Xem mẫu

  1. TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG TÍN NGƯỠNG CẦU NƯỚC, CẦU MƯA Ở CHÂU THỔ SÔNG HỒNG VŨ DIỆU TRUNG* Tóm tắt Nhiều học giả cho rằng, hằng số văn hóa của người Việt chính là nông nghiệp lúa nước, người nông dân và yếu tố xóm làng. Để thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, con người đã sáng tạo ra lối sống, chuẩn mực và văn hóa ứng xử nhất định. Mỗi vùng, tiểu vùng văn hóa với những hằng số văn hóa riêng lại có những dấu ấn văn hóa đặc trưng. Qua những tư liệu khảo sát, nghiên cứu về đặc trưng văn hóa, tín ngưỡng của các tiểu vùng ở châu thổ sông Hồng1, bài viết phác họa một phần diện mạo tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa, qua đó cho thấy tính “lưỡng thế” trong văn hóa ứng xử của người Việt. Từ khóa: Châu thổ sông Hồng, tín ngưỡng, cầu nước, cầu mưa Abstract Many scholars believe that the cultural constant of Vietnamese people is wet rice plants agriculture, farmers and villages. In order to adapt to the natural and social environment, people have created standard lifestyle and certain behavioral culture. Each culture and sub-culture has its own characteristics that create a unique cultural imprint. With the survey and research materials on the cultural and religious characteristics of the sub-regions in the Red River Delta, the article outlines a part of the beliefs of praying for water and rain, thus showing the “duality” in the behavioral culture of Vietnamese people. Keywords: Red River Delta, beliefs, prayer for water and rain Dẫn luận nhất là đối với cư dân nông nghiệp. Nói như vậy C không có nghĩa là cư dân du mục sống trên hâu thổ sông Hồng Việt Nam là thảo nguyên không cần đến nước, họ cũng một đại diện của nền văn hóa nông nghiệp Đông Nam Á. Môi trường cần nước cho gia súc, cần mưa cho đồng cỏ tốt tươi, nhưng, cư dân nông nghiệp lúa nước cần khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, mưa nhiều, nhiều nước hơn cả, bởi cuộc sống của họ gắn sông ngòi dày đặc, thảm thực vật đa dạng liền với nước. Chính vì thế, đời sống tâm linh đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra đời cây của người Việt vô cùng phong phú với nhiều lúa nước. Nhiều học giả cho rằng, “hằng số loại hình tín ngưỡng, đặc biệt là tín ngưỡng văn hóa” của người Việt chính là cây lúa nước, liên quan đến nguồn nước. người nông dân và yếu tố xóm làng. Điều này 1. Châu thổ sông Hồng - cái nhìn địa văn hóa chứng tỏ nước là khởi nguồn của sự sống, là Châu thổ sông Hồng được hình thành bởi yếu tố quan trọng đối với đời sống con người và ba hệ thống sông chính là sông Hồng, sông Đà và sông Thái Bình. Sông Hồng (hay còn gọi là * TS., Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam sông Cái, sông Mẹ) là nơi tụ cư đầu tiên của Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 37
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU người Việt cổ trên đường di cư từ vùng Bạch xử này được các nhà nghiên cứu gọi là ứng xử Hạc (Phú Thọ) xuống vùng trung và hạ lưu lưỡng thế của người Việt. Điều này cũng được châu thổ. Bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), dân gian đúc kết qua câu ca: “Chưa nắng đã sông Hồng chảy vào Việt Nam qua địa phận khô, chưa mưa đã lụt”. tỉnh Lào Cai, Yên Bái hợp lưu với sông Đà ở Việt 2. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa vùng Trì tạo thành ngã ba sông, phân chia ranh giới thượng châu thổ sông Hồng giữa các tỉnh Hà Tây (cũ), Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Một trong những truyền thuyết được cư khi xuôi về hạ châu thổ chảy vào địa giới các dân vùng thượng châu thổ sông Hồng tạo ra tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định đã phản ánh rõ nét tín ngưỡng cầu nước, cầu rồi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt. Sông Hồng mưa và lý giải cho việc đắp đê trị thủy là truyền còn là khởi nguồn của sông Đuống và sông thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Đền Và ở thôn Luộc, hai con sông đã góp phần không nhỏ Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Nội cho sự hình thành hệ thống sông Thái Bình - là một trong những nơi thờ Đức Thánh Tản nơi nuôi dưỡng, bồi đắp phù sa của châu thổ. Viên, còn có tên gọi là Đông Cung. Hàng năm, Châu thổ sông Hồng còn có nhiều hồ, vực, lễ hội đền Và được tổ chức hai lần: Hội xuân ao, đầm lớn nhỏ mà theo các nhà nghiên cứu từ ngày mùng 1 đến hết ngày 16 tháng Giêng thì đây chính là các ao trợ thời, nơi dự trữ và thu và hội thu từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Chín nhận nguồn nước mỗi khi lũ từ thượng nguồn âm lịch. Vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, cư dân đổ về. Không chỉ giữ nước, ao, đầm, hồ còn lưu của 8 làng là Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phú, Mai giữ truyền thuyết về các vị anh hùng dân tộc, Trai, Đạm Trai, Phù Sa, Phú Nhi, Di Bình cùng những tín ngưỡng dân gian mang tính cổ xưa nhau tổ chức cuộc rước lớn. Rước thánh dọc của người Việt. Ví như, hồ Tây gắn với truyền sông Hồng vừa để tưởng nhớ công lao của thuyết Trâu Vàng, hay Thái sư Lê Văn Thịnh hóa đức thánh, vừa để nhắc nhở người đời sau nhớ hổ và một Huyền Thiên Trấn Vũ uy nghi trấn về những truyền thuyết, tuy mang tính chất yểm phía bắc kinh thành Thăng Long; hồ Thủ hoang đường nhưng ẩn sâu bên trong chính là Lệ gắn với truyền thuyết về vị hoàng tử Linh khát vọng của cư dân nông nghiệp. Lang thời Lý; hay hệ thống vực nước tại xã Vân Côn, huyện Hoài Đức gắn với truyền thuyết về Truyền thuyết kể rằng: Khi Tản Viên dựng Ả Lã Nàng Đê... hành cung ở đền Và, một hôm, trên đường vi hành qua thôn Di Bình ngài muốn tắm, vừa hay Một đặc điểm nữa của châu thổ sông Hồng, lúc đó có một cô gái cắt cỏ đi qua, Ngài nhờ cô đó là sự xâm nhập của yếu tố biển ở vùng hạ xuống sông gánh nước. Cô gái bảo rằng “Đây châu thổ, nơi các con sông đổ ra biển. Dân gian gọi vùng đất này là xứ Đông và xứ Nam. là quang sọt chứ có phải thùng đựng nước”. Chính những yếu tố đặc biệt này đã tạo nên Ngài bảo cô cứ xuống sẽ gánh được. Cô gái một lối sống riêng, một tính cách riêng và một xuống sông Hồng, lấy nón vục nước đổ vào sọt hệ thống tín ngưỡng đặc trưng. Để thích ứng thì quả nhiên sọt đựng được nước. Thấy lạ, cô với môi trường tự nhiên và ứng xử với môi bèn về báo dân làng, mọi người cho rằng đó là trường, con người đã tạo ra lối sống và những thánh hiện trần gian nên giết lợn tế thần. Khi chuẩn mực xã hội nhất định. Vì vậy, môi trường dân làng tới nơi thì ngài đã đi rồi, chỉ còn thấy tự nhiên luôn là yếu tố quyết định trong mọi bóng uy nghi trên đỉnh núi Tản. Từ đó, thôn hành vi ứng xử của con người. Người Việt ở Di Bình lập đền Ngự Dội để thờ vọng và hàng châu thổ sông Hồng luôn phải cầu “mưa thuận, năm, cứ vào sáng sớm ngày rằm tháng Giêng, gió hòa” cho đồng ruộng tốt tươi, nhưng trong họ lại tổ chức rước thánh từ đền Và qua sông đời sống thực tế, họ đã đem sức lực của mình Hồng sang đền Ngự Dội để tế thánh. để bắt thiên phải thuận nhân. Người ta đắp đê Lại có truyền thuyết khác kể rằng: Khi Thánh khơi dòng khi lũ lụt và người ta lại “vắt đất ra Tản dừng chân ở đền Và, có một đám mây từ nước” thay trời làm mưa khi hạn hán. Thế ứng núi Tản Viên kéo xuống che nơi ngài đứng. Khi 38 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  3. TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG ngài muốn tắm, thì xuất hiện đám mây đen và mưa thì ông vung kiếm chặt đầu con rồng đi liền sau đó là trời mưa. Tắm xong, ngài bỗng phương Bắc, bởi dân gian cho rằng: “Cơn đằng thấy một cô thôn nữ đi nhổ cỏ ở bến sông, cô bắc chưa chắc đã mưa”. gái than: “Cứ mưa thế này biết bao giờ tôi mới Ngoài nghi thức cầu mưa, cứ 5 năm, chùa nhổ cỏ cho xong”. Nghe thấy vậy, ngài bèn Bối lại tổ chức hội chính một lần, diễn ra từ truyền dạy cách làm liềm, làm quang sọt và ngày mùng 10 đến ngày 13 tháng Giêng. Đây làm đòn để gánh cỏ. Từ đó, dân chúng hai bờ là lúc mọi người làm lễ tạ ơn hay cầu mong sông Hồng biết dùng liềm cắt cỏ và làm quang thần linh ban cho mùa màng tươi tốt, cuộc sọt… Nhớ ơn ấy, nhân dân lập đền thờ để lưu sống ấm no hạnh phúc. Nghi thức đầu tiên sự tích. Bên cạnh lễ hội xuân, hội đền Và còn được thực hiện vào sáng sớm ngày 11. Các cụ diễn ra vào rằm tháng Chín (mùa thu) gắn với trong ban khánh tiết làm lễ rước nước từ thôn việc dân các làng ra đoạn sông Tích đánh bắt Bùi Xá về chùa để làm lễ “Mộc dục”. Tục rước cá tế thần. Lễ hội này còn gọi là hội đả ngư. nước này gắn liền với câu chuyện Đức Thánh Có nhiều cách lý giải khác nhau đối với Bối khi còn nhỏ đi chăn trâu, cắt cỏ về thường truyền thuyết và các nghi thức trong lễ hội tắm ở giếng làng Bùi Xá. (như rước thánh, tế thần, đánh cá, làm quang Chùa Bối và truyền thuyết liên quan đến sọt), nhưng về cơ bản, lễ hội đền Và gắn liền Đức Thánh Bối là câu chuyện mang dáng dấp với yếu tố nước… đó chính là khát vọng cầu chung của những truyền thuyết vùng châu nước, cầu mưa, cũng như việc đắp đê trị thủy. thổ Bắc Bộ như truyền thuyết về Phù Đổng Nằm trong bối cảnh chung của châu thổ Thiên Vương, Thạch Sanh… Tuy nhiên, các chi Bắc Bộ, lễ hội chùa Bối Khê là một minh chứng tiết khác như: Đức Thánh chăn trâu về tắm tại điển hình cho tín ngưỡng cầu mưa. Chùa Bối giếng làng Bùi Xá, người đã soạn ra kinh đảo Khê, tên chữ là Đại Bi tự, xưa thuộc hai làng Bối vũ cầu mưa cho dân chúng trong vùng,... đã Khê và Phúc Khê (hay còn gọi là Hồng Khê), tạo nên vùng văn hoá - tín ngưỡng riêng. huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam Thượng, nay Trước đây, sau khi rước lễ vào chùa cúng là thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Phật, các thôn thuộc tổng Bối còn có tục thi Oai, Hà Nội. Ngoài thờ Phật, chùa còn là nơi thờ đốt pháo. Tiếng pháo nổ rền vang giống như Đức Thánh Bình An hay còn gọi là “Đức Thánh tiếng sấm làm cho âm - dương giao hòa, vạn Bối”. Không giống với một số ngôi chùa ở châu vật sinh sôi, phát triển, báo hiệu một năm mới thổ Bắc Bộ, người chăm lo việc đèn hương mưa thuận gió hòa. được gọi là ông từ, bà tự, ở chùa Bối Khê gọi là ông Thống. Ông cũng là người giữ vai trò quan 3. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa vùng trọng trong nghi lễ cầu mưa. trung châu thổ sông Hồng Khi trời nắng mãi không mưa, mọi sự cầu 3.1. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa khu cúng đều không linh nghiệm. Lúc này, người vực Thăng Long - Hà Nội già trong làng cùng ông Thống làm lễ rước Thăng Long - Hà Nội, nằm ở giữa vùng tượng thánh ra phơi nắng. Hành động này châu thổ, là nơi hội tụ, kết tinh và lan toả văn có vẻ như thiếu tôn trọng thánh thần, nhưng hóa. Các tên gọi về địa danh như Thanh Trì, các người dân nơi đây lý giải rằng: Đức Thánh ngồi truyền thuyết về thần Long Đỗ, thái tử Linh trong khám kín ở hậu cung không biết trời Lang, Hoàng Phúc Chung,... đã phản ánh rõ nắng hạn, nên khi phơi nắng ngài sẽ cộng cảm nét về tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa ở khu với nỗi khổ của người nông dân mà cho mưa vực này. Truyền thuyết kể rằng, một cung nữ xuống. Nếu phơi tượng thánh mà vẫn không ở triều Lý, khi ra hồ Thủ Lệ tắm, bị rắn quấn rồi mưa thì ông Thống và dân làng bện 5 con rồng mang thai. Một thời gian sau, bà sinh hạ được rơm tượng trưng cho 5 phương, miệng ngậm một cậu bé tư chất thông minh hơn người. ống đu đủ cắm vào siêu nước. Ông Thống bắt Khi lớn lên, chàng trai này theo Lý Thường quyết, đọc thần chú và la hét, nếu trời không Kiệt đánh giặc Tống, lập nhiều chiến công, khi Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 39
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU ngài mất thì hoá thành giao long bò xuống hồ Có nghĩa là vào khoảng tháng Tư âm lịch, Thủ Lệ, đó là Linh Lang đại vương. Hàng năm, người nông dân chờ nghe tiếng sấm để cho cứ đến ngày 11 tháng Hai âm lịch, dân trong cây lúa tốt tươi, sai bông trĩu hạt. Điều này phù vùng lại tổ chức lễ hội để tôn vinh công lao của hợp với lễ hội cầu mưa diễn ra vào tháng Tư đức thánh. Lễ hội này còn là sự quy tụ của cư ở vùng đất cổ Luy Lâu. Người Việt làm nông dân vùng “Thập tam trại” thuộc ngoại vi kinh nghiệp lúa nước nên yếu tố mùa vụ phụ thuộc đô Thăng Long xưa như: Ngọc Hà, Đại Yên, chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Vì vậy, họ cũng Cống Vị, Liễu Giai, Giảng Võ, Hữu Tiệp, Ngọc có những tín ngưỡng chung mang tính phổ Khánh, Thủ Lệ, Vạn Phúc, Kim Mã, Vĩnh Phúc, quát của cư dân nông nghiệp là tín ngưỡng Xuân Biểu, Cống Yên. Hơn nữa, tất cả các làng đa thần, vạn vật hữu linh. Những hiện tượng trên đều thờ chung một vị thành hoàng đó là như mây, mưa, sấm chớp được thần thánh hóa Hoàng Phúc Chung, dân gian quen gọi là ông và gắn liền với nó là tục thờ mặt trời, thờ đá, Hoàng Lệ Mật. Vị thần này có công chém giao thờ nước,… mà hệ thống thờ “Tứ Pháp” ở vùng long ở sông Thiên Đức (tức sông Đuống ngày Kinh Bắc mang tính đặc trưng. Theo các nhà nay). Từ huyền tích đến lễ hội đã cho thấy tín nghiên cứu, “sự ra đời của loại hình tín ngưỡng ngưỡng cầu nước, cầu mưa tuy cùng chung này gắn với câu chuyện về sự thai sinh gián nguồn gốc nhưng mỗi lễ hội, mỗi lệ tục của tiếp của Phật Mẫu Man Nương với sư Khâu Đà mỗi làng lại được diễn đạt theo một cách khác La - một nhà sư Ấn Độ” [2]. Đây được coi là biểu nhau. Chính sự khác nhau đó đã tạo nên một tượng cho quá trình hỗn dung văn hóa, giữa lưỡng hợp vừa cầu mưa đối với Đức Thánh tín ngưỡng bản địa với tôn giáo ngoại lai, mà ở Linh Lang và vừa chống lụt đối với vị Thành đây là Phật giáo. Các hiện tượng tự nhiên như hoàng làng của khu vực “Thập tam trại”. Lễ mây, mưa, sấm, chớp tương ứng với Pháp Vân, hội được tổ chức nhằm mục đích cố kết cộng Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện là bốn người đồng bền chặt, tạo một niềm tin tín ngưỡng, con của Phật Mẫu Man Nương được thờ tại một sức sống mới cho cư dân sau những ngày các chùa: Thiền Định, Thành Đạo, Phi Tương, lao động vất vả mệt nhọc. Trong thời gian này, Phương Quan. con người gửi gắm những mong muốn của Tục thờ Tứ Pháp không chỉ có ở vùng Dâu mình đối với thần linh. mà nó lan toả ra cả một vùng rộng lớn như Hà 3.2. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa vùng Tây, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương… Kinh Bắc “Dù ai buôn đâu bán đâu, Lễ hội dân gian ở châu thổ Bắc Bộ thường Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về. diễn ra vào hai mùa Xuân - Thu. Theo các nhà Dù ai buôn bán trăm nghề, nghiên cứu, đây là lúc nông nhàn và là khoảng Nhớ ngày mùng 8 thì về hội Dâu” thời gian thích hợp nhất để diễn ra các nghi Ngày chính hội chùa Dâu là ngày mùng 8 lễ mang tính cộng đồng. Mùa xuân còn là tháng Tư âm lịch hàng năm, nhưng từ ngày thời gian chuyển giao thời tiết từ lạnh sang mùng 7 nhân dân đã về chùa Dâu làm lễ “Hạ nóng, từ âm sang dương, là thời điểm giao tòa phong áo Phật” - lễ này còn được gọi là hoà giữa trời và đất, là mùa sinh sôi, phát triển lễ “Mộc dục”. Sáng ngày mùng 8 diễn ra đám của muôn loài… Theo nông lịch của người rước của các làng thờ Pháp Vũ, Pháp Lôi, Việt ở châu thổ sông Hồng, một năm có hai Pháp Điện từ các chùa Thành Đạo, Phi Tương vụ: vụ chiêm và vụ mùa. Vụ chiêm bắt đầu từ và Phương Quan về công đồng tại chùa Dâu tháng Giêng đến tháng Năm, còn vụ mùa vào - nơi thờ Pháp Vân và Phật Mẫu Man Nương. khoảng tháng Sáu đến tháng Mười âm lịch. Vì Khi đám rước về đến chùa Dâu thì diễn ra trò vậy mà dân gian có câu: “Mẹ đuổi con” và trò cướp nước. Đây là nghi lễ “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, cầu đảo mang tính đặc trưng của vùng đất cổ Hễ nghe sấm động phất cờ mà lên”. Luy Lâu. Trong nghi lễ này, kiệu Pháp Vũ - thần 40 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  5. TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG mưa bao giờ cũng đi trước. Cho đến thời điểm Thánh Tam Giang là tên gọi khác của hai hiện nay, tuy nghi lễ cầu đảo này đã bị mai một vị thần Trương Hống và Trương Hát, mà ở đây, nhưng cư dân vùng Dâu vẫn quan niệm, nếu các tên Hống, Hát theo tiếng Việt cổ cũng có tổ chức đám rước càng lớn, càng trang trọng nghĩa là “sông”. Tương truyền rằng: Ở vùng Vân bao nhiêu, thì các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp Mẫu, có người đàn bà không chồng, một hôm sẽ phù hộ cho họ mưa thuận gió hòa, mùa ra tắm sông, bà trông thấy một con rồng cuộn màng bội thu. khúc, bỗng trong mình cảm động mà thụ thai. Thực chất hội Dâu là lễ hội của 12 làng: Một thời gian sau, bà sinh được một cái bọc có Khương Tự, Đại Tự, Thanh Tương, Thanh Hoài, năm trứng, nở thành năm người con, bốn trai, Đông Cốc, Trà Lâm, Tư Thế, Văn Quang, Phương một gái, bà đặt tên là Trương Hống, Trương Quang, Công Hà và Mãn Xá, thuộc tổng Dâu Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và người con gái và hiện nay nằm trên địa phận của 3 xã Thanh tên là Đạm Nương. Khi quân Lương xâm lược Khương, Trí Quả, Hà Mãn huyện Thuận Thành, nước ta, anh em họ Trương theo Triệu Quang Phục đánh giặc. Khi Lý Nam Đế mất, Lý Phật Tử tỉnh Bắc Ninh. Lễ hội Tứ Pháp về cơ bản là lễ chiếm ngôi và giả hòa hoãn với Triệu Quang hội nhằm giao hiếu, kết chạ giữa các làng xã Phục, bốn ông can ngăn không được bèn treo cùng chung mục đích cầu nguồn nước, chống ấn từ quan. Triệu Quang Phục mất, Lý Phật Tử lại thiên tai, địch họa,… của người nông dân triệu các ông ra làm quan nhưng các ông đã từ châu thổ Bắc bộ xưa” [3, tr.16]. chối. Bị bức bách nên họ đã đóng thuyền xuôi Ai cũng hiểu rằng, sau sự xuất hiện của dòng sông Cầu, đến ngã ba Xà đục thuyền cho những đám mây vần vũ, những tiếng sấm rền nước tràn vào và đã hóa ở đó. Huyền tích là vang, những tia chớp sẽ là những cơn mưa như vậy, thần linh sông Cầu sinh ra từ nước và mang lại nguồn nước, nhưng nước cũng là hóa cũng trong nước. Từ hình ảnh thủy thần hiểm họa đối với cuộc sống của con người… cho đến hình ảnh đánh giặc cứu nước, Đức Vì thế, chính bản thân người Việt trong tín Thánh Tam Giang đã trở thành tín ngưỡng ngưỡng cầu nước cũng thể hiện ước vọng không thể thiếu của người dân vùng đất cổ khống chế nguồn nước. Thể hiện rõ nét là tín Kinh Bắc nói chung và của cư dân lưu vực sông ngưỡng thờ Đức Thánh Tam Giang vùng ngã Cầu nói riêng. Theo dòng chảy của con sông ba Xà với hai lễ hội tiêu biểu: Lễ hội làng Mai Cầu, huyền tích này trôi xuống vùng Hà Nam, với tục bơi chải và lễ hội Vật cầu làng Vân. Thái Bình thì biến tướng trở thành câu chuyện Châu thổ Bắc Bộ có rất nhiều địa danh liên về ông Cộc, ông Dài, sự tích đền Đồng Bằng… quan đến ngã ba sông như: Ngã ba Hàng, Những vị thần này đều là hóa thân của rắn - ngã ba Hạc, ngã ba Xà... Theo tư duy dân dã, một trong những thế lực làm chủ nguồn nước. ngã ba được coi là nơi cung cấp nguồn nước, Hội bơi chải không chỉ thể hiện sức mạnh của nguồn sinh khí cho muôn loài. Lễ hội bơi chải thanh niên trai tráng, sự khéo léo của những làng Mai thường mở hội lớn vào những năm cư dân sống gần sông nước mà còn là để cầu được mùa, phong đăng hòa cốc... Lễ hội tổ nước, cầu Đức Thánh Tam Giang ban phúc lành chức 2 lần vào mùa xuân, lần thứ nhất là ngày trong sản xuất nông nghiệp, nghề sông nước. 2 tháng Hai với nghi lễ rước nước và lần thứ Cùng thờ Thánh Tam Giang nhưng lễ hội hai là ngày mùng 10 tháng Ba âm lịch hàng làng Vân, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc năm. Nhưng chỉ trong hội ngày mùng 10 Giang lại mang ý nghĩa khác - đó là tục cầu tháng Ba, làng Mai mới tổ chức bơi chải và chỉ nắng. Nghi lễ cầu nắng thường được thực hiện trong hội bơi chải này mới có cuộc rước thánh theo hai hình thức phổ biến là cầu nắng gián từ nghè Ngũ Giáp ra ngã ba Xà làm lễ “Trình tiếp thông qua những vật tượng trưng cho thủy mã”, đây chính là một trong những nghi mặt trời và cầu nắng trực tiếp thông qua việc thức gắn với tục thờ thủy thần. thờ cúng mặt trời. Nhiều nhà nghiên cứu cho Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 41
  6. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU rằng quả cầu, quả phết là biểu tượng của mặt trò chơi dân gian cũng mang ý nghĩa tương tự, trời, do đó cướp cầu, đánh phết trong ngày hội nhưng nó được diễn đạt theo một ngôn ngữ là nghi lễ cầu nắng. Tuy nhiên, phụ thuộc vào khác như trò chơi thả diều. Muốn thả được thời điểm diễn ra lễ hội mà các nghi lễ sẽ mang diều thời tiết phải tốt, vì thế mà chơi diều, ý nghĩa cầu nắng hay cầu mưa. hay hội thả diều chính là sự mong ước thời Lễ hội với tục vật cầu diễn ra để cầu mong tiết khô ráo, trời quang, mây tạnh. Nhiều nhà một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng nghiên cứu cho rằng, diều có tác dụng điều tươi tốt, nhân dân no ấm. Hội vật cầu gắn liền hòa âm dương, là sợi dây nối giữa trời và đất. với tích truyện: Khi mẹ mất, anh em Trương Diều thuộc dạng chim là biểu tượng của yếu tố Hống, Trương Hát cắt cử nhau ra trông mộ mẹ. dương đối ứng với cá, rồng, rắn là biểu tượng Một đêm trời mưa gió, Hống và Hát ra thăm của âm ở dưới nước. mộ mẹ gặp lũ quỷ chặn đường, các ông đánh 5. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa vùng hạ nhau với chúng. Người và quỷ thần quần nhau châu thổ sông Hồng đến lấm lem bùn đất. Cuối cùng, người cũng Trước kia, do đường bộ chưa phát triển nên thắng quỷ. Phải chăng đây là nghi thức chống việc sử dụng hệ thống đường thủy là một ứng lụt, bằng việc đánh nhau với bầy quỷ trong xử tất yếu đối với người Việt ở châu thổ sông đêm mưa gió - con người vật lộn với dòng Hồng. Nhưng việc đi lại bằng đường thủy lại nước lũ và họ đã khống chế được dòng nước. hay gặp nhiều rủi ro nên người dân thường Trong lễ hội làng Vân, ngoài tín ngưỡng cầu cầu cúng như là một phương cách để trấn an nắng thì tục vật cầu còn bao hàm tín ngưỡng tinh thần cho những chuyến đi. Vì vậy, việc phồn thực. Bởi, lễ hội được tổ chức vào ngày thờ Hà Bá, thờ thuồng luồng, thủy thần là một rằm tháng Tư âm lịch, đây là thời điểm thời tiết tín ngưỡng phổ biến. Và cũng chính vì thế mà chuyển từ hàn sang nhiệt, nước mang yếu tố lễ rước nước hay cấp thủy cũng là một trong âm và quả cầu tượng trưng cho mặt trời mang những nghi lễ mang tính phổ biến đối với các yếu tố dương, đã tạo nên cặp âm dương, biểu di tích thờ thần ven sông hay các vị thần liên hiện cho tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội [5]. quan đến nguồn nước. Cũng là nghi lễ cầu nắng, nhưng khi đối sánh với trò cướp phết trong lễ hội làng Bàn Có lẽ liên quan mật thiết với dòng sông Giản và Hiền Quan ở Vĩnh Phúc - vùng thượng Hồng ở vùng hạ lưu là hệ thống di tích thờ châu thổ lại thấy khác với lễ hội làng Vân - Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Theo các học giả vùng trung châu thổ. Tuy quả phết cũng có như Từ Chi, Trần Quốc Vượng, Trần Lâm Biền hình dáng tương tự như quả cầu và khi chơi thì đây chính là sự đánh dấu quá trình di cư từ cũng phải chia làm hai phe, nhưng những vùng thượng châu thổ xuống vùng sông nước người tham gia chơi không trực tiếp dùng tay ở hạ lưu. Chính yếu tố địa lý của vùng hạ lưu cướp cầu mà sử dụng gậy tre dài một đầu được này đã tạo nên sự tích về Chử Đồng Tử và Tiên đẽo vát hình thìa. Chơi cướp phết kiểu này dân Dung mà cốt lõi tục thờ thủy thần đại diện cho gian thường gọi là “phết bộ”. Trò cướp phết ở tín ngưỡng nông nghiệp, ngư nghiệp, thương Hiền Quan thì rất nghiêm ngặt trong luật chơi. nghiệp và đạo giáo dân gian. Người chơi luôn luôn phải giữ cho phết nằm Lễ rước nước ở đền Dạ Trạch, nơi thờ Chử sệt trên mặt đất chứ không được hất tung phết Đạo Tổ và Tiên Dung, được diễn ra vào giờ lên. Không chỉ ở vùng thượng và trung châu Thìn ngày 10 tháng Hai âm lịch, là một trong thổ sông Hồng mới có nghi lễ cầu nắng mà ở những nghi lễ mang tính đặc trưng ở vùng vùng hạ lưu châu thổ như Hưng Yên, Thái Bình, hạ lưu. Điệu múa rồng với hình ảnh con rồng Hải Phòng, nghi lễ này vẫn, đã và đang được uốn lượn dẫn đầu đám rước cũng là một biểu thực hành. Không chỉ các trò diễn trong lễ hội tượng thần nước, bóng dáng đã bị khúc xạ mới mang ý nghĩa cầu nắng mà ngay cả các của tục cầu mưa thời xa xưa [1]. Nước mang về 42 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
  7. TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG dùng để thờ, để sử dụng vào những công việc Lễ hội thu chùa Keo lại gắn với cuộc đời có tính chất nghi lễ, nhưng có lẽ ý nghĩa nhất của thiền sư Không Lộ. Khi còn nhỏ, ông làm đó là để cầu một nguồn nước dồi dào, cầu cho nghề chài lưới nên cứ vào lễ hội thu, người dòng sông luôn hiền hòa. dân quanh vùng lại tổ chức đua thuyền. Bơi Hệ thống đê do người Việt tạo lập trong quá thuyền không chỉ thể hiện cho sự khéo của cư trình khai thác và sử dụng châu thổ sông Hồng dân sông nước, của người dân vạn chài mà còn đã hình thành nên vùng ô trũng và đây cũng thể hiện nguồn gốc xuất thân của thiền sư, chính là nơi thường xuyên xảy ra lụt lội. Hơn nhưng vượt lên trên tất cả, đó là ước vọng về nữa, quá trình khai hoang, quai đê lấn biển vẫn cuộc sống nơi sông nước được may mắn. Hình để lại những cánh đồng chua, nước mặn, nên thức đua thuyền không chỉ có ở lễ hội chùa nguồn nước ngọt luôn là vấn đề sống còn của Keo mà còn có ở rất nhiều nơi như lễ hội làng cư dân. Điều này được minh chứng bởi câu ca: Đăm (phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Hà “Ở đây vui thú non tiên Nội), làng Mai (xã Minh Tân, huyện Phú Xuyên, Rạng ngày lọc nước lấy tiền nuôi nhau”. Hà Nội) đều thờ Đức Thánh Tam Giang, lễ hội đền Dày thờ bà Sa Lãng - một vị tướng của Vùng hạ lưu châu thổ đã tạo nên sắc thái Hai Bà Trưng. Mở rộng hơn nữa là lễ hội làng riêng, mà theo các nhà địa văn hóa thì đây là biển Quan Lạn (huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng vùng giao thủy (giao thủy ở đây có nghĩa là Ninh)... Nói chung, đua thuyền có ở hầu hết giao giữa nước mặn và nước ngọt tạo thành các cộng đồng cư dân gắn bó với sông nước, vùng nước lợ). Chính điều kiện tự nhiên này đã với biển cả,... tại Việt Nam cũng như các nước quy định nghề nghiệp, tính cách, cách ứng xử Đông Nam Á. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng với môi trường tự nhiên của cư dân. Tuy nhiên, đua thuyền là một trong những hình thức để sự phân chia nghề nghiệp ở khu vực này không cầu mưa, nhưng cũng có ý kiến cho rằng lễ rõ ràng. Trong những ngày nông nhàn, người thức này để cầu tạnh. Cho dù là cầu mưa hay nông dân có thể đi biển để tăng thu nhập và cầu tạnh thì đua thuyền cũng là loại hình văn cải thiện bữa ăn cho gia đình; hay bản thân hóa để cầu cho mưa thuận gió hòa của cư dân dân vạn chài đều có nguồn gốc là nông dân. Chính vì vậy, tín ngưỡng của cư dân vùng hạ nông nghiệp. lưu châu thổ, hay nói rõ hơn là vùng ven biển Tục rước nước vốn có ở hầu hết các lễ từ Quảng Ninh đến Ninh Bình có nhiều điểm hội vùng châu thổ sông Hồng, nhất là các tương đồng với tín ngưỡng trong nội địa, mà làng ven sông, ven biển hoặc những nơi gần lễ hội chùa Keo (xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, nguồn nước. Nhưng tục rước nước ở làng biển tỉnh Thái Bình) là một đại diện điển hình. Quang Lang (huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) Hàng năm, chùa Keo mở hội hai lần, hội lại mang màu sắc khác. Tục lệ này gắn với mùa xuân được tổ chức vào ngày 4 tháng nghi thức thờ thành hoàng là tam vị đức vua: Giêng, hội thu được tổ chức vào rằm tháng Đông Hải Đại vương, Tây Hải Đại vương, Nam Chín âm lịch. Lễ hội xuân chùa Keo diễn ra Hải Đại vương và một vị nhân thần là tướng với nhiều trò chơi dân gian như thi ném pháo của Đinh Bộ Lĩnh. Đặc biệt, lễ rước nước còn với mong muốn có được tiếng sấm, để nhắc kết hợp với nghi thức trình nghề gieo ống để ông trời cho mưa xuống. Khi pháo đại nổ sẽ đánh bắt cá - một lễ thức độc đáo chỉ riêng có làm bung chiếc dù vải bên trong ghi hai câu ở Việt Nam. đối: “Thiên hạ thái bình - Phong đăng hòa cốc”. Lễ hội rước nước gieo ống là lễ hội của ngư Thực chất, thi ném pháo ở lễ hội chùa Keo gần dân ven biển Bắc Bộ, nó là sự kết hợp hài hòa giống với tục đốt màn than trong lễ hội chùa giữa lễ thức trình nghề của ngư dân với lễ rước Bối Khê và tục thi pháo đất ở vùng Thái Bình, nước của cư dân có nguồn gốc từ sâu trong Hải Phòng, với tiếng nổ rền vang như tiếng nội địa. Lễ thức này đã phản ánh rõ nét sự giao sấm, tất cả đều mong muốn cho mưa thuận, thoa văn hóa của cư dân sống ở vùng giáp cửa gió hòa, mùa màng bội thu. sông, biển. Số 31 (Tháng 3 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 43
  8. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Có khi tín ngưỡng cầu nước hay thờ nước Chú thích của cư dân ven biển không thể hiện một cách 1 Bài viết tổng hợp và phân tích dữ liệu di sản trực tiếp mà nó được thể hiện một cách gián văn hóa phi vật thể được lưu trữ tại Trung tâm tiếp thông qua trò chơi như chọi trâu trong dữ liệu di sản văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật hội chọi trâu ở Đồ Sơn. Việc chọn trâu trong Quốc gia Việt Nam: Lễ hội rước nước gieo ống lễ hội cũng rất công phu, ngoài những tiêu làng Quang Lang, lễ hội chùa Bối Khê, lễ hội đền chuẩn như “cổ cò, đít nhọn, lưng tôm bà, đuôi Và, lễ hội chùa Dâu, trò chơi dân gian của người cá chai”, “trường đùi, ngắn quản, vén đùi nai” Việt, lễ hội vật cầu làng Vân, lễ hội làng Mai, lễ thì dứt khoát đó phải là một con trâu đen. Theo hội chùa Keo (Nam Định và Thái Bình), lễ hội quan niệm của họ, màu đen là màu của kim Bà Sa Lãng, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, lễ hội cướp loại, vận theo ngũ hành thì Kim sinh Thuỷ (sinh phết Bàn Giản, lễ hội cướp phết Hiền Quan, lễ ra nước)”; vai và hông của trâu phải có khoáy hội vật cầu Quan Xuyên, hội sáo đền Thái Bình, và những khoáy này liên quan đến bầu trời, tục thả diều dái Hải Phòng, lễ hội chạy đá và sấm sét và các vị tinh tú; sừng trâu cong trông rước lợn ông bồ Hải Phòng, lễ rước nước đền Dạ giống mảnh lưỡi liềm... Sự lựa chọn này đã Trạch… [4]. biểu hiện nhận thức của cư dân về mối liên hệ giữa mặt trăng và thủy triều, liên quan đến V.D.T sự ra vào của các cuộc hành trình trên biển. Hình ảnh hai con trâu chọi nhau như để phản ánh sự vận động của con nước, sự vận động Tài liệu tham khảo của thủy triều. 1. Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Minh San (2000), Thay lời kết “Hội đền Chử Đồng Tử”, in trong Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc và Tạp chí Bằng sự trải nghiệm thực tế, người nông dân ở châu thổ sông Hồng đã tạo cho mình Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. những kiến thức mang tính kinh nghiệm để 2. Trương Quốc Chính (2017), “Tứ Pháp - Tín ứng xử với các hiện tượng của trời đất. Tuy ngưỡng độc đáo của người Việt”, http://truongtoc. nhiên, nó lại không giải thích thấu đáo các hiện com.vn/public/index.php/tu-phap-tin-nguong- tượng tự nhiên. Vì vậy, họ vẫn tin vào những doc-dao-cua-nguoi-viet?yy=2019&mm=8 lực lượng siêu nhiên, và họ tin rằng các lễ nghi 3. Nguyễn Minh San (1994), Tiếp cận tín thờ cúng của họ sẽ nhắc nhở thần linh mang ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, lại những thứ mà họ khẩn cầu, mong ước. Hà Nội. Nghề nông và sông nước đã tạo ra một yếu 4. Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt tố rất cơ bản trong lễ hội nông nghiệp đó là Nam, Ngân hàng dữ liệu văn hóa phi vật thể các cầu nước, cầu mưa. Tuy nhiên, cách ứng xử lại dân tộc Việt Nam, Trung tâm dữ liệu di sản văn mang tính nước đôi, vừa cầu nước, vừa chống hóa. hạn đã tạo ra sắc thái đan xen. 5. Trần Quốc Vượng (1991), Trong cõi, Nxb. Các thần tích, truyền thuyết đã được phủ Trăm Hoa, Hoa Kỳ. lên một lớp sơn thần bí nhưng ý nghĩa của nó lại là biểu tượng văn hóa cần được bóc tách. Ngày nhận bài: 12 - 3 - 2020 Chúng ta có thể thấy trong lễ hội thờ anh hùng Ngày phản biện, đánh giá: 17 - 3 - 2020 dân tộc có những trò chơi, trò diễn mà gốc gác của nó là nghi lễ thờ mặt trời, cầu nước, cầu Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020 phồn thực hay cầu mưa... Với quan niệm “vạn vật hữu linh”, cư dân vùng châu thổ sông Hồng vẫn đã và đang lưu giữ cũng như thực hành những tín ngưỡng cổ xưa mang đậm dấu ấn văn hóa nông nghiệp lúa nước. 44 Số 31 (Tháng 3 - 2020)
nguon tai.lieu . vn