Xem mẫu
- I.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nhận thức rõ toàn cầu hoá như một tất yếu khách quan, bởi động
lực bên trong của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà lực lượng
sản xuất thì không ngừng phát triển và càng về sau thì càng phát triển
nhanh hơn, mạnh hơn.
Do các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hoá và dịch vụ dịch
chuyển tự do từ nước này sang nước khác nên sự phân công lao động ngày
càng sâu sắc và diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, hình thành nên các
chuỗi giá trị toàn cầu. Từ thực tế này, một loạt vấn đề mới đặt ra trong
chính sách thương mại và đầu tư. Trong đó, có đối sách của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc trước xu thế của thời đại, hoặc tham gia vào tiến trình toàn
cầu hoá hay đứng ngoài tiến trình ấy.
Tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, tiến cùng thời đại tuy thách
thức là rất lớn, nhưng cơ hội cũng rất nhiều. Không tham gia vào tiến
trình ấy, trở thành người ngoài cuộc sẽ bị phân biệt đối xử trong tiếp cận
thị trường về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, sẽ rất khó khăn trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nhất là trong bối cảnh thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng kỹ thuật -
công nghệ lần thứ 3; và từ đó, dẫn đến làn sóng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế lần thứ 3. Mà sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi nước sẽ dẫn đến
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các nước.
Điều quan trọng nữa là quốc gia nào không tham gia vào tiến trình
này, quốc gia đó sẽ không có địa vị bình đẳng trong việc bàn thảo và xây
dựng định chế của nền thương mại thế giới, không có điều kiện để đấu
tranh bảo vệ quyền lợi của mình.
Việt Nam là một bộ phận kinh tế không thể tách rời của thế giới.
Công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm cho dân
giàu nước mạnh sẽ không thể thực hiện được nếu không gắn liền với sự
giao thương trao đổi hàng hoá, khoa học kỹ thuật tiên tiến với các nước
khác. Vì vậy Việt Nam không thể đứng ngoài vòng xoáy của nên kinh tế
toàn cầu. Trên cơ sở những thành tựu đạt được sau gần 10 năm đổi
mới(1986-1995), năm 1995 nước ta chính thức làm đơn xin gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới.
1
- II.NỘI DUNG
1.Bản chất của WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1
tháng 1 năm 1995 và là một bước phát triển toàn diện của Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại (GATT). WTO quản lý các Hiệp định
thương mại do các Thành viên ký kết, đặc biệt là Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại (GATT), Hiệp định chung về Thương mại dịch
vụ (GATS) và Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs). Các quy định
và thủ tục của WTO tạo ra một khuôn khổ cho việc trao đổi hàng hóa,
dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Các nguyên tắc và quy định được các Thành viên
đàm phán thông qua các cuộc thảo luận chính thức và không chính thức
khác trong các diễn đàn khác nhau của WTO và các vòng đàm phán thương
mại đa phương định kỳ như Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển hiện
nay (DDA).
Các Thành viên WTO có trình độ kinh tế khác nhau, từ những nền
kinh tế kém phát triển nhất cho tới những nền kinh tế phát triển nhất. Sự
thành công của tổ chức này được thể hiện ở sự phát triển liên tục số
lượng các nước tham gia. Kể từ khi tổ chức này được thành lập đến đã có
tổng số thành viên là 153(tính đến 23/6/2008) chiếm trên 90% tổng
thương mại toàn cầu. Các Thành viên mới của châu Á gia nhập WTO
trước Việt Nam là Trung Quốc và Đài Loan, hai nền kinh tế gia nhập năm
2001 và 2002, Ácmênia (2003), Campuchia (2004) và Nêpan (2004).
2.Các mốc lớn trong quan hệ của Việt Nam với WTO
1994: Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam và thiết
lập quan hệ ngoại giao bình thường vào năm 1995. Điều này đã thúc đẩy
việc mở cửa nền kinh tế Việt Nam.
1995: Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO vào tháng 1 năm 2005.
1996: Bắt đầu cuộc gặp thường kỳ của Ban công tác về việc Việt
Nam gia nhập WTO.
1998: Các cơ quan quản lý Việt Nam quyết định đẩy nhanh tiến trình gia
nhập WTO.
2001: Phiên đàm phán đa phương lần thứ 9 của WTO/GATT – vòng đàm
phán Đôha vì sự phát triển – được khởi động vào tháng 11 năm 2001.
2002: Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên đối với hàng hóa và dịch vụ.
2
- 2004: Việt Nam đưa ra Bản chào sửa đổi tham vọng hơn về tiếp cận thị
trường vào tháng 6 năm 2004 tại phiên họp lần thứ 8 của Ban công tác,
Bản chào này thể hiện một bước đột phá trong đàm phán gia nhập WTO.
2004: Bắt đầu các cuộc đàm phán song phương với các Thành viên WTO.
Một Thỏa thuận đột phá được ký kết với Liên minh châu Âu.
2005: Ký thỏa thuận với Trung Quốc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
2006: Hoa Kỳ và Việt Nam ký Hiệp định song phương về các cam kết gia
nhập WTO của Việt Nam, đây là Hiệp định song phương cuối cùng và
dường như là khó khăn nhất trong số 28 Hiệp định song phương với các
Thành viên WTO.
2002 – 2006: Các cơ quan quản lý Việt Nam đã rà soát sâu rộng hầu hết
luật và quy định của Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan tới WTO cũng
như các lĩnh vực khác và đã đưa kế hoạch hành động liên quan tới WTO
vào Kế hoạch phát triển năm năm 2006 – 2010 (SRV, 2006)
2007: Việt Nam trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới vào ngày 11 tháng 1 năm 2007.
2007: Chính phủ Việt Nam đưa ra chương trình hành động thực thi các
cam kết gia nhập WTO.
Vào năm 2002, Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ, sau đó Bản chào sửa đổi vào tháng 7 năm
2004 mang tính tham vọng hơn. Cả hai Bản chào đều được các Thành viên
WTO hoan nghênh. Sau một số vòng đàm phán, các đối tác thương mại
của Việt Nam đồng ý bắt đầu dự thảo Báo cáo của Ban công tác về việc
Việt Nam gia nhập WTO và tiến hành các cuộc đàm phán song phương
cần thiết để đạt được thỏa thuận gia nhập giữa các bên.
Trong quá trình gia nhập WTO của mình, Việt Nam đã không nhận
được nhiều đối xử đặc biệt và khác biệt từ các Thành viên WTO. Việt
Nam đã phải thực hiện các bước cụ thể trước, trong và sau giai đoạn đàm
phán để có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức nhằm hỗ trợ quá
trình phát triển của mình. Các nỗ lực này được một số nhà tài trợ và tổ
chức quốc tế hỗ trợ thông qua việc cung cấp các chương trình xây dựng
năng lực và kinh nghiệm (một trong số các chuyên gia dày dạn kinh
nghiệm hỗ trợ Việt Nam trong những ngày đầu của tiến trình gia nhập là
Ông Arthur Dunkel, cựu Tổng giám đốc của WTO và ông Trần Văn Thìn,
cựu đại sứ của EC tại GATT). Nhờ có sự kết hợp phù hợp giữa các nỗ
lực và dự án của Việt Nam và quốc tế, các mục tiêu phát triển của Việt
Nam trong tiến trình gia nhập WTO đã được làm rõ và Việt Nam đã đưa ra
được các chiến lược đàm phán phù hợp. Cụ thể hơn, các cơ quan Việt
Nam đã đưa ra các bước đi để thực hiện mục tiêu này.
3
- 3.Cơ hội
a. Đối với quốc gia
Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước
những cơ hội lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các
nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành
dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các
nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta
mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai - với sự lớn mạnh của
doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch vụ ra
ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh
tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là
đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch
các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của
nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không
những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn
thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản
xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra
công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn
khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực,
đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu
thế này ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá
trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP,
thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các
thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có
cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng
hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh
4
- nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của
ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải
cách thể chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với
bên ngoài nhưng chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế
giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình
cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20
năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường
quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại
theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập
WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu,
nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ
thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và
đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé.
b.Đối với doanh nghiệp
Sự cân thiêt phai tuân thủ cac cam kêt WTO buôc Việt Nam phai tiên
̀ ́ ̉ ́ ́ ̣ ̉ ́
hanh những cai cach quan trong, cuôi cung sẽ cai thiên môi trường kinh
̀ ̉ ́ ̣ ́ ̀ ̉ ̣
doanh như: cac thủ tuc được chuân hoa và minh bach hơn, quyên lợi cua
́ ̣ ̉ ́ ̣ ̀ ̉
cac nhà đâu tư được bao đam hơn... Viêc đơn gian hoa 3 thủ tuc câp giây
́ ̀ ̉ ̉ ̣ ̉ ́ ̣ ́ ́
chứng nhân đăng ký kinh doanh, câp mã số thuế và câp giây phep khăc dâu
̣ ́ ́ ́ ́ ́ ́
có tac đông tich cực đôi với cac doanh nghiêp mới. Viêc mở ra hệ thông tai
́ ̣ ́ ́ ́ ̣ ̣ ́ ̀
chinh canh tranh sẽ tao cơ hôi tiêp cân tai chinh tôt và có tinh canh tranh
́ ̣ ̣ ̣ ́ ̣ ̀ ́ ́ ́ ̣
hơn cho doanh nghiêp nho, cung cac dich vụ tai chinh mới trong linh vực
̣ ̉ ̀ ́ ̣ ̀ ́ ̃
cho thuê tai chinh, giai châp thanh toan, tư vân tai chinh và dich vụ thông
̀ ́ ̉ ́ ́ ́ ̀ ́ ̣
tin. Viêt Nam giam thuế cac nghia vụ nhâp khâu đôi với san phâm như may
̣ ̉ ́ ̃ ̣ ̉ ́ ̉ ̉ ́
moc, thiêt bi... tao điêu kiên mang nhiêu hang hoa đên với các doanh nghiêp
́ ̣́ ̣ ̀ ̣ ̀ ̀ ́ ́ ̣
trong nước với mức giá hợp ly, giup doanh nghiêp nhỏ và vừa Viêt Nam ́ ́ ̣ ̣
nâng cao hiêu quả nhờ được cung câp nguôn lực tôt hơn.
̣ ́ ̀ ́
Tư cách thành viên WTO là bằng chứng của một môi trường kinh
doanh thuận lợi, và nhờ đó, sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào khu vực xuất khẩu và khu vực sản xuất cho thị trường nội địa. Tuy
5
- nhiên, xác định mức độ mà tư cách thành viên WTO tác động đến FDI là
một việc khó khăn, bởi có quá nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các quyết
định đầu tư.
Từ khi gia nhập WTO, sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam
được mở rộng thị trường tiêu thụ đem lại lợi nhuận cao. Hơn nữa, doanh
nghiệp còn tranh thủ được những ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất.
c.Đối với người tiêu dùng
Theo tính toán của Bộ Tài chính, trong vòng 5 năm sau khi vào
WTO, do phải cắt giảm 3.800 dòng thuế nhập khẩu nên nguồn thu ngân
sách từ nhập khẩu sẽ giảm 300 triệu USD. Tức trung bình mỗi năm giảm
khoảng 1.000 tỷ đồng. Điều này cũng có nghĩa là người tiêu dùng được
hưởng lợi-từ những hàng hóa nhập khẩu do được giảm thuế nhập khẩu
rẻ đi tương ứng-ít nhất là tương đương con số nêu trên.
Khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, hàng hóa các nước sẽ
thâm nhập thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành nâng cao sức cạnh
tranh với hàng nhập nhằm tồn tại, phát triển.
Với 3 nhóm hàng mà người tiêu dùng đang quan tâm là ti vi, điều
hòa, máy giặt, sẽ phải giảm thuế suất thuế nhập khẩu từ 50% và 40%
hiện hành xuống 40% và 38% ngay khi vào WTO và xuống còn 25% sau 3-
5 năm.
Ngoài ra, người tiêu dùng Việt Nam cũng sẽ hưởng lợi khi các sản
phẩm công nghệ thông tin sẽ phải giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0%
trong vòng 3-5 năm kể từ khi gia nhập WTO (có khoảng 330 dòng thuế
thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0%).
Hai mặt hàng nhạy cảm là rượu và bia, WTO cho Việt Nam thời
gian 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt xuống tương xứng với
mức chung của WTO (chúng ta đã bắt đầu thực hiện lộ trình kể từ
1/12006 theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi).
Đặc biệt là cơ hội mua xe máy, ô tô giá rẻ.
6
- d. Đối với người lao động
Khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ hội việc làm sẽ mở ra cho hàng
triệu thanh niên trong các ngành công nghệ cao thuộc các lĩnh vực tự động
hoá, công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ sinh học ứng dụng và
một số ngành dịch vụ như du lịch, bảo hiểm, ngân hàng.
VN sẽ có những thuận lợi trong việc đưa lao động tham gia vào thị
trường nhân lực quốc tế. Đó là tranh thủ được vốn, kinh nghiệm quản lý,
kỹ thuật, công nghệ của nước ngoài đầu tư tạo việc làm chất lượng cao
và đào tạo nhân công trình độ cao cho VN.
VN sẽ mở rộng sự tham gia vào quá trình phân công lao động quốc
tế. Khi ấy thị trường lao động không còn bó hẹp trong biên giới quốc gia
mà sẽ được mở rộng tới các tập đoàn quốc tế. Người lao động có cơ hội
học hỏi nhiều hơn, tiếp cận với những môi trường làm việc lý tưởng, và
tất nhiên thu nhập sẽ cao hơn
Nhận định qua 3 năm thực hiện:
Ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Ba năm qua, trên con đường hội nhập quốc
tế, nước ta đã tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị
trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng
bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo
hướng hiện đại. Năm 2010 sẽ là năm đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại
của đất nước, nền kinh tế nước ta sẽ có nhiều chuyển biến. Chúng ta gia
nhập WTO đúng thời điểm kinh tế thế giới diễn biến xấu đến hai lần.
Lần thứ nhất là năm 2007 giá cả thị trường thế giới tăng cao, đặc biệt là
giá dầu; lần thứ hai là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua. Năm
2008 là năm khá đặc biệt, trong nửa đầu năm, nền kinh tế nước ta phải
đối phó với tình trạng lạm phát cao. Năm 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu tiếp tục tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của nước
ta. Nhất là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tốc độ tăng
trưởng kinh tế, sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu và đầu tư từ quý 1 đến
quý 3 giảm sút nghiêm trọng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ
còn khoảng 165 tỷ đô-la Mỹ bằng gần 1/3 so với năm 2008. Những khoản
tín dụng đầu tư trong nước không còn dồi dào như các năm trước; nhiều
hợp đồng cho vay trở nên chặt chẽ hơn, khiến nhiều nhà đầu tư gặp khó
khăn trong việc thu xếp tín dụng cho các dự án mới.
7
- Nếu chưa gia nhập WTO thì chắc chắn Việt Nam sẽ gặp khó hơn
nhiều vì hàng hóa của chúng ta phải chịu thuế rất cao. Theo đánh giá của
nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan thì 3 năm hội nhập nền kinh tế thế giới,
chúng ta thấy những tác động hữu hình và vô hình rõ hơn. Về hữu hình,
xuất khẩu đã gia tăng đáng kể, tuy nhiên đến năm 2009 lại bị âm 9% do
tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhưng nếu chúng ta không
tham gia hội nhập, xuất khẩu sẽ còn bị giảm nhiều hơn. Về mặt vô hình,
xã hội đã nhận thức được nhu cầu hội nhập và đồng thuận cao. Đặc biệt
để hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra sức ép buộc các cơ quan
trung ương và địa phương phải giảm khoảng 30% các thủ tục hành chính.
Nhấn mạnh ý nghĩa của sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, nguyên Phó
Thủ tướng Vũ Khoan đánh giá: “Nếu không hội nhập thì chúng ta sẽ chịu
những rào cản lớn hơn, những chế xuất cao hơn rất nhiều, không phải
dừng ở 0,9%. Nổi bật nhất là thể chế của chúng ta đã đổi mới đáng kể,
trước và sau khi ra nhập WTO, đặc biệt nghị định 30 của chính phủ về
vấn đề giảm bớt 30% thủ tục, cũng là biểu hiện mới từ sức ép của quá
trình hội nhập, sức ép của quá trình khủng hoảng đưa tới những cải cách
đó. Chúng ta đã dần nhận biết rõ hơn cái đỏng đảnh của thể chế thị
trường và nền kinh tế thế giới và từ đó tìm cách ứng phó cơ động linh
hoạt. Kết quả là chúng ta ứng phó tương đối thành công, qua đó nó bộc lộ
rõ những cơ hội, thách thức của quá trình hội nhập đồng thơìbộc lộ rất rõ
điểm mạnh điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam”.
Ba năm chưa phải là một khoảng thời gian dài để Việt Nam hoàn
toàn hội nhập được với nền kinh tế thế giới, trước mắt còn nhiều thách
thức lớn đặt ra. Vì vậy cần phải nhận biết tốt hơn các thị trường tự do,
thể chế thị trường, nếu không sẽ khó ứng xử. Các cơ quan nhà nước cũng
cần nghiên cứu nhiều hơn về thị trường thế giới để có các chính sách cơ
động, linh hoạt nhưng phải dễ tiên đoán. Trong năm 2010, Việt Nam cũng
phải chọn lựa giữa chất lượng và tốc độ tăng trưởng; đối mặt với mâu
thuẫn muốn ổn định vĩ mô phải thắt chặt tiền tệ; Cân bằng giữa thị
trường ngoài nước và trong nước, giữa can thiệp của Nhà nước và điều
tiết thị trường; Đặc biệt là chọn lựa mô hình phát triển phù hợp để Việt
Nam có thể trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
4.Thách thức
a. Đối với quốc gia
8
- Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh
của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng
của chính quá trình hội nhập. Những thách thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta
với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các
nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do
thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống
mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn
giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh
nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà
nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển
nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát
triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả
năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay
không.
Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản
xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu
tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh
tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức
cạnh tranh quốc gia.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không
đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít
hơn. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một
bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực
của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ
thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi
hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt
và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường
các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta
9
- phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân
tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng
phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến
động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn,
hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị
trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải
phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao
trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc
bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy
theo đồng tiền.
b. Đối với doanh nghiệp
Trước tiên, các nhà máy Việt Nam có chất lượng thấp, kỹ thuật lạc hậu,
giá thành cao, hệ thống phân phối kém, thiếu hiểu biết về hệ thống pháp
luật. Khi trở thành thành viên WTO, ngay lúc đầu giới kinh doanh Việt
Nam sẽ mất thị trường và phải bước vào đoạn điều chỉnh cấp thời.
Thứ hai, rất nhiều doanh gia Việt Nam không am tường luật lệ và thủ
tục (mới) của WTO. Những luật lệ và thủ tục hiện hành của WTO còn
thay đổi nhiều. Trong bước đầu hội nhập WTO, giới kinh doanh Việt
Nam gặp phải những cạnh tranh rất gay gắt vì giới quản lý cũng như
nhân viên phải cấp kỳ lãnh hội cách làm ăn mới để thích hợp với thương
trường WTO. Nhiều nguy cơ thua đậm trong những vụ tranh chấp pháp
lý.
Thứ ba, sự thay đổi trong luật lệ kinh doanh là thử thách lớn cho khu vực
dịch vụ Việt Nam, không có vốn, không có công nghệ, và cũng chẳng có
kinh nghiệm so với các đối thủ quốc tế. Hệ thống phân phối hàng hóa
trong nội địa của Việt Nam sẽ gặp phải những cạnh tranh mãnh liệt của
những công ty nước ngoài.
Thứ tư, tất cả những xí nghiệp nội địa phải cạnh tranh ở mức cao hơn.
Các xí nghiệp này phải tự chỉnh đốn để sản xuất hàng chất lượng và có
dịch vụ tốt hơn, hay phá sản. Những khu vực yếu kém trong cạnh tranh
10
- như dịch vụ, sản xuất sắt thép, lắp ráp xe hơi và nông nghiệp sẽ bị đe dọa
trầm trọng.
Khu vực trước đây thuộc độc quyền kinh doanh của nhà nước như điện
lực, viễn thông, sẽ bị áp lực nặng nề để mở cửa cho tư doanh. Nhiều
công ty Việt Nam có khả năng bị công ty ngoại quốc nuốt chửng.
Thứ năm, sự phá sản của công ty nội địa làm tăng nạn thất nghiệp và gây
bất ổn định trong xã hội. Mặt khác, ngay cả nguồn vốn đầu tư nước
ngoài có khả năng, trong vài trường hợp, đưa đến tình trạng tài chính bất
ổn định.
c. Đối với người tiêu dùng
Khi gia nhập WTO, người ta hi vọng việc giảm thuế sẽ làm giảm
giá một số sản phẩm, đặc biệt là thực phẩm. Tuy nhiên, người tiêu dung
Việt Nam vẫn phải chịu một mức giá cao trong thời gian qua. Thể hiện rõ
nhất là việc giảm thuế ngành sữa và các sản phẩm từ sữa.
Thực tế cho thấy, hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường nội địa
khiến cho người tiêu dùng có thể không muốn nhưng vẫn phải mua hàng
với giá cao mặc dù chất lượng có thể không được như mong muốn.
Một số sản phẩm nước ngoài khi nhập về Việt Nam được kiểm
định không chặt chẽ gây tác hại cho sức khỏe của người dân: đồ đông
lạnh, sữa quá hạn sử dụng…
Các thị trường như Hoa Kỳ, Úc, Hà Lan đã tận dụng được cơ hội
cắt giảm thuế quan của VN theo cam kết để tăng giá trị xuất khẩu của họ
vào thị trường nhưng ngược lại giá bán trong nước vẫn lien tục bị đẩy lên
cao. Đây là khó khăn lớn nhất cho người tiêu dùng nước ta.
d.Đối với người lao động
Thách thức đối với LĐ ở chỗ nguy cơ mất việc làm treo trên đầu
bất cứ ai. Khi gia nhập WTO, hàng hóa, dịch vụ nước ngoài tràn vào thị
trường VN; các doanh nghiệp, lĩnh vực VN không cạnh tranh được, sản
xuất bị thu hẹp hoặc khó tồn tại, ảnh hưởng đến công ăn việc làm. Tác
động trực tiếp nhất của việc thu hẹp sản xuất là người LĐ có nguy cơ
mất việc làm. Không loại trừ ngành dệt - may, da - giày mà những lĩnh
vực dịch vụ, nông sản yếu kém cũng bị đe dọa.
11
- Tình trạng mất việc làm còn bởi trình độ của người lao động Việt
Nam còn hạn chế, chương trình đào tạo, hệ thống bằng cấp của Việt
Nam không phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Rất có thể thanh niên Việt
Nam phải đứng nhìn lao động từ các nước vào VN làm việc và hưởng
lương rất cao.
Thời cơ đòi hỏi DN và chính mỗi người lao động Việt Nam phải
nâng tầm lên cao hơn và phải có sự bứt phá về chất lượng. Nếu làm được
như vậy, thị trường lao động sẽ có bước chuyển mới.
Câu hỏi đặt ra: Ai là người bị thách thức nhiều nhất??
Đó chính là doanh nghiệp nông nghiệp với chủ thể là người
nông dân.
Để gia nhập WTO, Việt Nam đã phải đàm phán tất cả các nội dung
liên quan đến nông nghiệp và đi tới cam kết điều chỉnh hệ thống chính
sách trong nước phù hợp với quy định của WTO, không trợ cấp xuất khẩu
nông sản ngay khi gia nhập.
Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong xuất khẩu nông
sản. Từ chỗ 20 năm trở về trước, Việt Nam hầu như không xuất khẩu
nông sản, cho tới nay, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo và cà
phê đứng thứ hai trên thế giới và cũng là nước đứng trong nhóm quốc gia
hàng đầu về xuất khẩu thuỷ sản và nhiều sản phẩm nhiệt đới khác như
cao su, hồ tiêu, hạt điều, chè.
Tuy nhiên, thực tế của môi trường kinh doanh mới khi Việt Nam gia
nhập WTO sẽ đặt ra những vấn đề khó khăn cho nền nông nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng.
Dưới đây là một số ý kiến về những kinh nghiệm và bài học hay,
những giải pháp, hành động khả thi đặc biệt về hoàn thiện vai trò quản lý
Nhà nước, hành lang pháp lý giúp các doanh nghiệp nông nghiệp Việt
Nam có thể tồn tại và phát triển hiệu quả trong bối cảnh cạnh tranh gay
gắt khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, qua đó thúc đẩy sự phát triển
bền vững của ngành, tạo thêm nhiều việc làm thu nhập thoả đáng, cải
thiện đời sống cho người lao động trong ngành nông nghiệp.
Những vấn đề lớn của doanh nghiệp nông nghiệp
12
- Việt Nam đang hội nhập ngày một sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực và thế giới. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành việc cắt giảm
thuế hàng nông sản trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Mức
thuế bình quân đã giảm xuống còn khoảng 4% so với mức thuế MFN hiện
hành bình quân của hàng nông sản là 24,5%.
Đối với Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA),
Việt Nam đã thực hiện giảm thuế trong Chương trình “Thu hoạch sớm”
đối với các nông sản tươi sống (từ chương 1 đến chương 8 của biểu
thuế) từ 1/1/2004 và sẽ hoàn thành vào 1/1/2008.
Chương trình “cắt giảm thông thường” cho các sản phẩm còn lại
cũng đã bắt đầu triển khai từ giữa năm 2005 và sẽ cơ bản hoàn thành để
có thuế suất xuống 0 - 5% vào năm 2013. Còn Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN- Hàn Quốc vừa kết thúc đàm phán sẽ được triển khai thực hiện
trong tương lai không xa. Ngoài ra, Việt Nam đang tích cực tham gia đàm
phán về Khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với các nước Nhật Bản,
Ấn Độ, Australia và New Zealand.
Để gia nhập WTO, Việt Nam đã phải đàm phán tất cả các nội dung
liên quan đến nông nghiệp và đi tới cam kết điều chỉnh hệ thống chính
sách trong nước phù hợp với quy định của WTO, không trợ cấp xuất khẩu
nông sản ngay khi gia nhập; về mở cửa thị trường nông sản cũng đã kết
thúc đàm phán song phương với 28 nước.
Theo đó, Việt Nam sẽ giảm thuế hàng nông sản khoảng 20%) so
với mức MFN hiện hành trong vòng 3- 5 năm (từ mức 24,5% hiện nay
xuống còn xấp xỉ 20%). Tất nhiên sẽ có sự khác nhau về mức độ giảm
thuế giữa các sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Những nhóm hàng phải
giảm nhiều nhất là thịt, sữa, rau quả chế biến, thực phẩm chế biến, quả
ôn đới.
Cam kết về hệ thống chính sách nông nghiệp điều chỉnh phù hợp
với WTO sẽ tạo ra môi trường kinh doanh trong nước bình đẳng cho mọi
thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Bên
cạnh cơ hội tiếp cận thị trường các nước trong khu vực, gia nhập WTO
sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường cho nông, lâm sản Việt Nam do
được hưởng quy chế MFN của 149 nước thành viên WTO. Điều này rất
phù hợp với chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn đến năm
2010 là phát triển một nền nông nghiệp hướng mạnh ra xuất khẩu. WTO
13
- còn là diễn đàn để các nước đấu tranh chống lại những đối xử bất công
trong thương mại.
Trong quá trình đổi mới và hội nhập, các doanh nghiệp trong ngành
nông nghiệp đã đúc rút, tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm để phát
triển. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư theo chiều sâu và đa dạng hoá sản
phẩm để tăng khả năng xâm nhập thị trường, đây là cơ sở tốt để các
doanh nghiệp vươn lên khi cơ hội thị trường rộng mở.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp nói chung, các doanh nghiệp nông
nghiệp nói riêng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức từ nội
tại cũng như từ quá trình tự do thương mại đem đến. Những khó khăn
mang tính nội tại này xuất phát từ nền nông nghiệp nước ta có trình độ
phát triển thấp, quy mô sản xuất nhỏ bé, manh mún, năng suất lao động
rất thấp, chất lượng nhiều loại nông sản không cao, nhiều doanh nghiệp
chế biến luôn trong tình trạng thiếu hoặc không đảm bảo nguyên liệu dẫn
đến giá thành cao, chất lượng thấp.
Đa số doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp đều là doanh nghiệp
vừa và nhỏ, có tới 60% số doanh nghiệp nông lâm nghiệp có vốn dưới 10
tỷ đồng. Vì thế, hiệu quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nông
nghiệp thấp hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác.
Những yếu tố để đánh giá năng lực hội nhập kinh tế quốc tế như
tỷ lệ cán bộ biết ngoại ngữ, vi tính, tham gia đào tạo, xây dựng mạng
lưới khách hàng, thương hiệu... trong các doanh nghiệp nông nghiệp nhìn
chung còn thấp, nhất là doanh nghiệp địa phương và doanh nghiệp tư
nhân.
Bên cạnh đó, thách thức mang đến cho từng ngành có sự khác nhau
khi tham gia tự do hoá thương mại khu vực hoặc WTO, trong đó, các
doanh nghiệp thuộc ngành mía đường, rau quả, chăn nuôi sẽ phải chịu
nhiều áp lực lớn từ việc mở cửa thị trường nội địa.
Ngoài các cam kết về mở cửa thị trường, Việt Nam còn cam kết mở
rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, quyền phân phối cho các doanh
nghiệp nước ngoài. Vì thế, các công ty đa quốc gia vốn rất mạnh về tài
chính, hệ thống phân phối, thông tin, trình độ quản lý... khi vào kinh doanh
tại Việt Nam sẽ là những thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp nội địa,
đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng đổi mới, vươn lên để tồn tại
và hoạt động có hiệu quả.
14
- Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
Để có môi trường cạnh tranh lành mạnh và đáp ứng những quy định
của WTO thì tự thân thị trường và các doanh nghiệp không thể tạo ra, mà
phải có vai trò can thiệp của Nhà nước khi trên thị trường xuất hiện các
hành vi kinh doanh sai luật và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trong điều kiện ở nông thôn của một nền kinh tế như Việt Nam
hiện nay, các doanh nghiệp còn yếu và hạn chế về các hoạt động thị
trường (vốn, đất đai, lao động), chưa hiểu được các nguyên tắc cơ bản
của cạnh tranh trong kinh tế thị trường, giữa những doanh nghiệp Nhà
nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có sự cách
biệt rất xa và sự khác biệt giữa các doanh nghiệp còn tăng lên theo
khoảng cách gần, xa với các thành phố, trung tâm công nghiệp, dịch vụ.
Vì vậy, sự tác động của Nhà nước vào từng khu vực sẽ không
giống nhau và phải theo các đặc thù của từng nhóm doanh nghiệp. Trong
thời gian tới, Nhà nước sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến độ cải cách các doanh
nghiệp Nhà nước trong nông nghiệp, nông thôn theo đúng các quy luật của
kinh tế thị trường.
Theo đó, các doanh nghiệp Nhà nước trong nông, lâm, thuỷ sản
được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của thị trường trên
các nguồn lực mà Nhà nước giao và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước pháp luật. Các chính sách hỗ trợ
đối với sản xuất nông, lâm, thuỷ sản sẽ được triển khai chung theo vùng
hoặc theo ngành sản phẩm dựa trên quy hoạch do Nhà nước xác định,
đồng thời, xoá bỏ những ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước trong
việc tiếp nhận các khoản hỗ trợ của Nhà nước như hiện nay.
Đối với khu vực hợp tác xã và các tổ chức kinh tế hợp tác nhỏ ở
nông thôn, Nhà nước cần triển khai đồng bộ những quy định về các chính
sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển hợp tác xã, Luật hợp tác xã để giúp
khu vực này có đủ năng lực tham gia cạnh tranh trên thương trường, nâng
cao năng lực hợp tác trong các hoạt động dịch vụ và sản xuất, kinh doanh.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, cần phải tiếp tục triển khai những
công việc như: tổ chức nối mạng hệ thống thông tin đăng ký kinh doanh
doanh nghiệp trong cả nước và bãi bỏ quy định doanh nghiệp chỉ được
đăng ký thành lập ở cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh; từng tỉnh hoặc
một số tỉnh trong vùng cần phối hợp tổ chức định kỳ hàng năm hội nghị
15
- gặp mặt các chủ doanh nghiệp thuộc mọi loại hình ở nông thôn để trao
đổi kinh nghiệm và đối thoại với các cơ quan quản lý Nhà nước có liên
quan...
Bên cạnh đó, cần tiếp tục xây dựng và duy trì các điều kiện cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch giữa các loại hình doanh nghiệp trên mỗi vùng
sản xuất ở nông thôn bằng cách quy hoạch các vùng sản xuất nông
nghiệp, vùng chuyển đổi sang công nghiệp, dịch vụ cụ thể và mang tính
dài hạn, tạo cơ sở pháp lý ổn định để các loại hình doanh nghiệp yên tâm
đầu tư phát triển kinh doanh lâu dài.
Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất, chất
lượng, vệ sinh - an toàn thực phẩm đối với từng loại sản phẩm của nông,
lâm, thuỷ sản, công nghiệp chế biến, sản phẩm làng nghề... và những hạn
chế trong sử dụng nguồn lực, tài nguyên trên mỗi vùng sản xuất ở nông
thôn cần sớm ban hành cho mọi loại hình doanh nghiệp, không phân biệt
thành phần, quy mô, tạo cơ sở để các loại hình doanh nghiệp và tư nhân
xem xét, quyết định đầu tư tham gia kinh doanh và cạnh tranh trên những
điều kiện và tiêu chuẩn do Nhà nước ban hành.
Định hướng cho nền thương mại nông nghiệp
Chính sách phù hợp của Chính phủ Việt Nam là điều kiện tiên
quyết dẫn đến sự thành công của ngành thương mại nông nghiệp Việt
Nam trên thị trường thế giới. Biện pháp đơn phương xoá bỏ mọi thuế
quan đối với mặt hàng bông và gỗ của Chính phủ giúp cho ngành công
nghiệp xuất khẩu may mặc và đồ gỗ của Việt Nam trở thành ngành hàng
mũi nhọn cạnh tranh trên thị trường thế giới. Xoá bỏ thuế quan đối với
mặt hàng khô dầu đậu tương là một bước tiến không chỉ đối với ngành
xuất khẩu thuỷ sản mà còn đối với sự phát triển mạnh mẽ của ngành
chăn nuôi trong nước.
Thứ hai, việc cho phép các xí nghiệp liên doanh và các công ty 100%
vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam cũng là một bước tiến
đối với ngành thương mại nông nghiệp ở Việt Nam. Sự tham gia của các
công ty nước ngoài rất quan trọng trong việc phát triển ngành chăn nuôi,
nuôi trồng thuỷ sản, may mặc và sản xuất đồ gỗ. Gần đây, Chính phủ
Việt Nam cũng đã cho phép các công ty nước ngoài tham gia hoạt động
trong lĩnh vực cà phê, đây là một bước đi dự báo tốt đẹp cho sự phát triển
tiếp theo của ngành này.
16
- Thứ ba, cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa
ngành nông nghiệp với các mức thuế thấp hơn và cho phép nhiều công ty
nước ngoài tham gia hơn, các bước đi này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho
nền thương mại nông nghiệp Việt Nam.
Một điều quan trọng đối với Việt Nam là cần đưa hệ thống y tế
ngang tầm với tiêu chuẩn quốc tế sao cho ngành thương mại nông nghiệp
Việt Nam có thể xuất khẩu các sản phẩm cho toàn thế giới và Việt Nam
cũng có thể tiếp cận một cách công bằng và cởi mở với các mặt hàng
nông sản nhập khẩu.
Đồng thời, tất cả các bạn hàng thương mại của Việt Nam trong
WTO, kể cả Hoa Kỳ cần phải bảo đảm rằng những yêu cầu về vệ sinh -
an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm của Việt Nam phải dựa trên cơ
sở khoa học vững chắc và đơn giản hoá tối đa để có thể thực hiện được.
Ở một lĩnh vực khác, vấn đề có tính cấp bách đối với sự phát triển
của ngành thương mại nông nghiệp là Việt Nam cần tăng cường việc bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ. Mặc dù hiện nay có thể có một số các công ty
đang thu lợi trước mắt từ việc bỏ qua vấn đề bản quyền, đơn giản là do
sự yếu kém của hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, dẫn đến việc các
doanh nghiệp kinh doanh nông sản của Việt Nam không được tiếp cận
với các nguồn gen động thực vật hay máy móc công nghệ chế biến tiên
tiến nhất.
Một ví dụ điển hình là trong lĩnh vực trồng hoa. Các nhà sản xuất
nước ngoài không muốn chịu rủi ro đánh mất lợi thế của mình khi chào
bán các loại gen hay công nghệ hàng đầu, và kết quả là họ chỉ chào bán
các sản phẩm loại 2 hay loại 3 cho các nhà nhập khẩu Việt Nam. Không
bảo đảm được quyền sở hữu trí tuệ cũng có nghĩa là các doanh nghiệp
nông sản Việt Nam không thể đưa chính mình vào vị thế đón đầu công
nghệ mới.
WTO tác động tích cực đến doanh nghiệp nông nghiệp
Gia nhập WTO mang lại cho các doanh nghiệp nông nghiệp rất
nhiều cơ hội tương đối cơ bản để có thể thay đổi vị thế của họ trên
thương trường cũng như sự phát triển trong tương lai.
Điều đầu tiên, cơ hội lớn nhất chính là sự quan tâm, môi trường
pháp lý và chính sách đối với nông nghiệp sẽ tốt hơn, minh bạch và ổn
17
- định hơn do vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển của Việt Nam, vừa phù
hợp với các cam kết của WTO.
Thứ hai, Nhà nước sẽ điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển
nông nghiệp theo hướng thị trường hơn, bền vững hơn. Đây là điều quan
trọng để giúp cho các doanh nghiệp phát triển bởi nhiều chiến lược, quy
hoạch trong lĩnh vực nông nghiệp cho đến nay vẫn chưa thực sự theo
hướng thị trường hoặc tôn trọng các quy luật của thị trường. Trong thời
gian tới, khi thị trường phát triển tốt hơn thì doanh nghiệp cũng có cơ hội
phát triển.
Thứ ba, các biện pháp, công cụ hỗ trợ mới của Nhà nước đối với
nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ công bằng và phù hợp hơn theo
cam kết của WTO.
Thứ tư, các ngành dịch vụ, công nghệ, công nghiệp hỗ trợ nông
nghiệp sẽ phát triển, cơ sở hạ tầng ở nông thôn sẽ được cải thiện. Vì
hiện nay có 2 vấn đề lớn cần phải được cải thiện, đó là dịch vụ tín dụng
để cho thương mại nông sản có thể phát triển và dịch vụ hạ tầng cơ sở.
Triển vọng tiếp cận thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp
nông nghiệp cũng tốt hơn do vị thế mới của Việt Nam trong WTO và Việt
Nam sẽ được tham gia vòng đàm phán Doha để bảo vệ quyền lợi về nông
nghiệp ở đó. Thị trường nội địa của Việt Nam cũng sẽ phát triển, hệ
thống phân phối mở rộng, thuận lợi hơn cho tiêu thụ nông sản.
Đến nay, thị trường nội địa vẫn còn đóng góp khoảng 70% cho tiêu
thụ nông sản của Việt Nam nói chung, cho nên thị trường nội địa vẫn còn
tiềm năng rất lớn để các doanh nghiệp nông nghiệp có thể khai thác.
Đồng thời, triển vọng mở rộng thị trường nông thôn cho các sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nông nghiệp sẽ tốt hơn, cũng như khả
năng tiếp cận các nguồn lực cần thiết sẽ thuận lợi hơn. Đặc biệt, chi phí
đầu vào có thể giảm do cạnh tranh bởi nguồn cung trong nước và nhập
khẩu đều tăng và do Nhà nước tiến hành xã hội hoá một số dịch vụ.
Trong thời gian tới, Nhà nước sẽ cải cách doanh nghiệp Nhà nước,
các nông lâm trường quốc doanh để tạo bình đẳng cho các doanh nghiệp
nông nghiệp, giải phóng một số nguồn lực như đất đai, quyền kinh doanh
trong một số lĩnh vực nông sản; cơ cấu lại lực lượng lao động trong nông
nghiệp với tiêu chí giảm xuống còn 50%.
18
- Khả năng liên kết 4 nhà, liên kết các ngành, vùng sẽ thực chất hơn
và mang tính bền vững hơn. Triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài, hợp
tác quốc tế trong nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng sẽ tốt hơn môi
trường kinh doanh, môi trường đầu tư sẽ được cải thiện, tạo niềm tin cho
các nhà đầu tư nước ngoài.
5. Liên hệ với sinh viên
Thế giới cạnh tranh không khoan nhượng với sự đòi hỏi ngày càng
cao của thị trường nhân lực. Việt Nam gia nhập WTO là một cơ hội và
cũng là thách thức với tất cả chúng ta. Vậy để góp phần nâng cao vị thế
của đất nước trên trường quốc tế, thế hệ sinh viên Việt Nam cần phải
chuẩn bị những gì?
Sinh viên Việt Nam được đánh giá là cần cù, ham học hỏi…tuy
nhiên từng đó là chưa đủ với một người sinh viên có đẳng cấp quốc tế.
Chúng ta phải học tập và rèn luyện nhiều hơn nữa để vươn lên một tầm
cao mới.
Việc cần làm đầu tiên là xác định rõ mình đang học tập để làm gì
cho đất nước, mình đã làm được gì cho đất nước? Để trả lời cho câu hỏi
đó, đòi hỏi sinh viên phải tìm hiểu kĩ về tình hình kinh tế, văn hóa, chính
trị trong nước. Không những thế còn phải tìm hiểu về các nước trên thế
giới, học hỏi ở họ mức độ cần thiết, đúc rút kinh nghiệm và những bài
học quý báu.
Thực tế hiện nay nhiều sinh viên ra trường rất khó kiếm được việc
làm như mình mong muốn, hoặc nếu có cũng khó phát huy được khả năng
của bản thân. Sở dĩ như vậy vì khi học tập trong trường đại học, họ chỉ
chú trọng đến lý thuyết mà không để ý đến thực hành, để ý đến một số
kỹ năng cần thiết như kỹ năng giao tiếp, làm việc theo nhóm…Sinh viên
thường gặp khó khăn, lúng túng trong việc cân đối giữa việc học với
những hoạt động khác, thường bỏ phí thời gian mà không đem lại mấy
hiệu quả.
Để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập, cần thiết nâng cao trình độ
ngoại ngữ - phương tiện giao tiếp với các đối tác nước ngoài, trình độ sử
dụng vi tính và đặc biệt là trang bị cho mình kiến thức luật thương mại
quốc tế.
19
- Ngay từ bây giờ, ngoài việc chăm chỉ lên lớp, tham gia các kì thi bạn
hãy chủ động nâng cao các kỹ năng cá nhân của mình bằng hoạt động
thiết thực như giao lưu ngoại khóa, tình nguyện, trại hè ngôn ngữ, hay
học thêm các văn bằng cần thiết.
Đặc biệt đối với sinh viên nông nghiệp, ngành đang gặp rất nhiều
thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO thì vai trò các cử nhân kinh tế
nông nghiệp, kỹ sư nông nghiệp lại càng quan trọng. Nếu các bạn làm tốt
nhiệm vụ của mình sẽ giúp ích rất nhiều cho đất nước nói chung, cho
người nông dân nói riêng.
Sinh viên Việt Nam “ hòa nhập nhưng không hòa tan’’.
III. KẾT LUẬN
Việc nước ta gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này là
một tất yếu để phát triển. WTO không làm cho nước ta giàu lên hay nghèo
đi mà WTO mang đến cho chúng ta nhưng cơ hội lớn trong mọi lĩnh vực
của đời sống, kinh tế, xã hội và kèm theo đó là nhưng thách thức cũng rất
lớn. WTO cho chúng ta cơ hội được xuất khẩu hàng hoá sang nhiều nước
trong tổ chức với mức thuế suất ưu đãi nhưng chúng ta cũng phải cho họ
nhập hàng hoá về, thách thức đối với các nhà sản xuất trong nước là rất
lớn. Nếu chúng ta vượt qua được nhưng thách thức này và tận dụng được
nhưng cơ hội mà WTO mang lại thì chúng ta thành công.
Sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này,
những thành quả về kinh tế đạt được chưa nhiều do cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu diễn ra năm ngoái và kết quả còn kéo dài đến năm nay
nhưng theo nhận định của Phó thủ tướng Vũ Khoan thì nếu không gia
nhập tổ chức này thì kết quả còn kém hơn nhiều. Sau 3 năm gia nhập
20
nguon tai.lieu . vn