẵn sàng sử dụng các chế quá liều hoặc lạm dụng thuốc kháng sinh ở phẩm thay thế kháng sinh. các trang trại gia cầm và lợn còn nhiều hơn 2.2. Đối tượng nghiên cứu do tình trạng thực thi pháp luật và giám sát sử dụng thuốc còn hạn chế. Để bảo đảm an toàn - Các hộ chăn nuôi tại tỉnh Thái Nguyên. thực phẩm và giảm thiểu tác động của kháng - Thuốc kháng sinh được sử dụng tại kháng sinh ở người cần có những biện pháp các hộ chăn nuôi. can thiệp được tính toán kỹ càng đối với việc 2.3. Phương pháp nghiên cứu sử dụng kháng sinh trong ngành chăn nuôi (FAO, 2016). Tiến hành điều tra khảo sát trực tiếp tại 200 hộ chăn nuôi chuồng hở, quy mô chăn Tỉnh Thái Nguyên là một tỉnh miền núi nuôi nông hộ (trại lợn dưới 60 con lợn, trại trung du, khí hậu thuận lợi, ít thiên tai nên ngành gà dưới 2.000 con gà) và 50 hộ chăn nuôi nông nghiệp, đặc biệt là ngành chăn nuôi có điều kiện phát triển. Tuy nhiên, để có thể phát chuồng kín, theo quy mô công nghiệp (trại lợn triển nông nghiệp bền vững thì việc sản xuất các trên 1.000 con, trại gà trên 10.000 con) (phân sản phẩm an toàn là hết sức cần thiết, trong đó loại hộ chăn nuôi căn cứ theo Phụ lục V, Nghị việc sử dụng thuốc trong chăn nuôi đúng cách định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 là một trong những yếu tố quan trọng quyết định năm 2020 hướng dẫn chi tiết Luật Chăn nuôi). chất lượng sản phẩm. Nhằm đánh giá tình hình Bảng khảo sát được thiết kế trên phần mềm sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi, chúng tôi ODK collect phiên bản v1.30.1. Điều tra viên đã tiến hành triển khai khảo sát 200 hộ chăn thực hiện điền bảng khảo sát dựa trên sự quan nuôi nhỏ và 50 trang trại chăn nuôi quy mô sát và thông tin thu được từ buổi phỏng vấn. tập trung tại tỉnh Thái Nguyên về vấn đề này. Sau buổi phỏng vấn đầu tiên, phát cho mỗi hộ 1005
  3. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 chăn nuôi 1 quyển số theo dõi để ghi chép lại 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN các thông tin về việc sử dụng kháng sinh cho 3.1. Kết quả khảo sát hiểu biết của người vật nuôi. Mỗi tháng điều tra viên đến thu thập chăn nuôi về kháng sinh dữ liệu 1 lần và cập nhật vào bảng khảo sát. Sau quá trình quan sát, phỏng vấn và Dữ liệu nghiên cứu được tổng hợp trên phần tổng hợp số liệu, kết quả khảo sát các hộ chăn mềm ODK và được xử lý bằng phương pháp nuôi một số vấn đề về kháng sinh được trình thống kê mô tả. bày tại Bảng 1. Bảng 1. Kết quả khảo sát hiểu biết của người chăn nuôi về kháng sinh Hộ chăn nuôi quy Hộ chăn nuôi quy Tính chung mô nông hộ mô lớn (n = 250) Các thông tin về (n = 200) (n = 50) kháng sinh Số hộ trả Số hộ trả Số hộ trả lời Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ lời đúng lời đúng đúng (hộ) (%) (%) (%) (hộ) (hộ) Kháng sinh chỉ có tác dụng với các bệnh do vi khuẩn gây 91 45,50 50 100 141 56,40 ra Không phải kháng sinh nào cũng có khả năng tiêu diệt tất 103 51,50 49 98,00 152 60,80 cả các loại vi khuẩn Việc sử dụng kháng sinh có 145 72,50 50 100 195 78,00 thể tồn dư trong sản phẩm thịt Việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi có thể dẫn đến tình 87 43,50 48 96,00 135 54,00 trạng kháng kháng sinh ở người và động vật Qua kết quả khảo sát các hộ chăn nuôi Thực tế trong quá trình khảo sát, chúng quy mô nhỏ và lớn, chúng tôi thấy rằng: phần tôi nhận thấy rằng, số hộ có nhận thức chưa lớn các hộ chăn nuôi được tham gia khảo sát, đúng về kháng sinh chủ yếu nằm ở các hộ đều có những hiểu biết nhất định về kháng chăn nuôi quy mô nhỏ. Điều này có thể lý giải do các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chưa tiếp sinh. Trên 56% hộ dân có nhận thức đúng cận được nhiều với các kiến thức về sử dụng việc kháng sinh chỉ có tác dụng điều trị đối thuốc trong điều trị cho vật nuôi nên dẫn đến với các bệnh do vi khuẩn gây ra, cũng như có những hiểu biết chưa đầy đủ hoặc sai lệch không phải sử dụng kháng sinh đều có thể về mặt lợi và hại của kháng sinh trong điều trị tiêu diệt được tất cả các loại vi khuẩn. Các bệnh cho vật nuôi. hộ dân cũng đã nhận thức được việc sử dụng 3.2. Kết quả khảo sát mục đích sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi có thể dẫn đến kháng sinh cho động vật tình trạng kháng kháng sinh ở người và động Để hiểu rõ hơn lý do các hộ chăn nuôi sử vật (54%). Tuy nhiên, với những nội dung đặt dụng kháng sinh cho động vật, nhóm nghiên ra ở bảng khảo sát về nhận thức của người cứu đã đưa ra các câu hỏi về mục đích sử dụng chăn nuôi với kháng sinh vẫn có khoảng 30 kèm theo phân tích dữ liệu thu thập từ sổ ghi - 40% số hộ chưa nhận thức đúng về chép của các hộ trong từng tháng theo dõi. kháng sinh sử dụng trong chăn nuôi. Kết quả trình bày chi tiết tại Bảng 2. 1006
  4. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 Bảng 2. Kết quả khảo sát mục đích sử dụng kháng sinh cho động vật Hộ chăn nuôi quy mô Hộ chăn nuôi Tính chung nông hộ quy mô lớn (n = 250) Các mục đích sử dụng (n = 200) (n = 50) kháng sinh trong chăn nuôi Số hộ trả Số hộ trả Số hộ trả lời Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ lời đồng ý lời đồng ý đồng ý (hộ) (%) (%) (%) (hộ) (hộ) Sử dụng kháng sinh để phòng 188 94,00 45 90,00 233 93,20 bệnh Sử dụng kháng sinh để kích 171 85,50 31 62,00 202 80,80 thích sinh trưởng Sử dụng kháng sinh nhằm giúp động vật có “mã” đẹp 132 66,00 22 44,00 154 61,60 hơn, dễ bán hơn Sử dụng kháng sinh để điều trị các bệnh của động vật (không 122 61,00 21 42,00 143 57,20 phân biệt nguyên nhân bệnh) Chỉ sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh do vi khuẩn 78 39,00 29 58,00 107 42,80 gây ra Kết quả ở Bảng 2 cho thấy: Khi được Thú y cho biết: “Tại Thông tư số 81 hỏi mục đích sử dụng kháng sinh trong chăn ngày 25/12/2009 của Bộ NN&PTNT cho nuôi, phần lớn các hộ chăn nuôi đều đồng ý phép cơ sở chăn nuôi sử dụng kháng sinh với việc sử dụng kháng sinh với 3 mục đích trong thức ăn chăn nuôi với mục đích kích chính là: phòng bệnh, điều trị bệnh và kích thích tăng trưởng, Thông tư này dễ gây hiện thích sinh trưởng. Việc sử dụng kháng sinh tượng lạm dụng kháng sinh gây hậu quả cho động vật với những mục đích trên đã và nghiêm trọng đến sức khỏe con người và môi đang là nguyên nhân làm cho tình trạng kháng trường. Chưa kể, hiện nay vẫn chưa có chế kháng sinh trở nên trầm trọng hơn, tăng nguy tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành cơ tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thit. vi kinh doanh nguyên liệu làm thuốc thú y sai Kết quả khảo sát cũng tương đồng với mục đích, bán cho các tổ chức, cá nhân chưa nghiên cứu khác của Cục Thú y. Theo kết được cấp phép kinh doanh nhập khẩu nguyên quả điều tra về tình hình sử dụng kháng sinh liệu làm thuốc thú y. Chế tài xử lý vi phạm trong chăn nuôi lợn tại 5 tỉnh: Đồng Nai, trong sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc thú Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Thái Bình y còn thấp chưa đủ sức răn đe”. và Nam Định năm 2015 của Cục Thú y cho 3.3. Kết quả khảo sát chủng loại kháng sinh thấy, có đến 100% số cơ sở chăn nuôi có sử được sử dụng cho động vật dụng kháng sinh trong phòng và điều trị bệnh cho lợn; 68% số cơ sở có sử dụng thức ăn Trong buổi phỏng vấn đầu tiên, khi hỏi chăn nuôi chứa kháng sinh để phòng bệnh về các loại kháng sinh đã sử dụng trong chăn và kích thích tăng trưởng; 24,04% số cơ sở nuôi, hầu hết các hộ đều không thể nhớ chính tự trộn kháng sinh vào thức ăn chăn nuôi để xác đã sử dụng các loại thuốc gì, để điều trị phòng bệnh và kích thích tăng trưởng, trong bệnh nào. Vì vậy, để xác định được các loại đó 1,23% số hộ trộn bằng kháng sinh dạng kháng sinh đã được các hộ chăn nuôi sử dụng nguyên liệu. cho động vật, nhóm nghiên cứu đã phát cho Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm mỗi hộ 1 quyển sổ ghi chép. Hàng tháng, điều dụng thuốc kháng sinh trong chăn nuôi, Cục tra viên đến thu thập số liệu kèm theo việc hỏi 1007
  5. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 lại để làm rõ thông tin. Kết quả khảo sát tổng Không chỉ sử dụng kháng sinh trong hợp cụ thể ở Bảng 3. chăn nuôi, Cục Thú y cũng cho biết, nhiều cơ Kết quả ở Bảng 3 cho thấy: trong quá sở chăn nuôi còn sử dụng chất cấm gây hậu trình theo dõi lịch sử dùng thuốc cho vật nuôi quả nghiêm trọng đến sức khỏe con người và ở các trang trại, chúng tôi thấy rằng, phần môi trường. Những chất cấm mới được phát lớn các trang trại và hộ chăn nuôi hiện nay hiện gần đây là Salbutamol được sử dụng đang sử dụng các loại thuốc thông dụng như với mục đích kích thích tăng trưởng, tạo nạc, nhóm thuốc b-lactam, nhóm đa peptid, nhóm Auramine nhằm tạo màu bắt mắt cho thức ăn macrolid. Điều này được lý giải tại sao hiện chăn nuôi. Trong ba tháng đầu năm 2016, Cục nay, khi vật nuôi bị bệnh sử dụng một số loại Thú y đã phát hiện và xử lý nhiều trường hợp kháng sinh thuộc các nhóm này hiệu quả vi phậm sử dụng chất cấm Salbutamol trong không cao. Đây là nguy cơ dẫn đến việc làm chăn nuôi như Thành phố Hồ Chí Minh có cho vi khuẩn kháng kháng sinh, việc điều trị 88/473 mẫu dương tính, Thái Nguyên 05/50 bệnh cho người và động vật sẽ ngày càng trở mẫu dương tính, Khánh Hòa 01/23 mẫu dương nên khó khăn hơn. tính, Thanh Hóa 03/70 mẫu dương tính. Bảng 3. Kết quả khảo sát chủng loại kháng sinh được sử dụng cho động vật Hộ chăn nuôi quy mô Hộ chăn nuôi Tính chung nông hộ quy mô lớn (n = 250) Nhóm kháng sinh được sử (n = 200) (n = 50) dụng cho động vật Số hộ Số hộ sử Tỷ lệ Số hộ sử Tỷ lệ Tỷ lệ sử dụng dụng (hộ) (%) dụng (hộ) (%) (%) (hộ) Nhóm b - lactam: amoxycillin, cloxacillin, 139 69,50 41 82,00 180 72,00 oxacillin, cefotaxim, ceftiofur Nhóm Aminoglucozid: streptomycin, kanamycin, 124 62,00 31 62,00 155 62,00 gentamicin, neomycin... Nhóm macrolid: 129 64,50 39 78,00 168 67,20 erythromycin, tylosin... Nhóm lincosamid: 91 45,50 21 42,00 112 44,80 lincomycin, cleocin... Nhóm tetracyclin: Tetracyclin, oxytetracyclin, 113 56,50 24 48,00 137 54,80 enrofloxacin... Nhóm đa peptid: polymycin, 139 69,50 41 82,00 180 72,00 colistin, tiamulin... 3.4. Kết quả khảo sát việc tuân thủ hướng sinh của các hộ chăn nuôi. Kết quả được tổng dẫn sử dụng kháng sinh hợp tại Bảng 4. Một trong những nguyên nhân dẫn đến Kết quả ở Bảng 4 cho thấy: Đối với các hiệu quả điều trị bệnh không cao và gây nên hộ chăn nuôi quy mô lớn, thì việc tuân thủ các tình trạng kháng kháng sinh là việc sử dụng nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh cho vật kháng sinh không đúng cách. Do đó, nhóm nuôi được thực hiện khá tốt, đạt từ 74 - 90% nghiên cứu đã theo dõi, phỏng vấn để đánh ở các chỉ tiêu được hướng dẫn. Tuy nhiên, đối giá việc tuân thủ hướng dẫn sử dụng kháng với các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ, thì việc 1008
  6. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 tuân thủ các nguyên tắc khi sử dụng kháng nhiên, đó là việc sử dụng kháng sinh trong sinh cho vật nuôi còn nhiều hạn chế, đặc biệt điều trị, còn việc sử dụng thức ăn chứa kháng là việc tuân thủ ngừng sử dụng kháng sinh sinh thì có đến 50% số cơ sở vẫn sử dụng cho trước khi giết mổ theo hướng dẫn của nhà sản đến khi xuất chuồng. xuất chỉ có 30,50% số hộ thực hiện, còn gần Theo một nghiên cứu của Viện Chăn 70% số hộ chăn nuôi còn lại vẫn xuất bán vật nuôi quốc tế và Học viện Nông nghiệp Việt nuôi ngay cả khi đang sử dụng kháng sinh Nam, có khoảng 90% người tiêu dùng được cho vật nuôi. Chính vấn đề này đã và đang phỏng vấn lo lắng về an toàn thực phẩm khi làm cho vi khuẩn kháng kháng sinh và tồn dư tiêu dùng thịt lợn (Phạm Văn Hùng và cs., kháng sinh trong thực phẩm ngày càng cao, 2017). Trong đó, phần lớn người tiêu dùng lo gây mất an toàn thực phẩm. sợ dùng phải thịt lợn bệnh, lợn chết và thịt tồn Kết quả nghiên cứu tại tỉnh Thái Nguyên dư thuốc, hóa chất độc hại với sức khỏe con cũng tương đồng với Báo cáo của Cục thú y người. Như vậy, nếu ngươi chăn nuôi không (2016), trong số các cơ sở khảo sát có 63% thay đổi thói quen sử dụng kháng sinh không cơ sở tuân thủ liều lượng và liệu trình sử tuân thủ nguyên tắc thì sẽ không tiêu thụ được dụng kháng sinh. Có 86% số cơ sở biết về trên thị trường do người tiêu dùng có thể sẽ quy định ngừng sử dụng kháng sinh trước khi từ chối sử dụng và lựa chọn các sản phẩm có xuất chuồng và 83% cơ sở đã ngừng sử dụng chứng nhận an toàn. kháng sinh điều trị bệnh theo quy định. Tuy Bảng 4. Kết quả khảo sát việc tuân thủ hướng dẫn sử dụng kháng sinh Hộ chăn nuôi quy Hộ chăn nuôi Tính chung mô nông hộ quy mô lớn (n = 250) Một số hướng dẫn sử dụng (n = 200) (n = 50) kháng sinh Số hộ Số hộ Số hộ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ thực thực hiện thực (%) (%) (%) hiện (hộ) (hộ) hiện (hộ) Sử dụng đúng liều 87 43,50 42 84,00 129 51,60 Sử dụng đúng thời gian theo hướng 91 45,50 37 74,00 128 51,20 dẫn Lựa chọn đúng loại kháng sinh 75 37,50 40 80,00 115 46,00 Chỉ sử dụng kháng sinh để điều trị các bệnh do vi khuẩn gây ra 82 41,00 45 90,00 127 50,80 hoặc có nguy cơ nhiễm khuẩn cao Chỉ sử dụng kháng sinh phổ rộng trong trường hợp chưa chẩn đoán 64 32,00 43 86,00 107 42,80 chính xác nguyên nhân gây bệnh Ngừng sử dụng kháng sinh trước khi giết mổ theo hướng dẫn của 61 30,50 41 82,00 102 40,80 nhà sản xuất 3.5. Kết quả khảo sát cách xử lý các động dịch bệnh có khả năng lây lan, bùng phát trên vật sau khi điều trị kháng sinh không khỏi diện rộng mà còn tăng nguy cơ dẫn đến tình Ngoài việc không ngừng sử dụng kháng trạng kháng kháng sinh. Do đó, nhóm nghiên sinh trước khi giết mổ, một số hộ chăn nuôi cứu đã theo dõi, phỏng vấn để đánh giá các vì lợi nhuận còn có thể xuất bán thịt các động cách xử lý động vật sau khi điều trị không vật sau khi điều trị dài ngày không khỏi. Đây khỏi của các hộ chăn nuôi. Kết quả được tổng là một mối nguy lớn, không những làm cho hợp tại Bảng 5. 1009
  7. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 Bảng 5. Kết quả cách xử lý các động vật sau khi điều trị kháng sinh không khỏi Hộ chăn nuôi quy Hộ chăn nuôi Tính chung mô nông hộ quy mô lớn (n = 250) Cách xử lý các động vật sau khi (n = 200) (n = 50) điều trị kháng sinh không khỏi Số hộ Số hộ Số hộ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ thực hiện thực hiện thực (%) (%) (%) (hộ) (hộ) hiện (hộ) Cách ly, chẩn đoán lại và thay đổi 115 57,50 39 78,00 154 61,60 phác đồ khác Tăng liều kháng sinh đang điều trị 85 42,50 11 22,00 96 38,40 Đào hố chôn các động vật chết 80 40,00 29 58,00 109 43,60 Bán rẻ các động vật yếu, có nguy cơ chết, các động vật điều trị 63 31,50 5 10,00 68 27,20 không khỏi và chết Giết mổ và tự sử dụng trong trang trại các động vật yếu, có nguy cơ 57 28,50 16 32,00 73 29,20 chết, các động vật điều trị không khỏi và chết Kết quả ở Bảng 5 cho thấy: Đối với Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao những vật nuôi sau khi sử dụng kháng sinh hơn so với kết quả của Nguyễn Văn Phơ và để điều trị nhưng không khỏi, phần lớn các cs. (2018). Theo tác giả, một số hộ có ứng hộ chăn nuôi chọn phương án thay đổi phác xử mang tính rủi ro với việc đảm bảo an toàn đồ điều trị (57, 50 - 78,00%). Có 42,50% hộ thực phẩm. Khi lợn bị bệnh chết, hầu hết các chăn nuôi nông hộ và 22,00% hộ chăn nuôi hộ chăn nuôi tiêu hủy bằng cách đào hố chôn. công nghiệp áp dụng biện pháp tăng liều Tuy nhiên, vẫn còn gần 15% số hộ chăn nuôi kháng sinh đang điều trị. Đây là một trong mổ thịt lợn bệnh để tiêu dùng và khoảng 2,5% những biện pháp không khuyến khích, biện số hộ bán lợn bệnh ra thị trường với giá rẻ, pháp này đang ngược lại với nguyên tắc khi vứt ra các hố rác hoặc sông, suối gây ô nhiễm sử dụng kháng sinh. Việc làm này sẽ dẫn môi trường. đến vi khuẩn nhờn thuốc, hiệu quả điều trị Kết quả khảo sát sự sẵn sàng sử dụng không cao, tốn kém về chi phí thuốc trong các chế phẩm thay thế kháng sinh điều trị bệnh cho vật nuôi. Chỉ nên sử dụng kháng sinh khi chẩn đoán chắc chắn vật nuôi Để hạn chế sử dụng kháng sinh trong bị nhiễm khuẩn, trong một số trường hợp cần chăn nuôi, việc dùng các chế phẩm an toàn thiết phải thử kháng sinh đồ để quyết định sinh học, không gây tồn dư và vẫn có khả việc lựa chọn kháng sinh điều trị cho hiệu quả năng phòng, trị bệnh tương đương kháng sinh (FAO, 2020). Đối với các gia súc tiên lượng là hết sức cần thiết. Các chế phẩm được nêu không khỏi, yếu và có nguy cơ chết, thậm chí ra để khảo sát sự sẵn sàng sử dụng gồm: chế những vật nuôi chết do không điều trị khỏi, phẩm vi sinh bổ sung lợi khuẩn, hỗ trợ tiêu các hộ chăn nuôi lựa chọn phương án đào hố hóa, chế phẩm axit hữu cơ, chế phẩm từ thảo chôn, một số ít còn lại là bán rẻ, hoặc là giết dược. Nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn các hộ mổ làm thực phẩm sử dụng nội bộ trang trại. chăn nuôi. Kết quả được tổng hợp tại Bảng 6. 1010
  8. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 Bảng 6. Kết quả khảo sát sự sẵn sàng sử dụng các chế phẩm thay thế kháng sinh Hộ chăn nuôi quy Hộ chăn nuôi Tính chung mô nông hộ quy mô lớn (n = 250) (n = 200) (n = 50) Sự sẵn sàng sử dụng các chế phẩm thay thế kháng sinh Số hộ Số hộ Số hộ thực Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ thực hiện thực hiện (%) (%) (%) (hộ) hiện (hộ) (hộ) Sẵn sàng sử dụng ngay 46 23,00 12 24,00 58 23,20 Chỉ sẵn sàng sử dụng với mục đích 41 20,50 9 18,00 50 20,00 phòng bệnh Sẽ sử dụng nếu có bằng chứng xác 57 28,50 17 34,00 74 29,60 thực về hiệu quả của các chế phẩm Không sẵn sàng vì thấy kháng sinh vẫn là lựa chọn tốt nhất, lo ngại sử 56 28,00 12 24,00 68 27,20 dụng các chế phẩm khác sẽ giảm hiệu quả kinh tế Kết quả ở Bảng 6 cho thấy: trong 250 các hộ chăn nuôi, nâng cao vai trò, kiến thức hộ chăn nuôi được khảo sát việc sẵn sàng chuyên môn cho đội ngũ thú y viên. Đồng sử dụng các chế phẩm sinh học để thay thế thời, cần tăng cường hệ thống giám sát các cho kháng sinh, chỉ có 23,20% số hộ đồng ý. bên liên quan trong việc cung cấp và sử dụng Điều này cho thấy, người chăn nuôi vẫn có kháng sinh trong chăn nuôi... thói quen sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh cho vật nuôi, vì họ cho rằng kháng sinh vẫn 4. KẾT LUẬN là hiệu quả nhất trong điều trị bệnh cho vật Qua kết quả khảo sát các hộ chăn nuôi nuôi mà các chế phẩm khác không thể hiệu quy mô nhỏ và lớn, chúng tôi thấy rằng: phần quả bằng. Một phần là người dân lo ngại về lớn các hộ chăn nuôi được tham gia khảo sát, kinh tế, nếu sử dụng các chế phẩm sinh học đều có những hiểu biết nhất định về kháng để điều trị không khỏi sẽ ảnh hưởng đến hiệu sinh. Mặc dù vậy, với những nội dung khảo quả chăn nuôi, do đó, họ vẫn chưa thực sự sát về nhận thức của người chăn nuôi với tin tưởng vào hiệu quả của các chế phẩm kháng sinh, vẫn có khoảng 30 - 40% số hộ sinh học có tác dụng tương tự như kháng sinh chưa nhận thức đúng về kháng sinh sử dụng (27,20%). Trong số các hộ được khảo sát, có trong chăn nuôi. Đối với các hộ chăn nuôi 29,60% hộ đồng ý sử dụng chế phẩm sinh học quy mô lớn, việc tuân thủ các nguyên tắc khi thay thế kháng sinh với điều kiện có các bằng sử dụng kháng sinh cho vật nuôi được thực chứng chứng minh hiệu quả của chế phẩm, và 20,00% hộ sẵn sàng sử dụng chế phẩm với hiện khá tốt, đạt từ 74 - 90% ở các nội dung mục đích phòng bệnh. được hướng dẫn. Tuy nhiên, đối với các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ, thì việc tuân thủ các Từ thực tế trên, cho thấy việc thay đổi nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh cho vật tư duy, thói quen của người chăn nuôi là rất khó, không thể diễn ra trong thời gian ngắn. nuôi còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc tuân Do đó, để người dân nhận thức được tác hại thủ ngừng sử dụng kháng sinh trước khi giết của việc lạm dụng kháng sinh trong chăn mổ theo hướng dẫn của nhà sản xuất chỉ có nuôi, cần nâng cao công tác tuyên truyền. 30,50% số hộ thực hiện, còn gần 70% số hộ Tăng cường mở các lớp tập huấn, hội thảo với chăn nuôi còn lại vẫn xuất bán vật nuôi ngay các chủ đề về kháng sinh trong chăn nuôi cho cả khi đang sử dụng kháng sinh cho vật nuôi. 1011
  9. HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NUÔI THÚ Y TOÀN QUỐC 2021 - AVS2021: 1004-1012 TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Văn Phơ, Phạm Văn Hùng, Nguyễn Thị Thu Huyền (2018). Thực trạng chăn Phạm Văn Hùng, Nguyễn Thị Dương Nga, nuôi lợn theo hướng an toàn thực phẩm Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Hữu ở huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Tạp Nhuần, Ninh Xuân Trung và Trần Văn chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. 16 Long (2017). Báo cáo điều tra cơ bản - (10): 924-932. Sản phẩm nộp cho Viện Chăn nuôi Quốc tế của Dự án “Giảm thiểu rủi ro dịch https://baophapluat.vn/tieu-dung-va-du-luan/ bệnh và nâng cao an toàn vệ sinh thực lo-hong-dan-den-lam-dung-khang-sinh- phẩm trong chăn nuôi lợn ở Việt Nam trong-chan-nuoi-272173.html (LPS/2010/047)”. http://www.fao.org/3/i6386vi/i6386vi.pdf FAO (2020). Sổ tay hướng dẫn sử dụng kháng https://thuvienphapluat.vn/van-ban/ sinh có trách nhiệm trong chăn nuôi dành Linh- vuc-khac/ Nghi-dinh-13-2020-ND- cho nhân viên thú y cơ sở tại Việt Nam. CP-huong-dan-Luat-Chan-nuoi-433295. 1012
nguon tai.lieu . vn