- Trang Chủ
- Chính trị học
- TÍNH CỤ THỂ, HÀM SÚC, SÂU SẮC CỦA HỒ CHÍ MINH QUA CÁC BÀI NÓI CHUYỆN VỚI NHÂN DÂN NGHỆ TĨNH TRONG HAI LẦN VỀ THĂM QUÊ HƯƠNG CỦA NGƯỜI
Xem mẫu
- TÍNH CỤ THỂ, HÀM SÚC, SÂU SẮC CỦA HỒ CHÍ MINH
QUA CÁC BÀI NÓI CHUYỆN VỚI NHÂN DÂN NGHỆ TĨNH
TRONG HAI LẦN VỀ THĂM QUÊ HƯƠNG CỦA NGƯỜI
Ths-GVC Phan Hoàng Minh
Khoa Lịch sử-Đại học Vinh
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, người anh hùng giải phóng dân tộc ki ệt
xuất, nhà văn hóa lớn, tiêu biểu của thế giới. “Dân t ộc ta, nhân dân ta, non sông
đất nước ta đã sản sinh ra Hồ Ch ủ Tịch, người anh hùng dân t ộc vĩ đ ại, và
chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”1 .
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã ti ếp thu ch ủ
nghĩa Mac-Lênin, lấy đó làm cơ sở lý luận, đồng thời kết hợp nhuần nhuy ễn
truyền thống tốt đẹp, tinh hoa văn hóa của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân
loại, hình thành ra tư tưởng của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là m ột h ệ th ống
quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, bao gồm vấn đề
dân tộc và giải phóng dân tộc, vấn đề cách mạng xã hội ch ủ nghĩa, v ấn đ ề
đảng cách mạng, vấn đề về văn hóa cách mạng và đạo đức cách mạng...Toàn
bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Hồ Chí Minh là một t ấm
gương chuẩn mực sáng ngời đạo đức cách mạng.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện cuộc vận đ ộng “ Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ” do Đảng phát động, đồng thời
nhân kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ Về thăm quê hương Nghệ Tĩnh, trong bài
viết này, chúng tôi muốn đề cập đến một nét đặc sắc trong rất nhiều nét đặc
biệt thuộc phong cách đạo đức Hồ Chí Minh là Tính cụ thể, hàm súc, sâu sắc
của Hồ Chí Minh qua các bài nói chuyện với nhân dân Ngh ệ Tĩnh trong hai
lần về thăm quê hương của Người .
Nét đặc sắc trong những nét đặc biệt ở lãnh tụ Hồ Chí Minh có c ội ngu ồn
từ nhận thức sâu sắc, phong phú về đất nước, con ng ười Vi ệt Nam trong cu ộc
đời và quá trình hoạt động cách mạng của Người.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề đạo đức cách m ạng không
thể tách rời. Đạo đức cách mạng, theo quan điểm và hành động của Người là
biết sống vì đồng bào, đồng loại, biết tìm hạnh phúc của mình trong h ạnh phúc
của nhân dân. Cho nên trong đạo đức Hồ Chí Minh, quan hệ với nhân dân là
một tiêu chuẩn rất quan trọng, không thể thiếu. Điều đó thể hi ện ở ch ỗ coi l ợi
ích của nhân dân là mục đích tối cao của mọi hành động, việc làm. Điều gì có
lợi cho dân, phải hết sức làm, điều gì có hại cho dân, phải hết s ức tránh. L ợi
ích của dân suy rộng ra là lợi ích của dân tộc, l ợi ích chân chính c ủa nhân lo ại.
Như vậy, nhân dân là đối tượng phục vụ của mọi người ở b ất c ứ cương v ị xã
hội nào. Từ đó ta thấy, ở phương diện này, đạo đức Hồ Chí Minh đòi h ỏi ph ải
toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Từ quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân
dân lên trên hết và đã trọn đời phấn đấu hy sinh cho lợi ích đó. T ừ nh ững vi ệc
lớn lao như dời non lấp bể của cách mạng đến những việc t ưởng nh ư nh ỏ
nhặt, bình dị trong cuộc sống đời thường, Hồ Chí Minh đều nghĩ đ ến dân, đ ến
1
- nước. Cả cuộc đời, Người chỉ có một ham muốn và ham muốn tột bậc là làm
sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành . Vì thế mà ngay cả
trong cách nói chuyện với nhân dân về những vấn đề dù có h ệ trọng, lớn lao
đến mấy Hồ Chí Minh cũng diễn đạt một cách ngắn gọn, cụ thể, súc tích, để
mọi người dân đều hiểu, đều lĩnh hội được để thực hiện. Ng ười mu ốn đ ường
lối, chủ trương của Đảng đến được nhân dân bằng con đường ngắn nhất,
thuận lợi nhất. Điều đó đã trở thành phong cách giao tiếp, phong cách truy ền
đạt đặc biệt ở Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là người hơn ai hết hiểu sâu sắc, toàn diện về xã h ội Vi ệt
Nam dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc thực dân, phong kiến, cũng nh ư
tâm tư tình cảm, nhận thức và khát vọng của người dân Việt Nam, m ặc dù
trước lúc ra đi tìm đường cứu nước Người chưa đến được nhiều nơi trên đất
nước Việt Nam, trừ thời gian lưu học tương đối lâu t ại Hu ế. Ng ười bi ết r ằng,
dưới triều Nguyễn, ruộng đất của nhân dân ta bị bọn địa chủ chiếm đoạt, dân
phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng, lại thêm nạn cường hào tham nhũng l ộng
hành làm cho đời sống của người dân khổ cực. Đến khi th ực dân Pháp xâm
lược với chính sách tận lực vơ vét của chúng, đời sống của nhân dân ta càng
thêm điêu đứng, cơ cực trăm đường. Thực dân Pháp còn thi hành chính sách văn
hóa ngu dân, giam hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát và l ạc h ậu. Trong
hoàn cảnh đó, dân ta mấy ai có cơm no, áo ấm, mấy ai được học hành. Từ sự
hiểu biết sâu sắc đó, ngay từ đầu thế kỷ XX, khi truy ền bá Chủ nghĩa Mac-
Lênin vào nước ta Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách diễn đạt phù h ợp v ới kh ả năng
tiếp thu của nhân dân ta bằng hình thức đơn giản, cụ th ể, vừa t ầm, d ễ hi ểu, t ừ
đó dần dần nâng lên thành nhận thức đi tới chân lý c ủa th ời đ ại, ch ứ không
cung cấp cho dân ta những nguyên lý, nh ững khái ni ệm trừu tượng cao siêu.
Nhờ vậy quần chúng lao động nước ta buổi đầu tiếp thu Ch ủ nghĩa Mac-Lênin
do Người truyền bá một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu và họ đã tin rằng, làm theo
học thuyết đó là cách duy nhất để đạt tới mục tiêu và là ước mơ ngàn đ ời c ủa
họ là độc lập dân tộc, người cày có ruộng, xóa bỏ áp bức bóc lột, xây dựng xã
hội bình đẳng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng sau này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ đạo Đảng ta vạch đường, chỉ lối cho nhân dân, h ướng d ẫn
nhân dân tiến hành cách mạng cũng bằng những hình th ức nh ẹ nhàng, đ ơn gi ản
dễ hiểu, giúp nhân dân thấm nhuần mục đích, nhiệm vụ cách mạng c ủa Đ ảng.
Nhờ thế mà nhân dân ta đã làm nên thắng lợi vĩ đại cho Cách m ạng tháng Tám
1945, tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đ ế qu ốc M ỹ xâm
lược giành thắng lợi vẻ vang. Từ đó mà toát lên nét độc đáo trong cách “ ứng
nhân xử thế” của Người trong quá trình lãnh đạo Đảng và nhân dân ta ti ến
hành cách mạng là cụ thể, hàm súc, dễ hiểu mà sâu sắc.
Trong cuộc đời cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã ròng rã 30 năm hoạt đ ộng
xa Tổ quốc và gần hai mươi năm nữa Người mới chính thức về thăm quê
hương theo nghĩa gốc là nơi chôn rau cắt rốn của mình. Đến 1957, k ể t ừ khi
Người rời xa quê hương đã trọn 50 năm. Hai lần về thăm quê vào 1957 và 1961
của Người với những bài nói, bài viết, trong đó những lời khen ngợi, biểu
2
- dương, những lời nhắc nhở, phê bình, những lời ch ỉ bảo, dặn dò c ủa Ng ười đã
trở thành những lời tâm tình sâu nặng của người Cha, ng ười Bác kính yêu, thân
thương trìu mến, là điều phải nghĩ suy, phải trăn trở để th ực hi ện đ ối v ới toàn
Đảng bộ và nhân dân quê hương. Điều đó còn trở thành nguồn đề tài, ngu ồn
cảm hứng đối với giới nghệ sỹ cả nước nói chung và Nghệ Tĩnh nói riêng để
cho ra những công trình nghiên cứu, những tác phẩm nghệ thuật về Bác với quê
hương. Đó là điều hết sức thú vị mà không xa l ạ, ng ạc nhiên mà không khó
hiểu, vì Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại, là người giàu quốc tế đậm
Việt nam từng nét . Người đã bôn ba khắp thế giới, thông thạo nhiều th ứ ti ếng,
am hiểu nhiều nền văn hóa, nhiều phong tục tập quán khác nhau, nhi ều m ức
sống khác nhau của nhiều nước trên thế giới, nhưng không hề quên, không hề
đánh mất những nét dáng, những phẩm chất được tạo ra từ một vùng quê kh ắc
khổ, sự gần gũi chan hòa của cư dân cộng đồng nông nghiệp, mộc mạc, dung dị
trong cuộc sống đời thường, đoàn kết chống thiên tai, chống ngoại xâm, để sinh
tồn và phát triển. Vì vậy sau bao nhiêu năm xa quê, Người vẫn h ết s ức g ần gũi,
thân thương trìu mến với người dân cả trong tình cảm, cử chỉ và lời nói, làm
cho mọi người thấy không có sự ngăn cách giữa vị lãnh tụ tối cao c ủa dân t ộc,
một người cách mạng với tầm cỡ quốc tế, từ đó mà tiếp thu những lời dạy của
Người như lời nhắc nhở ân cần của người Cha, người Bác ruột thịt, gần gũi
thân thương, đồng thời là mệnh lệnh của Đảng, của cách mạng một cách tho ải
mái nghiêm túc, hiệu quả.
Trong bài nói chuyện với Hội nghị đại biểu nhân dân Ngh ệ An ngày 14-6-
1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tự xưng là “ một người con của tỉnh nhà”2, chỉ
từng đó thôi cũng đã toát lên sự cô đọng, hàm súc, ch ứa đ ựng tình c ảm ru ột th ịt
đậm đà, sâu nặng của một vị chủ tịch nước đối với quê hương. Khi biểu dương
những thành tích của nhân dân Nghệ An trong kháng chiến chống th ực dân
Pháp, Người đưa ra những số liệu rất cụ thể, chi tiết đầy thuyết phục mà
những tưởng ở cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước với
muôn việc trọng đại lớn lao làm sao nhớ hết: “... Trong kháng chiến, tỉnh nhà đã
có hơn 8 vạn thanh niên vào bộ đội, hơn 1 v ạn 5 ngàn dân quân du kích, h ơn 1
triệu dân công phục vụ kháng chiến, trong đó có 96 đơn vị và cá nhân đã có
thành tích vẻ vang được Chính phủ khen thưởng.
Trong anh hùng quân đội thì tỉnh ta có 8 vị. Đó các đ ồng chí Cù Chính Lan,
Phạm Minh Đức, Nguyễn Quốc trị, Đặng Quang Cầm, Trần Can, Phạm T ư,
Nguyễn Thế Như, Đặng đình Hồ. Đấy là những người con ưu tú của nước nhà.
Hồi kháng chiến, anh chị em Trường Thi, Bến Thủy vận chuy ển r ất nhi ều
máy móc đưa lên chiến khu, phục vụ kháng chiến. Đồng bào nông dân đã cung
cấp cho kháng chiến hơn 10 vạn tấn lương thực. Anh em trí thức đã đào t ạo
hàng ngàn học sinh để cung cấp cho quân đội, huấn luyện thành cán bộ quân
sự. Đồng bào công thương cũng đoàn kết tham gia kháng chiến. Do sự đoàn kết
ấy và cố gắng ấy mà tỉnh ta đã góp phần xứng đáng v ẻ vang trong cu ộc kháng
chiến thắng lợi...”3
Chỉ ngần ấy từ, ngần ấy con số thôi, Người đã đã nêu lên những trang sử
đáng tự hào của tập thể và cá nhân thuộc mọi ngành, mọi giới của nhân dân
3
- Nghệ An trong việc thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh của dân tộc chống đế quốc thực dân pháp thắng lợi.
Khi khen ngợi thành tích trong xây dựng hòa bình của nhân dân Ngh ệ An,
Người dẫn ra rất cụ thể: “Đồng bào ta đã khôi phục lại hệ thống nông giang
phía Bắc và Nam. Hệ thống nông giang ấy tưới được 4 vạn mẫu tây ru ộng ...”,
khi biểu dương thành tích của chị em phụ nữ , Người nói: “ Trong nông nghiệp,
tôi muốn nêu một công trạng của chị em phụ nữ tỉnh ta. Đó là phong trào chăn
nuôi gia súc”, Người còn nêu rõ: “ Trong 165 xã đã nuôi thêm được 14.190,
trung bình mỗi xã được 86 con. Thế là rất tốt, rất giỏi. Nh ưng còn ph ải c ố
gắng thêm, bởi vì dân ta ăn thịt lợn nhiều. Thêm mỗi xã 86 con thì còn ít, nh ưng
bước đầu thế là tốt...Tôi cũng muốn nêu một số cá nhân có thành tích. Chị
Trương Thị Tầm ở Nghĩa Đàn một mình nuôi 300 con gà, 4 con l ợn. Đ ồng th ời
làm ruộng, công tác xã hội, làm tổ trưởng phụ nữ. Đấy là m ột ph ụ n ữ anh
hùng. Anh hùng không phải “đông chinh tây phạt” hoặc cứ làm cái gì kỳ khôi
xuất chúng mới là anh ùng. Nuôi được nhiều lợn, nhiều gà, tăng gia sản xuất,
tiết kiệm, tham gia công tác xã hội tốt là anh hùng, như th ế là chi ến s ỹ...Tôi d ề
nghị với đồng bào, khi về, tôi sẽ đề nghị với Chính phủ khen thưởng ch ị
Trương Thị Tầm để khuyến khích chị em khác. Về nông nghiệp thì chúng ta có
anh hùng nông nghiệp Hoàng Hanh, có các chiến sĩ Vi Văn Vần, Nguyễn Sĩ
Chấp, Kha Thị Bình, Phạm Đào. Nếu trong kháng chiến, chúng ta có nh ững anh
hùng thì xây dựng hòa bình, cũng có anh hùng chiến sĩ. Đó là đội ti ền phong đ ể
xây dựng lại kinh tế nước nhà. Đó cũng là những người con ưu tú làm cho tỉnh
nhà vẻ vang”4 .
Như vậy, những điều Hồ Chủ tịch nói với nhân dân lao động vừa ngắn
gọn, súc tích, vừa cụ thể vừa bình dị dễ hiểu nhưng vô cùng sâu sắc, bởi qua đó
toát lên những tư tưởng lớn của Đảng và Nhà nước ta về sự nghiệp xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa. Từ cách diễn đạt của Người, chúng ta hiểu
con người mới xã hội chủ nghĩa là con người bình dị biết yêu Tổ quốc, yêu ch ủ
nghĩa xã hội, biết chiến đấu hy sinh để bảo vệ Tổ quốc, biết cần cù lao động
sáng tạo, biết làm chủ xã hội, làm chủ bản thân để xây d ựng ch ủ nghĩa xã h ội,
biết sống theo đạo lý mình vì mọi người, mọi người vì mỗi người để không
ngừng làm vẻ vang cho quê hương, đất nước.
Nói với thanh thiếu niên về vấn đề học tập, Người chỉ rõ :“... Mục đích
bây giờ không phải như khi trước, học để kiếm bằng, để làm ông thông, ông ký.
Bây giờ không còn ông thông, ông ký nữa... Chúng ta bây giờ là học cho t ốt đ ể
lao động cho tốt... Các cháu biết bây giờ, công nghiệp ta ngày càng phát triển
thì người công nhân trình độ văn hóa ngày càng cao. Vì vậy Tổ quốc cần những
công nhân có trình độ văn hóa cao... Nông nghiệp cũng đần dần ti ến lên, ng ười
nông dân cũng cần có trình độ văn hóa. Có như thế thì chúng ta mới đẩy nền
kinh tế lạc hậu của chúng ta bây giờ thành nền kinh tế tiền tiến. Chứ không
phải là những người học ra để đi làm quan. Sự thực bây giờ chúng ta không có
quan nữa. Nếu có là hạng quan liêu”5.
Những lời tâm tình ngắn gọn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên sự
khác nhau căn bản về bản chất của nền văn hóa phong kiến, văn hóa nô dịch
4
- dưới chế độ cũ với nền văn hóa dân chủ mới xã hội chủ nghĩa theo 3 nguyên
tắc là khoa học, dân tộc và đại chúng, mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang lãnh
đạo toàn dân ra sức xây dựng. Qua đó còn toát lên quan điểm, đường lối giáo
dục của Đảng ta là học đi đôi với hành, giáo dục gắn với th ực ti ễn lao đ ộng
sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Phê bình đồng bào ta thiếu ý thức tiết kiệm, Người đưa ra dẫn chứng rất
cụ thể và chỉ rõ tác hại của việc không thực hành tiết kiệm: “ Không tiết kiệm
tức là lãng phí. Đây tôi nói một thí dụ: Trong dịp tết vừa rồi có những huy ện
giết hơn 400 con trâu, bò- ăn rồi sau không có trâu, bò cày. Như mồng 5 tháng 5
vừa rồi, là ngày Trung Quốc kỷ niệm Khuất Nguyên, một nhà thơ rất gỏi, rất
yêu nước... Có xã hôm ấy giết hết 3 trâu, bò. Thế là không tốt.
Tôi nghe báo cáo việc nấu rượu, uống rượu, tỉnh nhà cũng tương đ ối b ừa
bãi. Những cái đó là có hại đến thuần phong mỹ tục, có hại đến sản xu ất, là
làm trái với chính sách của Đảng và Chính phủ, mà chính sách của Đ ảng và
Chính phủ là cốt làm lợi cho dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng và Chính
phủ không có lợi ích riêng nào khác. Đồng bào nơi nào đã làm như thế thì nay
phải sửa đổi... Tỉnh ta đã có truyền thống và có tiếng là có thuần phong mỹ tục.
Chúng ta phải phát triển và giữ gìn thuần phong mỹ tục đó. Đừng để rượu chè,
cờ bác, hát xướng lung tung. Phải tăng cuờng ý thức giữ gìn kỷ luật, gi ữ gìn
pháp tắc của Nhà nước”.6
Như vậy bằng những con số, minh chứng cụ thể và lời nói thân tình mà
nghiêm khắc, Hồ Chủ tịch đã thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm cần ph ải kh ắc
phục của nhân dân ta. Qua đó nhân dân ta hiểu rằng, xây d ựng ch ủ nghĩa xã h ội
không phải là việc làm cao xa ở đâu, mà là những việc thường ngày trong đời
sống sản xuất gắn với ý thức tiết kiệm. Sau Cách m ạng tháng Tám, khi T ổ
quốc lâm vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc, nhân dân ta đã thực hiện chủ trương
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm của Đảng, Nhà nước, nhờ vậy mà từng
bước đẩy lùi được nạn đói và làm cho tiềm lực kinh t ế v ật ch ất c ủa Nhà n ước
ta dần dần được nâng lên, góp phần to lớn vào cu ộc đ ấu tranh ch ống thù trong,
giặc ngoài, giữ vững nền độc lập, chế độ dân chủ nhân dân và chính quy ền dân
chủ nhân dân. Đồng thời từ những lời nhắc nhở, chỉ bảo của Người, toát lên
tinh thần chủ trương của Đảng là cần triệt để bài trừ, xóa bỏ các t ệ n ạn xã h ội
do chế độ cũ để lại, nhằm xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, xã hội mới
văn minh, để mọi người dân được thực sự sống trong ấm no hạnh phúc.
Nói chuyện với Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Nghệ An ngày 8-12-1961
trong lần thứ hai về thăm quê, khi miền Bắc đang th ực hiện kế hoặch 5 năm
lần thứ nhất, miền Nam đang đấu tranh chống chiến lược “ Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ, Người đề cập đến nhiều vấn đề cấp bách, bức thi ết do
cách mạng đặt ra. Đối với nhân dân miền Bắc lúc này là ph ải ra s ức xây d ựng
chủ nghĩa xã hội để tạo ra tiềm lực to lớn cho hậu ph ương, đủ s ức chi viên cho
tiền tuyến miền Nam đánh Mỹ. Nước ta là nước nông nghiệp, lúc đó vấn đ ề
xây dựng hợp tác xã nông nghiêp được Đảng ta rất quan tâm. Xây dựng thành
phần kinh tế tập thể trong nông nghiệp vững mạnh là một trong những nhân t ố
quan trọng tạo ra tiềm lực kinh tế cho đất nước và giúp con em nhân dân yên
5
- tâm lên đường chiến đấu, phục vụ chiến đấu ch ống đế quốc Mỹ xâm l ược.
Nghệ An cơ bản là một tỉnh nông nghiệp, nên Người nói nhiều đến vấn đề xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp. Muốn xây dựng hợp tác xã thì vấn đề làm ch ủ
tập thể là một nội dung cực kỳ quan trọng mà cán bộ, đảng viên và người dân
cần phải quán triệt để thực hiện. Bằng những câu hỏi cụ thể sát th ực với tình
hình các địa phương của tỉnh Nghệ An, Người vừa kiểm tra vi ệc bám sát c ơ s ở
của cán bộ, vừa để nắm mức độ nhận thức và năng lực lãnh đ ạo c ủa cán b ộ t ừ
cấp chi bộ đến tỉnh ủy. Sau những câu hỏi của Người là nh ững câu tr ả l ời c ủa
cán bộ, hoặc Người tự giải thích ngắn gọn, súc tích, dễ hi ểu, ch ỉ ra ph ương
pháp nhận thức và phương pháp công tác cho cán bộ, đảng viên của Đảng ở quê
nhà.
Người hỏi: Nhiệm vụ trước mắt của chúng ta, cụ thể ở Nghệ An hiện giờ
là gì? Là sản xuất. Muốn sản xuất thì phải làm th ế nào? Ph ải c ủng c ố h ợp tác
xã. Muốn củng cố hợp tác xã cho tốt thì phải làm thế nào? Phải giáo d ục. Giáo
dục ai? Giáo dục xã viên hợp tác xã. Ai giáo dục họ? ( “Đảng giáo dục”- mọi
người đáp ). Nói Đảng cũng rộng đấy. Nhưng trước hết là ai? Chi bộ. Hễ chi
bộ tốt thì hợp tác xã tốt, chi bộ kém thì hợp tác xã kém. Đó là kinh nghi ệm
chung 7
Nói giáo dục xã hội chủ nghĩa thì rộng quá, mà phải nói giáo dục tinh th ần
làm chủ. Trước hêt là chi bộ, rồi đến đoàn thanh niên. Chi bộ tốt, Đoàn thanh
niên tốt thì tự nhiên giáo dục xã viên tốt. Muốn chi bộ tốt, chi đoàn t ốt, đ ảng
ủy, chi ủy địa phương tốt thì làm thế nào? ( “ Dạ, Đảng phải giáo d ục”- Mọi
gười đáp). Nhưng cụ thể là ai giáo dục? ( “Dạ, Tỉnh ủy”). Đúng, Tỉnh ủy...
Hợp tác xã kém là thế nào? Vì chi bộ kém. Mà chi bộ kém, truy nguyên là vì
lãnh đạo của Tỉnh ủy.8
Từ cách nói cụ thể sát thực của Chủ tịch Hồ Chí Minh mỗi người cán bộ
của Đảng phải suy ngẫm để hiểu một cách đầy đủ, sâu s ắc rằng, dưới ch ế đ ộ
thực dân phong kiến, nhân dân ta chưa hề được h ưởng quyền làm chủ làm ch ủ.
Chính vì vậy khát vọng đòi quyền sống, quy ền làm chủ c ủa nhân dân là r ất
chính đáng và ngày càng cháy bỏng. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã
đập tan ách thống trị của đế quốc thực dân, phong kiến, giành độc lập, dựng
nên chế độ dân chủ nhân dân, người dân lao động Việt Nam từ thân ph ận nô l ệ
đã trở thành người chủ của đất nước độc lập tự do, làm ch ủ chính cuộc đời
mình. Nhờ biết phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, Đảng ta đã phát
động được quần chúng vùng dậy đấu tranh chống giặc ngoại xâm, gi ặc đói,
giặc dốt, xóa bỏ giai cấp bóc lột, từng bước tạo ra cơ s ở vật ch ất k ỹ thu ật đ ể
đi lên chủ nghiã xã hội. Tuy nhiên do chưa nắm vững nguyên tắc làm chủ nên
cán bộ và nhân dân ta cũng mắc không ít khuyết điểm, sai lầm trong việc thực
hiện đường lối dân chủ của Đảng, như sai lầm trong chỉ đạo thuế nông nghiệp
hồi 1952-1953, đánh cả vào bần nông, trung nông. Hoặc khi thành lập h ợp tác
xã, nhiều nơi chưa phát động đầy đủ tính tự giác, tự nguyện của nông dân, vi
phạm nguyên tắc tự nguyện của Đảng trong đường lối h ợp tác hóa nông
nghiệp. Có nơi nóng vội đưa hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao với quy mô l ớn
khi cơ sở vật chất còn kém, trình độ quản lý của cán bộ còn thấp. Hoặc trong
6
- chỉnh đốn tổ chức hồi 1953-1954, do không quán triệt đầy đủ chủ trương của
Đảng và nhà nước, Nghệ An đã mắc sai lầm là bắt oan, xử oan một s ố cán b ộ,
đảng viên và người dân, gây nên nhiều cảnh oan trái, ảnh h ưởng không t ốt cho
cách mạng. Khi sửa sai về cải cách ruộng đất, Nghệ An trả tự do cho hơn hai
ngàn cán bộ, đảng viên và nông dân lao động bị quản chế, tù oan 9. Những
khuyết điếm, sai lầm đó đều do không nắm vững đường lối dân chủ của Đảng.
Từ sự phê bình nghiêm khắc và sự chỉ bảo ân cần của Hồ Chủ tịch, cán
bộ, nhân dân ta hiểu thêm sâu sắc về bản chất của ch ế độ dân ch ủ nhân dân và
nguyên tắc thực hiện đường lối dân chủ của Đảng. Dân chủ là phải làm cho
nhân dân thấu hiểu đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước
trong từng thời kỳ, phải chăm lo đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân, đem
lại lợi ích thiết thực cho người lao động. Dân ch ủ là vừa không b ảo th ủ, trì tr ệ,
vừa không quan liêu, xa rời thực tế, xa rời quần chúng. Dân ch ủ phải có lãnh
đạo, phải có kỷ cương và pháp luật. Vì vậy dân ch ủ là ph ải g ắn li ền quy ền l ợi
và mghĩa vụ. Chỉ biết đòi quyền lợi mà không tự giác làm tròn nghĩa v ụ đối v ới
đất nước, với quê hương, với tập thể là chưa đúng. Người phê bình m ột s ố đ ịa
phương, cá nhân không nạp đầy đủ ngân sách, thuế khóa cho Nhà n ước, ch ỉ
muốn thu về cho mình nhiều vật tư, hàng hóa của Nhà nước mà nghĩa v ụ nông
sản, hàng hóa đối lưu theo hợp đồng thì không ch ịu làm tròn. Đó th ực ch ất là
không thực hiện đúng nguyên tắc làm chủ của Đảng.
Ngày 9-12-1961, Bác nói với đồng bào và cán bộ xã Nam Liên: “ Phải
củng cố hợp tác xã cho tốt. Muốn hợp tác xã tốt thì phải làm thế nào? Phải nêu
cao tinh thần làm chủ: làm chủ xóm làng, làm chủ hợp tác xã, làm chủ đất
nước. Nay dân là chủ. Nhưng phải cho ra người chủ, chứ không thể phất phơ
được. Mọi người đều có trách nhiệm làm cho dân giàu nước mạnh, quốc phòng
vững mạnh. Làm chủ hợp tác xã là thế nào? Là phải coi công vi ệc c ủa h ợp tác
xã như công việc của mình, chứ không phải làm sao cũng được.”10
Những lời nói bình dị, mộc mạc, cụ thể, gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có sức cảm hóa sâu sắc, sức cuốn hút lạ thường, sức thẩm thấu và lan tỏa
đến kỳ diệu vào tâm trí của mọi người cán bộ, mọi người dân. Qua đó m ỗi
chúng ta đều có thể tự hiểu, tự kiểm điểm về suy nghĩ, nh ận th ức và vi ệc làm
của mình đã đúng với tinh thần đường lối, chủ trương, chính sách c ủa Đ ảng và
Nhà nước hay chưa, để tự điều chỉnh theo đúng những lời căn dặn và mong
muốn cùa Người. Làm được như vậy chính là góp phần thực hiện mục đích cao
cả của cách mạng do Đảng, Bác Hồ vạch ra và cũng chính là khát vọng c ủa
nhân dân ta: xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã h ội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Đã nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày bác Hồ kính yêu, vị lãnh tụ tối cao của
Đảng, của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới về thăm quê hương, những bài
nói chuyện thật thân tình nồng ấm, thật gần gũi, thật cụ th ể, mộc m ạc, chân
chất tràn đầy lòng nhân ái của Người dành cho đồng bào, cán bộ quê nhà th ật
súc tích mà chứa đựng những nội dung tư tưởng lớn lao, vẫn toát lên một phong
cách đạo đức đặc biệt của vĩ nhân, một tấm gương chuẩn mực, hoàn hảo cho
mọi thời đại để chúng ta học tập, noi theo trong cuộc sống và công tác.
7
- Chú thích:
1.Trích Điếu văn của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam.
2.Khu di tích Kim Liên: Quê hương trong lòng Bác, Nxb. CTQG, Hà Nội,
1995, tr 25
3.Sách đ d, tr 26
4.Sách đ d, tr 28
5.Sách đ d, tr 29
6.Sách đ d, tr 31, 36
7.Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, tr. 441, 442
8.Sách đ d, tr 443, 444, 445
9.Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ Tĩnh, Bác
Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1990, tr 312
10.Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1996, tr 453
8
nguon tai.lieu . vn