Xem mẫu
- LỊCH SỬ
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ THIỆN
(1945 - 2020)
- Chỉ đạo biên soạn
BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY PHÚ THIỆN KHÓA XIX
Ban biên soạn
TS. Nguyễn Thị Kim Vân (Chủ biên)
TS. Ngô Minh Hiệp
ThS. Phạm Văn Phương
CN. Tống Thới Mốc
CN. Vũ Thị Việt Hà
CN. Phạm Thị Thuận
CN. Trần Mạnh Hùng
- ĐẢNG BỘ TỈNH GIA LAI
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ THIỆN
LỊCH SỬ
ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ THIỆN
(1945 - 2020)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
Hà Nội - 2022
- CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
(1890 - 1969)
1
- 2
- 3
- 4
- LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Ngày 28/8/2002, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW về
tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ thị nêu rõ: “Nghiên cứu sâu sắc lịch
sử Đảng là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm làm rõ các chặng đường
lịch sử và hoạt động đấu tranh của Đảng, tổng kết thực tiễn lịch
sử dân tộc, nêu bật những thắng lợi, những thành tựu của cách
mạng và cả những sai lầm, khuyết điểm, làm sáng tỏ những bài
học, những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam, giáo dục truyền
thống cách mạng của Đảng, bồi dưỡng tình cảm yêu nước, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời
kỳ đổi mới”. Sau đó, ngày 18/01/2018, Ban Bí thư Trung ương Đảng
đã ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về tiếp tục tăng cường, nâng cao
chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử
Đảng. Có thể thấy, trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động
luôn tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta trên mọi lĩnh
vực, nhất là lĩnh vực tư tưởng, chính trị, việc nghiên cứu, tìm hiểu,
biên soạn và phổ biến lịch sử Đảng ta nói chung, lịch sử Đảng bộ các
địa phương nói riêng có ý nghĩa to lớn về lý luận cũng như thực tiễn,
góp phần đáng kể thúc đẩy mọi mặt công tác và tính chiến đấu của
toàn Đảng nói chung, từng Đảng bộ nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện Phú Thiện đã phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Sự thật xuất bản cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Thiện
(1945 - 2020). Đây là cuốn sách được biên soạn khá công phu, ghi
lại những nét cơ bản về truyền thống cách mạng kiên cường,
anh dũng và sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân huyện Phú Thiện,
5
- tỉnh Gia Lai trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê
hương. 75 năm xây dựng và trưởng thành, trải qua nhiều lần sáp
nhập, chia tách, Phú Thiện hôm nay đã đạt được nhiều thành tựu
đáng ghi nhận. Dù có lúc thăng trầm, nhưng trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trên địa bàn Phú Thiện vẫn
luôn đoàn kết, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, quyết tâm thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tất cả
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong quá trình sưu tầm, biên soạn và xuất bản, mặc dù có
nhiều cố gắng, nhưng do các sự kiện xảy ra đã lâu, nhiều tư liệu bị
thất lạc,... nên cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để cuốn sách được
hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc!
Tháng 3 năm 2022
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
6
- THƯ GỬI ĐẠI HỘI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
MIỀN NAM TẠI PLÂYCU1
Cùng các đồng bào dân tộc thiểu số,
Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ.
Tiếc vì đường sá xa xôi, tôi không đến dự được. Tôi tuy xa,
nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào.
Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê
Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là
con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu dây liên
lạc, hai là vì có kẻ xui giục để chia rẽ chúng ta.
Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong
Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA
DÂN TỘC THIỂU SỐ” để săn sóc cho tất cả các đồng bào.
Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung
của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết
chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.
Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau,
phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và
con cháu chúng ta.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4,
tr.249-250.
7
- Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng lòng đoàn kết của
chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung
lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta.
Xin chúc Đại hội thành công.
Lời chào thân ái.
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 1946
HỒ CHÍ MINH
8
- LỜI GIỚI THIỆU
Phú Thiện là một trong bốn huyện, thị nằm ở vùng trũng
phía đông nam của tỉnh Gia Lai, nơi có dòng sông Ayun chảy
qua và được biết đến khá sớm với các tên gọi Cheo Reo, Phú
Bổn. Trung tâm huyện nằm trên trục quốc lộ 25 (nối tỉnh Gia
Lai với tỉnh Phú Yên), cách thành phố Pleiku khoảng 70km
về phía tây bắc; cách thị xã Ayun Pa khoảng 20km về phía
đông nam.
Nếu không tính đến những di tích từ thời đại đồ đá cũ,
nơi các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra dấu vết của con người
cách ngày nay hàng chục vạn năm, thì Phú Thiện cũng là địa
bàn đã được người Jrai cư trú từ lâu đời và để lại nhiều giá trị
lịch sử - văn hóa đặc sắc. Từ nửa cuối thế kỷ XV, khi tiến quân
vào phía Nam, vua Lê Thánh Tông đã gọi Yang Pơtao Apui
của người Jrai ở Phú Thiện là Vua Lửa và gọi đất này là nước
Nam Bàn.
Những năm đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp vừa đặt
chân đến Cheo Reo, không chịu khuất phục trước thế lực ngoại
xâm, Siu Át (Ơi Át) - vị Pơtao Apui thứ 11 đã lãnh đạo người
Jrai nổi dậy chống Pháp. Tháng 4/1904, sự kiện Pơtao Apui
giết viên quan Pháp, rồi lùi vào rừng sâu xây dựng lực lượng
kháng chiến đã gây chấn động cho bọn thực dân. Cuộc khởi
nghĩa do Pơtao Apui lãnh đạo, tuy nổ ra ở vùng Phú Thiện -
Cheo Reo, nhưng đã gây được ảnh hưởng rộng khắp Gia Lai,
Kon Tum và vùng đất đông bắc Đăk Lăk, tạo thành phong trào
9
- rộng lớn, khiến thực dân Pháp vấp phải nhiều khó khăn trong
quá trình chinh phục Tây Nguyên.
Trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù địa bàn huyện Phú Thiện ngày nay
chủ yếu nằm dọc đường 7A (nay là quốc lộ 25), ngay giữa vùng
địch kiểm soát, không có những yếu tố thuận lợi để trở thành
căn cứ địa vững vàng, nhưng chính lòng dân Phú Thiện đã
thay thành lũy tự nhiên để làm nên những điều kỳ diệu. Lịch
sử 30 năm kháng chiến ở Phú Thiện không ghi lại nhiều hầm
chông, bẫy đá..., ít rộ lên những trận chống càn, nhưng hiếm
có ở đâu như Phú Thiện, nơi mà phía trong hàng rào kẽm gai
của những ấp chiến lược do dịch dựng nên có biết bao gia đình
là cơ sở cách mạng; nơi có người mẹ Jrai kiên cường dù 7 lần sa
vào tay địch, chịu bao đòn roi, nhưng khi ra khỏi chốn lao tù,
mẹ vẫn tiếp tục là chỗ dựa tin cậy cho cán bộ của các đội công
tác đi về; nơi có những trưởng ấp thường xuyên lợi dụng việc
đi chăn voi để che mắt địch, đưa hàng vào căn cứ cách mạng;
nơi có những làng nhỏ, chỉ có vài chục gia đình, nhưng chiến
tranh đi qua, lại có tới 25 liệt sĩ... Ở trong lòng địch, nhưng khi
chiến dịch Plei Me mở ra, cách mạng vẫn rút được hàng chục
người từ các ấp đi tải đạn, gùi hàng. Căn cứ địa lòng dân chính
là chỗ dựa vững chắc, là cơ sở bền lâu để đồng bào các dân tộc ở
Phú Thiện nguyện một lòng theo Đảng, góp phần cùng cả nước
làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử.
Sau ngày giải phóng (ngày 30/4/1975), Phú Thiện đã đón
nhận nhiều cộng đồng dân cư mới đến lập nghiệp. Được sự
quan tâm đầu tư của Trung ương và của tỉnh, cùng những
nỗ lực để vượt qua chính mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ huyện, người Jrai, người Bahnar cùng người Kinh, người
Thái, người Tày... đã đoàn kết chung tay đưa Phú Thiện vượt
qua thời kỳ gian khó, từng bước vươn lên trở thành huyện
10
- phát triển về kinh tế, ổn định về xã hội, vững vàng về an ninh -
quốc phòng. Ngày nay, khi 19 tiêu chí của một huyện nông
thôn mới dần được hoàn thành trên địa bàn Phú Thiện, cuộc
sống của đồng bào các dân tộc trong huyện đang bước sang
trang mới. Nhắc đến Phú Thiện hôm nay, người ta sẽ nhớ
tới vựa lúa của Gia Lai, nơi hạt gạo Phú Thiện đã trở thành
thương hiệu, nơi có di tích Plei Ơi dưới vùng hồ Ayun Hạ, có
lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui đã được công nhận là Di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia... Với những giá trị lịch sử - văn
hóa đặc sắc, Phú Thiện hôm nay hứa hẹn là một điểm đến thú
vị cho du khách gần xa.
Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày thành lập huyện (2007-2022)
và hướng tới các ngày lễ lớn trong năm, để ghi lại những
chặng đường lịch sử mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
Phú Thiện đã trải qua; biểu dương những tấm gương tiêu biểu
trong chiến đấu, lao động, sản xuất qua các thời kỳ; đồng
thời giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ và động viên nhân
dân các dân tộc trong huyện phát huy truyền thống cách
mạng, đoàn kết, quyết tâm xây dựng Phú Thiện đạt các tiêu
chí của huyện nông thôn mới vào năm 2025, Đảng bộ huyện
Phú Thiện khóa XVIII và XIX đã chỉ đạo tổ chức, biên soạn
và xuất bản cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Thiện
(1945 - 2020).
Dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, cùng sự
giúp đỡ nhiệt tình của các nhân chứng lịch sử, các đồng chí
lãnh đạo huyện qua các thời kỳ, Ban biên soạn đã nỗ lực tập
hợp, sưu tầm, xử lý tư liệu, hình ảnh... để cuốn sách bảo đảm
tính khách quan, toàn diện. Tuy nhiên, do thời gian có hạn,
phần lớn các nhân chứng quan trọng nay đã qua đời,... nên
cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của đồng bào, đồng chí để cuốn
sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
11
- Ban Thường vụ Huyện ủy Phú Thiện xin chân thành cảm
ơn Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, các sở,
ban, ngành của tỉnh và các đồng chí lão thành cách mạng,
các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của huyện qua các thời kỳ, các
nhân chứng lịch sử... đã nhiệt tình cung cấp tư liệu và tạo mọi
điều kiện để cuốn sách được hoàn thành.
Xin giới thiệu với đồng bào, đồng chí trong huyện, tỉnh và
bạn đọc cả nước cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Phú Thiện
(1945 - 2020).
T/M BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY
Nguyễn Hoàng Phong
Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Phú Thiện
12
- Chương 1
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ
VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ - VĂN HÓA
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, NHỮNG THAY ĐỔI ĐỊA DANH,
ĐỊA GIỚI QUA CÁC THỜI KỲ
1. Vị trí địa lý và hạ tầng cơ sở
Huyện Phú Thiện có diện tích tự nhiên là 505,168km2
(50.516,8ha)1, nằm trong tọa độ địa lý từ 13044’18’’ đến 14o23’88’’
vĩ độ bắc; 108o00’10” đến 108o28’02’’ kinh độ đông2. Phía bắc
giáp huyện Chư Sê, phía nam giáp thị xã Ayun Pa và huyện
Ea H’leo (tỉnh Đăk Lăk), phía đông giáp huyện Ia Pa, tây giáp
huyện Chư Pưh3. Cùng với thị xã Ayun Pa, các huyện Phú
Thiện, Ia Pa, Krông Pa nằm ở phía đông nam của tỉnh Gia Lai
thường được nhắc đến với các tên gọi chung là Cheo Reo hoặc
Phú Bổn.
Từ ngã ba Mỹ Thạch (trung tâm huyện Chư Sê) trên cao
nguyên Pleiku, rẽ theo quốc lộ 254, bắt đầu từ đỉnh đèo Chư
3
Sê là địa bàn huyện Phú Thiện. Vừa hết cung đèo quanh
co là vùng đồng bằng Phú Thiện. Huyện lỵ Phú Thiện cách
1, 3. Chi cục Thống kê Phú Thiện: Niên giám thống kê năm 2020 huyện
Phú Thiện.
2. Ủy ban nhân dân huyện Phú Thiện: “Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai đến năm 2020”, năm 2012.
4. Trước năm 1975, tuyến đường này có tên là tỉnh lộ 7 (đường 7/7A).
13
- thành phố Pleiku 70km về phía đông nam; cách thị xã Ayun
Pa 20km về phía tây bắc. Tuyến giao thông quan trọng nhất của
Phú Thiện là đoạn quốc lộ 25 đi qua địa bàn huyện với chiều
dài 30km1. Hầu hết trung tâm các xã thuộc huyện Phú Thiện
đều nằm dọc quốc lộ 25 nên giao thông khá thuận lợi.
Ngoài quốc lộ 25, Phú Thiện còn có hai tuyến đường huyện
với tổng chiều dài 29,5km, trong đó có 8km đường nhựa, 5km
đường cấp phối, còn lại là đường đất. 100% xã trong huyện
đã có đường ôtô đến trung tâm với tổng chiều dài 83km,
trong đó có 17km đường cấp phối, 66km đường đất. Đường
nội thị (thị trấn Phú Thiện) có tổng chiều dài 47,62km, trong
đó có 5,46km đường bêtông ximăng, 2,98km đường láng nhựa,
10km đường cấp phối và 27,6km đường đất. Đường tại các xã,
thôn, buôn của Phú Thiện có tổng chiều dài 255,9km, trong
đó có 43,3km đường bêtông ximăng, còn lại là đường đất2.
2. Địa danh, địa giới qua các thời kỳ
a. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Vùng đất Phú Thiện ngày nay là địa bàn cư trú từ lâu đời
của người Jrai Chor, Jrai Mthur với các Yang Pơtao Apui (thần
Vua Lửa) đã được các thư tịch Việt Nam nhắc đến khá sớm.
Trong quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp,
ngày 16/10/1898, Khâm sứ Trung Kỳ Boulloche đưa yêu
sách buộc triều đình Huế phải để người Pháp phụ trách vấn
đề kinh tế và an ninh toàn vùng Tây Nguyên. Triều đình
nhà Nguyễn buộc phải nhượng bộ. Từ đó, Tây Nguyên là
1. Quốc lộ 25 chạy theo hướng đông - tây, bắt đầu từ Km69 (tiếp giáp
tỉnh Phú Yên trên quốc lộ 1) đến Km181 (thuộc địa phận huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai - tại Mỹ Thạch). Theo Nguyễn Thị Kim Vân: Lịch sử Gia Lai
từ nguồn gốc đến năm 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2019, tr.24.
2. Ủy ban nhân dân huyện Phú Thiện: “Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai đến năm 2020”, Tlđd.
14
- vùng đất thuộc quyền bảo hộ trực tiếp của thực dân Pháp.
Cũng trong năm 1898, Tòa đại lý hành chính Kon Tum được
thành lập. Ngoài địa bàn Kon Tum hiện nay, tòa đại lý hành
chính này cai quản luôn cả địa phận tỉnh Gia Lai, trong đó
có vùng đất Cheo Reo, bao gồm cả địa bàn huyện Phú Thiện
ngày nay.
Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 04/7/1905,
vùng núi phía tây tỉnh Bình Định, Phú Yên ngày nay được lập
thành một tỉnh tự trị, lấy tên là Plei-Kou-Der. Tỉnh lỵ của
Plei-Kou-Der được đặt tại Pleiku. Vùng đất Phú Thiện nằm
trong tỉnh Plei-Kou-Der.
Sau gần hai năm tồn tại, Nghị định của Toàn quyền Đông
Dương ngày 25/4/1907 đã xóa tỉnh Plei-Kou-Der. Đất đai
của tỉnh này được chia làm hai phần, một phần lập thành
đại lý hành chính Kon Tum nhập vào tỉnh Bình Định; một
phần lập thành đại lý hành chính Cheo Reo nhập vào tỉnh
Phú Yên. Vùng đất Phú Thiện ngày nay thuộc đại lý hành
chính Cheo Reo.
Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 09/02/1913
(số 214 và 215), thực dân Pháp lập tỉnh Công Tum (từ đây viết
là Kon Tum) trên cơ sở đất đai của tỉnh Plei-Kou-Der cũ gồm
toàn bộ đại lý Kon Tum (tách ra từ tỉnh Bình Định), đại lý
Cheo Reo (tách ra từ tỉnh Phú Yên) và đại lý Đăk Lăk (nguyên
là một tỉnh hạ xuống thành đại lý).
Ngày 24/5/1932, Nghị định của Toàn quyền Đông Dương
tách một phần đất phía nam tỉnh Kon Tum (gồm đại lý Pleiku
và đại lý Cheo Reo) để thành lập tỉnh Pleiku. Tòa đại lý
hành chính Pleiku cũng được đổi thành Tòa Công sứ1. Theo
Nghị định này, vùng đất phía nam sông Ayun của Phú Thiện
1. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai: Địa chí Gia Lai, Nxb. Văn hóa Dân tộc,
Hà Nội, 1999, tr.45.
15
- thuộc đại lý Cheo Reo, tỉnh Pleiku. Tuy nhiên, vùng đất phía
bắc sông Ayun vẫn thuộc đại lý An Khê, tỉnh Kon Tum. Đến
Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 09/8/1943, đại lý
An Khê mới tách khỏi tỉnh Kon Tum, nhập vào tỉnh Pleiku1.
Như vậy là, đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
vùng đất Phú Thiện ngày nay gồm hai phần: Phần đất đai
và dân cư ở phía nam sông Ayun (chiếm phần lớn diện tích)
thuộc huyện Cheo Reo; phần đất đai phía bắc sông Ayun thuộc
huyện An Khê. Cả hai huyện này đều thuộc tỉnh Pleiku cùng
với thị xã Pleiku, huyện Plei Kli và huyện Chư Ti.
Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tỉnh Pleiku được
chính quyền cách mạng gọi là Gia Lai.
b. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954)
Tháng 6/1946, thực dân Pháp chiếm lại vùng đất Gia Lai
và gọi tên của tỉnh là Pleiku. Từ năm 1946 đến năm 1954,
tỉnh Pleiku nói riêng, Tây Nguyên nói chung trải qua nhiều
lần thay đổi chủ thể cai quản theo các văn bản của chính
quyền thực dân và chính phủ bù nhìn. Ngày 27/5/1946, thực
dân Pháp thành lập Ủy phủ Liên bang phụ trách các dân tộc
sơn cước miền Nam Đông Dương do một Ủy viên Cộng hòa
Pháp đứng đầu, trực thuộc Cao ủy Pháp ở Đông Dương, đặt
trụ sở tại Buôn Ma Thuột. Các tỉnh nằm trong liên bang này
gồm Đăk Lăk, Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, Pleiku và Kon
Tum. Ngày 04/6/1947, Tòa Ủy phủ Liên bang được thực dân
Pháp đổi thành Tòa phụ trách các dân tộc sơn cước miền Nam
Đông Dương.
Năm 1949, thực dân Pháp trao trả độc lập giả hiệu cho
Bảo Đại. Ngày 15/4/1950, Bảo Đại ký Đạo dụ số 6, đặt các tỉnh
1. Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 - 1945),
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr.214.
16
nguon tai.lieu . vn