Xem mẫu

  1. Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: TS. VÕ VĂN BÉ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ĐINH ÁI MINH NGUYỄN PHƯƠNG THÙY TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Trình bày bìa: LÊ THỊ HÀ LAN Chế bản vi tính: NGUYỄN THU THẢO Sửa bản in: PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT Đọc sách mẫu: ÁI MINH VIỆT HÀ
  2. 5 LỜI NHÀ XUẤT BẢN C. Mác, một vĩ nhân, một nhà khoa học thiên tài, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, người thầy vĩ đại của giai cấp công nhân quốc tế, đã để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ trên nhiều lĩnh vực. Đánh giá về công lao của C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: "Giống như Ðác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người... Nhưng không phải chỉ có thế thôi. Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm trong bóng tối". Tác phẩm Các học thuyết về giá trị thặng dư được C. Mác viết trong thời gian từ tháng giêng 1862 đến tháng bảy 1863. Đây là một công trình khoa học lớn nghiên cứu về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hòn đá tảng trong toàn bộ học thuyết kinh tế của C. Mác, nguồn tư liệu để ông viết bộ Tư bản. Nội dung tác phẩm được chia làm ba phần: Phần thứ nhất: Về khoa kinh tế chính trị trước Ri-các-đô. Phần thứ hai: Về Ri-các-đô. Phần thứ ba: Về các nhà kinh tế học sau Ri-các-đô. Tác phẩm này đã được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản trong tập 26 phần I, phần II và phần III của bộ C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập năm 1995 (được dịch dựa vào bản tiếng Nga) và thường được coi như tập 4 của bộ Tư bản, dù rằng tác phẩm được hình thành trước khi bộ Tư bản ra đời.
  3. 6 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh C. Mác (1818-2018), cùng với việc xuất bản bộ Tư bản, nhằm giúp cho độc giả, đặc biệt là các nhà kinh tế học, có tài liệu nghiên cứu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản bộ sách Các học thuyết về giá trị thặng dư. Bộ sách gồm ba quyển tương ứng với ba phần của tập 26 bộ C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập xuất bản năm 1995. Tuy Nhà xuất bản đã rất cố gắng, nhưng bộ sách khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong độc giả góp ý phê bình để lần xuất bản sau, bộ sách có chất lượng tốt hơn. Xin trân trọng giới thiệu bộ sách cùng bạn đọc. Tháng 10 năm 2018 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
  4. 7 LỜI GIỚI THIỆU Các học thuyết về giá trị thặng dư là thành quả nghiên cứu của C. Mác về khoa học kinh tế chính trị tại Anh, là nguồn tư liệu quý để C. Mác viết bộ Tư bản vĩ đại. Sau khi quyển III bộ Tư bản được xuất bản, Ph. Ăng-ghen có ý định biên tập và xuất bản tác phẩm Các học thuyết về giá trị thặng dư của C. Mác, nhưng ông đã không kịp thực hiện. Tác phẩm này được Cauxky xuất bản lần đầu trong những năm 1905-1910, nhưng còn rất nhiều thiếu sót. Đến những năm 1954- 1961, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, mới thẩm định tỉ mỉ, xác minh rõ nguyên bản và cho ra mắt bạn đọc tác phẩm Các học thuyết về giá trị thặng dư như hiện nay. Vì vậy, tác phẩm này thường được coi là quyển IV của bộ Tư bản. Trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản từ năm 1993 đến năm 2001, tập 23 bao gồm quyển I - Tư bản, tập 24 là quyển II - Tư bản, tập 25 phần I và tập 25 phần II là quyển III - Tư bản, tác phẩm Các học thuyết về giá trị thặng dư được xếp vào tập 26 phần I, 26 phần II và 26 phần III. Như vậy, trật tự các tác phẩm được xếp theo thời gian xuất bản. Tuy nhiên, nếu xét theo thời gian biên soạn và nội dung vấn đề thì phải đặt tác phẩm Các học thuyết về giá trị thặng dư trước bộ Tư bản, chứ không thể coi là quyển IV của Tư bản vì C. Mác viết tác phẩm Các học thuyết về giá trị thặng dư từ tháng giêng năm 1862 đến tháng bảy năm 1863, còn quyển I bộ Tư bản được xuất bản năm 1867, quyển II năm 1885 và quyển III năm 1894. Các học thuyết về giá trị thặng dư là bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu khoa học kinh tế chính trị thời trước khi C. Mác bắt tay viết
  5. 8 LỜI GIỚI THIỆU bộ Tư bản. Trong tác phẩm này, ông đã khái quát những ưu điểm và khuyết điểm trong phương pháp nghiên cứu dẫn đến những quan niệm đúng đắn và sai lầm của các trường phái kinh tế tư bản. Trong tác phẩm này, C. Mác nêu rõ, tất cả các nhà kinh tế chính trị học đều phạm sai lầm là đã không xét giá trị thặng dư dưới dạng thuần túy mà xét dưới hình thái đặc thù là lợi nhuận và địa tô. Trước phái trọng nông, người ta chỉ lấy trao đổi để giải thích giá trị thặng dư dưới hình thái lợi nhuận, tức là chỉ giải thích giá trị thặng dư bằng việc bán hàng hóa cao hơn giá trị của nó, hay còn gọi là “lợi nhuận do chuyển nhượng”. Công lao quan trọng nhất của phái trọng nông là ở chỗ họ đã phân tích tư bản trong giới hạn của tầm mắt tư sản; họ đã chuyển công tác nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất trực tiếp, như vậy là họ đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Họ đã coi những hình thái tồn tại vật chất của tư bản là những hình thái sinh lý của xã hội. Sai lầm ở đây là họ đã biến hình thái sản xuất tư bản chủ nghĩa thành một hình thái tự nhiên vĩnh cửu của sản xuất. Đối với họ, lao động nông nghiệp là lao động sản xuất duy nhất và là lao động duy nhất tạo ra giá trị thặng dư, còn địa tô là hình thái duy nhất của giá trị thặng dư. A. Smít đã do dự giữa hai định nghĩa về giá trị trao đổi, tức là giữa định nghĩa đúng cho rằng giá trị của các hàng hóa là do khối lượng lao động cần thiết để sản xuất ra các hàng hóa đó quyết định và định nghĩa sai khi cho rằng giá trị đó ngang với số lượng lao động sống mà hàng hóa đó có thể mua được. Khi nghiên cứu nguồn gốc giá trị thặng dư A. Smít đã theo định nghĩa đúng, và đã chỉ rõ: lợi nhuận có được là do lao động mà người công nhân đã thực hiện vượt số lượng lao động mà anh ta dùng để trả tiền công của mình, tức là bù lại tiền công của mình bằng một vật ngang giá. Như vậy A. Smít đã nắm được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư. Nhưng khi xét mối quan hệ giữa lao động và tư bản, A. Smít lại băn khoăn: không hiểu vì sao trao đổi ngang giá mà nhà tư bản lại thu được lợi nhuận. Từ đó, A. Smít có cảm nhận: hình như việc trao đổi giữa lao động đã vật hóa và lao động sống đã đem lại một sự thay đổi trong việc định
  6. LỜI GIỚI THIỆU 9 giá trị tương đối của các hàng hóa. Bởi vậy, ông ta kết luận rằng khi mà điều kiện lao động đã đối lập với người công nhân làm thuê thì thời gian lao động không còn là thước đo nội tại điều tiết giá trị trao đổi của hàng hóa nữa. Theo C. Mác, sai lầm này là do A. Smít (và cả Đ. Ricácđô nữa) đã không phân biệt được lao động và sức lao động, mặc dù A. Smít biết rất rõ rằng thời gian lao động chi phí vào việc tái sản xuất ra sức lao động và nuôi dưỡng sức lao động rất khác với số lao động mà sức lao động có thể thực hiện được. C. Mác đã tìm hiểu sâu các học thuyết của Đ. Ricácđô về địa tô, về giá trị thặng dư, về lợi nhuận, về tích lũy tư bản, đã chỉ ra những thành tựu và những hạn chế của Đ. Ricácđô. Mặc dù Đ. Ricácđô còn mắc nhiều thiếu sót, như phủ định địa tô tuyệt đối; trình bày các quy luật về lợi nhuận một cách trực tiếp với tư cách là những quy luật về giá trị thặng dư, không qua những khâu trung gian; coi toàn bộ tư bản là tư bản khả biến; phủ nhận việc sản xuất thừa phổ biến dẫn tới khủng hoảng; coi chủ nghĩa tư bản là đỉnh cao sự phát triển của nhân loại, tồn tại vĩnh viễn… C. Mác vẫn ca ngợi Đ. Ricácđô là một nhà khoa học trung thực: “Nếu quan điểm của Ricácđô phù hợp toàn bộ với lợi ích của giai cấp tư sản công nghiệp, thì đó chỉ là vì lợi ích của giai cấp này phù hợp - và chỉ trong chừng mực chúng phù hợp - với lợi ích của sản xuất hay với lợi ích của sự phát triển năng suất lao động của con người. Ở chỗ nào giai cấp tư sản mâu thuẫn với sự phát triển đó thì Ricácđô cũng chống lại giai cấp tư sản một cách không thương xót cũng như trong những trường hợp khác ông ta đã chống lại giai cấp vô sản và bọn quý tộc”1. Còn T. R. Mantuýt lại dựa vào mặt yếu của A. Smít để tìm cách xây dựng một học thuyết chống lại học thuyết mà Đ. Ricácđô đã xây dựng dựa trên mặt mạnh của A. Smít, nhằm rút ra những kết luận có lợi đối với giới quý tộc để chống lại giai cấp tư sản hoặc có lợi đối với cả hai giai cấp để chống lại giai cấp vô sản. __________________________________________________________ 1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.26, phần II, tr.169.
  7. 10 LỜI GIỚI THIỆU Các học thuyết về giá trị thặng dư không chỉ là nguồn tư liệu quan trọng để C. Mác viết bộ Tư bản mà còn có ý nghĩa rất quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Từ tác phẩm này có thể rút ra một bài học rất quý cho những người nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học xã hội. Đó là muốn kế thừa có phê phán những thành tựu của những người đi trước, để có thể bổ sung những phát kiến mới, góp phần thúc đẩy môn khoa học mà mình theo đuổi lên tầm cao mới thì nhất thiết phải nắm được đầy đủ tình hình nghiên cứu về môn khoa học này. C. Mác không phải là người đầu tiên phát hiện ra giá trị thặng dư, nhưng ông đã luận chứng lý luận ấy một cách chặt chẽ, sáng tỏ và phát triển lý luận đó một cách triệt để, nhờ kế thừa có phê phán các đại biểu xuất sắc của môn khoa học này. Tác phẩm này là nguồn tư liệu quý cho những người nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế, nhất là nghiên cứu về phái trọng nông, kinh tế chính trị tư sản cổ điển, và kinh tế chính trị tầm thường. Đọc kỹ tác phẩm này sẽ hiểu sâu sắc hơn những nguyên lý và những phạm trù kinh tế chính trị được trình bày trong bộ Tư bản. Một số vấn đề quan trọng được trình bày xen kẽ theo những mục tương hợp trong bộ Tư bản, khiến người đọc muốn hiểu rõ và đầy đủ phải tổng hợp, hệ thống hóa, nhưng trong tác phẩm Các học thuyết về giá trị thặng dư lại phân tích các quan điểm khác nhau về từng vấn đề ấy thành một chuyên mục giúp người đọc nghiên cứu thuận lợi hơn. Trong lý luận về giá trị thặng dư, C. Mác đã vạch trần thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa là cội nguồn đối lập kinh tế giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Theo C. Mác, việc bóc lột lao động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ khi xã hội phân chia giai cấp đến nay. Nhưng chỉ khi nào kẻ sở hữu tư liệu sản xuất tìm ra được người công nhân tự do, với tư cách là đối tượng bóc lột, và bóc lột người công nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hoá để thu được giá trị tăng thêm, thì khi đó mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới trở thành tư bản. Sự vĩ đại của C. Mác là ở chỗ ông đã phát hiện ra rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua
  8. LỜI GIỚI THIỆU 11 bán một loại hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, nó được tính bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của người công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… Giá trị sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó, dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra. Phần dôi ra này được Mác gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột giá trị thặng dư là quy luật bóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất đó, quyết định sự phát sinh, phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư, vén tấm màn che bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ rõ quá trình ra đời, phát triển và tiêu vong của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều thay đổi so với thời đại của Mác. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất và những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đã có một số điều chỉnh về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, phân phối cho phù hợp với thời đại và xoa dịu sự phản kháng của người lao động, nhưng vẫn không làm thay đổi bản chất bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản. Bóc lột giá trị thặng dư vẫn là điều kiện sống còn, đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết giá trị thặng dư vẫn là vũ khí tư tưởng sắc bén của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản. Nắm vững học thuyết giá trị thặng dư và bản chất của sản xuất hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước đây, do quan niệm giá trị thặng dư chỉ có dưới chế độ tư bản, đồng nhất sản xuất giá trị thặng dư với bóc lột nên đã hình thành quan điểm sai lệch rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không có sản xuất giá trị thặng dư trong
  9. 12 LỜI GIỚI THIỆU doanh nghiệp. Điều đó dẫn đến sự nhận thức sai lệch về kinh tế tư nhân, về vai trò của giới doanh nhân, hạn chế sự phát triển của sản xuất, không phát huy được tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Tuy nhiên, giá trị thặng dư luôn gắn liền với sản xuất hàng hóa, là mục tiêu của nhà sản xuất, của các doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sản xuất giá trị thặng dư và hàng hóa sức lao động vẫn tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội. Do vậy, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo lý thuyết sản xuất giá trị thặng dư cho phù hợp với thực tiễn. GS. TS. NGND. Đỗ Thế Tùng
  10. 13 [NỘI DUNG BẢN THẢO CUỐN "CÁC HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ"]1 [VI - 219b] Nội dung quyển vở VI: 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư2 a) Sir Giêm-xơ Xtiu-át b) Phái trọng nông c) A.Xmít [VI - 219b] [VII - 272b] [Nội dung quyển vở VII] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư a) A.Xmít (tiếp theo) (Nghiên cứu xem làm thế nào mà lợi nhuận hàng năm và tiền công hàng năm lại có thể mua được những hàng hóa đã sản xuất ra trong năm, những hàng hóa này, ngoài lợi nhuận và tiền công ra, còn bao gồm cả tư bản bất biến nữa) [VII - 272b] [VIII - 331b] [Nội dung quyển vở VIII] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư c) A.Xmít (kết thúc)3 [VIII - 331b] [IX - 376b] [Nội dung quyển vở IX] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư c) A.Xmít. Kết thúc d) Nếch-ke [IX - 376b]
  11. 14 [NỘI DUNG BẢN THẢO] [X - 421c] [Nội dung quyển vở X] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư Ngoài đề. Biểu kinh tế của Kê-nê e) Lanh-ghê f) Brây g) Ông Rốt-béc-tút. Ngoài đề. Lý luận mới về địa tô [X-421c] [XI - 490a] [Nội dung quyển vở XI] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư g) Rốt-béc-tút Ngoài đề. Những nhận xét về lịch sử khám phá ra cái gọi là quy luật Ri-các-đô h) Ri-các-đô Lý luận về giá cả các chi phí ở Ri-các-đô và A.Xmít (Bác bỏ) Lý luận của Ri-các-đô về địa tô Những biểu địa tô chênh lệch có giải thích [XI - 490a] [XII - 580b] [Nội dung quyển vở XII] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư h) Ri-các-đô Biểu địa tô chênh lệch có giải thích (Xét ảnh hưởng của sự thay đổi giá trị các tư liệu sinh hoạt và nguyên liệu - do đó, cũng xét ảnh hưởng của sự thay đổi giá trị các máy móc - đến cấu thành hữu cơ của tư bản) Lý luận của Ri-các-đô về địa tô Lý luận của A.Xmít về địa tô
  12. [NỘI DUNG BẢN THẢO] 15 Lý luận của Ri-các-đô về giá trị thặng dư Lý luận của Ri-các-đô về lợi nhuận [XII - 580b] [XIII - 670a] [Nội dung quyển vở XIII] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư, v.v. h) Ri-các-đô Lý luận của Ri-các-đô về lợi nhuận Lý luận của Ri-các-đô về tích lũy. Phê phán lý luận đó. (Giải thích các cuộc khủng hoảng từ hình thái cơ bản của tư bản) Những điểm khác ở Ri-các-đô. Kết thúc phần về Ri-các-đô (Giôn Bác-tơn) i) Man-tút [XIII - 670a] [XIV - 771a] [Nội dung quyển vở XIV và dàn bài của những chương cuối cùng cuốn "Các học thuyết về giá trị thặng dư"] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư i) Man-tút k) Sự tan rã của trường phái Ri-các-đô (To-ren-xơ, Giêm-xơ Min, Prê-vô, những tác phẩm có tính chất luận chiến, Mắc-Cu-lốc, Uây-cơ-phin, Stiếc-linh, Giôn Xtiu-ác Min) l) Những đối thủ của các nhà kinh tế chính trị học4 (Brây với tư cách là đối thủ của các nhà kinh tế chính trị học) 5 m) Ram-xây n) Séc-buy-li-ê o) Ri-sớt Giôn-xơ 6 . (Kết thúc của phần 5 này) Phần thêm vào: Thu nhập và những nguồn của thu nhập 7 [XIV - 771a] [XV - 862a] [Nội dung quyển vở XV] 5) Các học thuyết về giá trị thặng dư
  13. 16 [NỘI DUNG BẢN THẢO] 1) Những đối thủ vô sản dựa trên cơ sở của Ri-các-đô 2) Ra-ven-xtơn. Kết thúc8 3) và 4) Hốt-xkin 9 (Của cải hiện có trong mối quan hệ của nó đối với sự vận động của sản xuất) Cái gọi là tích lũy [Aufhäufung] chỉ là một hiện tượng của lưu thông (dự trữ, v.v. - những thùng chứa của lưu thông) (Lợi tức kép; việc dựa vào lợi tức kép để giải thích việc giảm tỷ suất lợi nhuận) Khoa kinh tế chính trị tầm thường 10 (Sự phát triển của tư bản sinh lợi tức trên cơ sở của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa) (Tư bản sinh lợi tức và tư bản thương nghiệp trong mối quan hệ của chúng đối với tư bản công nghiệp. Những hình thái cổ hơn. Những hình thái phái sinh) (Nạn cho vay nặng lãi. Lu-the, v.v.) 11 [XV - 862a]
nguon tai.lieu . vn