Xem mẫu

  1. TÁMLÝHỌCDÁN số C hư ơng III N H Ữ N G VẤN ĐỂ TÂM ú H Ọ C C Ủ A H À N H VI S IN H Đ Ẻ ở C Ấ P Đ Ộ GIA Đ ÌN H Mục tiêu: Sau khi nghiên cứu chương này, người học cần đạt được khả năng: 1. Phân tích được ảnh hưởng của hoàn cảnh cuộc sống gia đình đến vấn đề sinh đẻ. 2. Trình bày được ảnh hưởng của các biểu tượng vé cuộc sống gia đình và các thành viên của nó đến hành vi sinh đẻ. 3. Mô tà được các khía cạnh cơ bản của các mối quan hệ qua lại trong gia đình và trình bày được ảnh hưởng của mỗi khía cạnh đó đối với vấn đề sinh đẻ. 4. Nêu được các biểu hiện vé thái độ cùa hai vợ chồng đối với vấn đề số con trong gia đình. 5. Xác định được ý nghĩa của việc quyết định sinh con. 6. Phân tích và phê phán việc kiểm soát giới tính của trẻ sơ sinh. 79
  2. -----------------------------------------------------------------TRÁN TRỌNGTHỦY I. GIA ĐÌNH VÀ VẤN ĐỀ SINH ĐẺ Theo chúng tôi, muốn thấy được mối quan hệ giữa gia đình và vấn đề sinh đẻ thì tâm lý học dân sô' cần xem xét các khía cạnh như: hoàn cảnh của đời sống gia đình, các quan niệm về cuộc sống gia đình và các thành viên của nó. Những khía cạnh này làm hợp nhất các nhân tố của hành vi sinh đẻ, các nhân tố này lại được quy định chủ yếu bởi tính chất xã hội của gia đình, rồi sau đó bởi những đậc điểm của cặp vợ chồng. Ta hãy xét về những khía cạnh đó. 1. Khía cạnh hoàn cảnh của cuộc sống gia đình Ở đây ta hãy xem xét sự phụ thuộc của hành vi sinh đẻ vào phản ứng cùa gia đình đối với các điều kiện vật chất và nhà ờ, vào vị thế xã hội đã đạt được, vào quan hệ đối với những người thân. Trong khuôn khổ của vấn đề này, mối liên hệ của việc sinh đẻ và cảm giác về bản thân của cá nhân ờ những giai đoạn khác nhau cùa chu kỳ gia đình (hình thành gia đình trẻ và sự tách khỏi cha mẹ cùa nó, thời kỳ mang thai, xuất hiện dứa con đầu lòng và việc giáo dục nó ở những giai đoạn lớn khôn khác nhau, sự xuất hiện mỗi đứa con tiếp theo..v..v) được xác định. Rõ ràng là, ờ giai đoạn này hay giai đoạn kia trong chu kỳ gia đình sẽ có những vấn đề đặc biệt nảy sinh trong gia đình, sẽ xuất hiện những tính chất đặc biệt của lối sống, cùa các mối quan hệ qua lại, tính tích cực xã hội cùa các thành viên trong gia đình (trước hết là của người phụ nữ) sẽ thay đổi, sẽ xuất hiện những tâm thế mới và những tâm thế trước đây sẽ thay đổi, trong đó có tâm thế sinh đẻ và giáo dục con cái. 80
  3. TÂMLÝHỌC DÂN số Trong việc nghiên cứu khía cạnh “hoàn cảnh của đời sống gia đình” cần tính đến cậc mối liên hệ theo những hướng khác nhau của các nhân tố: ảnh hưởng của các điều kiện sống của gia đình đến hành vi sinh đẻ của nó, và ngược lại, ảnh hưởng cùa hành vi sinh đẻ đến hoàn cảnh gia đình. Các công trình nghiên cứu ờ Liên Xô trước đây đã phát hiện có hai loại liên hộ giữa các nhân tố trên. Chảng hạn, theo các số liệu của I.Ph.Đêmenchiêva, thì việc sinh con trùng với việc định hướng lại yêu cầu nghề nghiệp cùa cặp vợ chồng. Nhu cầu hoạt động nghề nghiệp của những phụ nữ đang làm việc bị xếp sang hàng thứ hai, tạm thời nhường chỗ cho yêu cầu chăm sóc con và giao tiếp với con cái. Người ta thấy có những thay đổi nhất định trong cấu trúc cùa nhu cầu nghề nghiệp ở người cha. Nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn trở thành bức bách hơn, nó là một điều kiện để nâng cao tiền lương. Các kế hoạch về nghề nghiệp cùa người bô' trẻ cũng có thể được thay đổi. Ví dụ, nảy sinh khả năng chuyển sang một ngành sản xuất khác, mà ở đó các cơ hội đảm bảo cho đứa con được nhận vào nhà trẻ nhiều hơn (14). Một nghiên cứu khác đã chỉ ra mối liên hệ ngược cùa các nhân tố- ảnh hưởng của các điều kiện sống đến hành vi sinh đỏ. Có ba kiểu gia đình căn cứ theo tính chất sử dụng thời gian rỗi: kiểu thứ nhất, sử dụng thời gian rỗi ở nhà (64%), kiểu thứ hai- ngoài gia đình (7%), kiểu thứ ba- kết hợp cả hai kiểu trên (29%). Các chỉ số về hành vi sinh đỏ gia đình và tâm thế sinh đỏ cùa các cặp vợ chỏng thuộc kiểu thứ nhất là cao hơn cả. Những nghiên cứu phản ánh mối liên hệ của tỉ lệ sinh đẻ và các điều kiện ỉống cùa gia đình ở các giai đoạn phát triển
  4. TRẤN TRỌNGTHỦY khác nhau của nó cung cấp cho ta nhiều thông tin có giá trị. Ví dụ, một công trình nghiên cứu ở Matxcơva đã cho thấy: Việc sinh đứa con thứ hai đã làm cho gia đình trở nên kém sung túc hơn về phương diện vật chất so với các gia đình một con, Sự vận hành cùa gia đình ở một giai đoạn phát triển cụ thể của nó, tất nhiên, sẽ tiền định cả những khả năng, lẫn ý định của vợ chồng trong việc thực hiện hành vi sinh đẻ. Điều này có nghĩa là, tỉ lệ sinh đẻ nói chung phụ thuộc không phải vào số lượng các cuộc hôn nhân, không chỉ vào tương quan giữa đàn ông và đàn bà ở tuổi sinh đẻ trong dân cư, mà trước hết vào số lượng các gia đình ở một giai đoạn phát triển nhất định cùa mình, và những tâm trạng kèm theo. Không phải ngẫu nhiên mà những năm gần đây trong dân số học đã phát triển một hướng mới, theo đó gia đình được xem xét trong sô những điều kiện của tỉ lệ sinh đẻ tiềm tàng và hiện thực. Liên quan tới điều dó, mối tương quan của gia đình với sỏ' lượng con khác nhau, ảnh hưởng đến việc sinh đẻ, của các đặc tính văn hoá và kinh tế- xã hội của bố mẹ, cùa tính tích cực kinh tế của họ, của việc tổ chức công việc nội trợ, các mức độ đô thị hoá gia đình (nghĩa là mức độ trang bị cho gia đình bằng kĩ thuật hiện đại), của sự hiện diện các chuẩn mực hành vi đặc trưng cho dân thành thị., đã được phân tích. Kết quả rất quan trọng là, người ta xác định được tỉ trọng của gia đình thuộc kiểu này hay kiểu kia trong cấu trúc dân cư và đưa ra dự báo về sự phát triển của chúng. Thời gian gần đây, các nhà xã hội học và dân sô' học đã cô gắng vạch ra mối liên hệ giữa sô' lượng con và vị trí xã hội của bố mẹ, trình độ học vấn của họ, tính chất và nội dung lao động, thu nhập, điều kiện về nhà ở, sự phân công lao động
  5. TÂMLÝHỌC DÂN số trong gia đình, Chảng hạn, những nhà xã hội học Extôni đã nghiên cứu sự tự xác định cuộc đời của thanh niên sinh ra trong những năm 1948-1949. Họ đã vạch ra rằng, việc xây (lựng gia đinh ở tất cả những thanh niên này đều trùng hợp với thời kì tự xác định về mặt xã hội, và diễn ra ở lứa tuổi 21,1- 26,2 tuổi. Trong đó ở các chuyên gia có trình độ học vấn cao thì việc xây dựng gia đình được bắt đầu chính ở lứa tuổi này; ở các công nhân chuyên nghiệp- ở lứa tuổi sớm hơn (20,5 tuổi) và bước vào giai đoạn kết thúc trước 25,8 tuổi. Ở hơn một nừa sô công nhân được nghiên cứu, người ta thấy có một khoảng thời gian xác định giữa khi kết thúc con đường học hành, khi có một vị trí xã hội và xây dựng gia đinh. Cũng theo kết quả của những nghiên cứu này thì, ở một bộ phận thanh niên việc tốt nghiệp và việc có con trùng hợp với nhau, điều đó làm cho quá trình tự xác định cuộc đời trở nên phức tạp. Nhưng nếu gia đình được xây dựng ở lứa tuổi trưởng thành hơn, thì sẽ có con muộn hơn, sau khi mà hai vợ chồng đã chung sông trong một thòri gian không bận bịu về con cái. Điều này có nghĩa là, việc kê' hoạch hoá sinh đẻ phần lớn xảy ra ở lứa tuổi trưởng thành. Xu thế chung là như vậy. Nhưng những khác biệt cơ bản được thấy rõ tuỳ thuộc vào vị trí xã hội. Ở những công nhân chuyên nghiệp thì sự chênh lệch giữa lúc kết hôn và khi có con là 1,1 -1,6 năm, ở các chuyên gia có trình độ học vấn cao là 2,1-2,3 năm. Cho nên, phần lớn các chuyên gia có trình độ học vấn cao đều kế hoạch hoá việc sinh đẻ. Các chuyên gia làm việc trong các xí nghiệp cưới vợ và lấy chồng muộn hơn những người khác và kế hoạch hoá thời gian sinh con đầu lòng rõ rệt hơn. Nhưng ở đâu đó, ở lứa tuổi 26 thì
  6. TRÁN TRỌNG THÙY việc kết hôn và sinh con trùng hợp nhau về thời gian. Mội bộ phận phụ nữ ở lứa tuổi này đã sinh con trong khi chưa có chồng. Rõ ràng, hành vi sinh đẻ chịu ành hường mạnh mẽ cùa nhân tố lứa tuổi, chính xác hơn, chịu tác động của nhân tô' tâm lí- phản ứng của phụ nữ đối với sự không có con của mình. Các công trình nghiên cứu ở Liên Xô trong giai đoạn hiện đại sau này về vấn đề gia đình và việc sinh đẻ đã dần dần thoát khỏi việc xác định sự phụ thuộc của hai hoặc vài nhân tố sô' lượng, ví dụ, kích thước nhà ở và số con trong gia đình, và chuyển sang việc đánh giá phụ thuộc giữa những phản ứng tâm lí đối với hoàn cảnh của đòfi sống gia đình và hành vi sinh đè. Đó là một bước tiến quan trọng trong việc nhận thức về dân sổ, vì trong hành vi của cá nhân thì thường không phải các nhân tô thực, mà là sự đánh giá chủ quan về chúng, có ý nghĩa quyết định. Đặt vấn đề như vậy là phù hợp với đối tượng của tâm lí học dân số. Chẳng hạn, M.Aruchiunhian đã chỉ ra mối liên hệ qua lại giữa các giai đoạn trong chu kì cùa gia đình, số con trong gia đình và sự thoả mãn của đôi vợ chồng về sự phân công lao động trong gia đình. Những người tham gia cuộc thăm đò (công nhân viên chức và các chuyên gia có trình độ học vấn cao), được chia làm ba nhóm: có con không quá 6 tuổi, có con 6-16 tuổi và có con đã lớn. Trong nhóm thứ nhất chủ yếu gồm những người ờ lứa tuổi dưới 30, ở đây khoảng một nửa số gia đình có 1 con; trong nhóm thứ hai- các cặp vợ chổng đã cưới nhau trên 9 năm và có 2 con; trong nhóm thứ ba- các cặp vợ chồng trung niên (hơn 50% trường hợp các con không sống với cha mẹ). Kết quả cho thấy: nhóm thứ hai có mức đô thoả
  7. TÂMLÝHỌC DÃN số mân thấp nhất vé kiểu phân công trách nhiệm đã được chấp nhận trong gia đình. Hơn nữa điều này cũng đúng với cả những gia đình bình đẳng, ở đó không có sự phân chia rạch ròi các trách nhiệm gia đình cho “đàn ông” và “đàn bà” riêng rẽ, lẫn cả với các gia đình truyền thống, ở đó có sự phân công rạch ròi như thế. Các công trình nghiên cứu này cũng đã ghi nhận rằng các gia đình mà ở đó sự phân công lao động trong gia đình theo kiểu truyền thống chiếm ưu thế, thì sự không trùng lặp giữa số con dự định theo kế hoạch và số con thực tế nhiều hom gấp 2 lần so với trong gia đình bình đẳng (5). Thái độ đánh giá đối với hoàn cảnh sống của gia đình có thể được thể hiện không chỉ ở mức độ thoả mãn về chúng, mà cả trong sự bộc lộ những điều kiện mong muốn. Ví dụ, những nghiên cứu tiến hành ở Leningrad đã chỉ ra rằng: lứa tuổi của con cái có ảnh hưởng đến việc hình thành sự lựa chọn nơi cư trú mong muốn, nghĩa là đến nguyện vọng sống chung, gần hay xa những người ruột thịt. Theo mức độ phát triển của gia dinh và do đó, sự lớn lên của con cái, ở cha mẹ sẽ xuất hiện nguyện vọng muốn được sống gần gũi hơn (ví dụ, trong cùng một nhà) với những đại diện của thế hệ già- ông và bà. Có nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh về vai trò cùa các nhân tô' tâm lí trong sự vận hành của các gia đình trẻ tuổi. Các công trình này cho phép ta nghĩ rằng, ở những thời kì (lầu của cuộc sống vợ chồng đã nảy sinh những trải nghiệm lâm lí do điẻu kiện sống tạo nên. Chẳng hạn, theo kết quả nghiên cứu của các nhà xã hội học Xô viết, chỉ có 7% những gia đình mới xây dựng là sống trong các căn hộ riêng biệt, còn phần lớn (44%) sống cùng với bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng, 85
  8. TRÁN TRỌNG thúy chừng 80% thanh niên lập gia đình phải yêu cầu sự giúp đ ỡ vệt chất của cha mẹ. Trong những điều kiện như vậy các ổn g b
  9. tâm lý học dân só cửa aia đình đối với các hoàn cảnh sống khác nhau của mình và làm thay đổi hành vi sinh đẻ theo hướng mong muốn. Như ta đã thấ\, thường không phải chính các điều kiện khách quan ảnh hưởng đến các hành vi sinh đẻ, mà là vấn đề con người đã cảm nhận những điều kiện đó như thế nào. Nhưng cái gì điều khiển sự tri giác cùa con người, những hoàn cảnh kèm theo nào là quan trọng trong vấn đề này? Chúng có quan hệ với những cơ chế chung cùa sự tri giác và hình thành việc đánh giá hay không, có phụ thuộc vào những đặc điểm nhân cách hay sự can thiệp của những người xung quanh hay không? Đ ó là những vấn đề cần được Tâm lí học dân sô' nghiên cứu. 2. K hía cạnh các biểu tượng về cuộc sốn g gia đình và các ỉh àn h viên củ a nó ở đây chúng ta cần xem xét các vấn đề tri giác hiện thực xung quanh trong sự phụ thuộc vào kinh nghiệm , tri thức, nhu cầu, hứng thú của cá nhân (trong mức độ mà chúng có liên quan với sự hình thành ở con người hình ảnh về gia đình và ảnh hưởng cùa nó đến hành vi sinh đẻ). Hình ảnh gia đình- hạnh phúc, tuyệt vời, lí tưởng, điển hình.v.v... bộc lộ như là một nhân tố điéu chỉnh xã hội đối với hành vi sinh đẻ, được thực hiện qua những tượng trưng, tiêu chuẩn và các yếu tô' khác cùa ý thức xã hội. Các hình mẫu về người chồng, người vợ, đứa con lí tường hay tốt đẹp cũng có ý nghĩa điều chỉnh trong tâm lí của hành vi sinh đẻ. V iệc mô tả vai trò và cơ ch ế nảy sinh các hình ảnh khác nhau về cuộc sống gia đình, sức mạnh tiềm tàng cùa chúng trong việc tác động vào hành vi sinh đẻ đang được đặt ra trước tâm lí học dân số.
  10. TRÁN TRỌNIG THỦY Các hình ảnh về gia đình có thể được gắn liền với cá c đặc tính khác nhau của cuộc sống: với sự tổ chức các tác đ ộn g qua lại giữa hai vợ chổng, với việc giáo dục, với vai trò của con cái trong gia đình, với các biểu tượng về một cuộc sống bìah yên và hạnh phúc, với một tương lai m ong m uốn.v.v,.. V í dụ, nhà xã hội học Anh J.Busfild và M. Paddon đã phân loại cá c hình ảnh về gia đình theo 2 vectơ: 1. Các đặc tính và hoàn cảnh của đời sống gia đình (chủ nghĩa tập thể, phương tiện vật chất, biểu tượng về những điều tốt đẹp, tích cực và bình yên). 2. Sự phán đoán về cuộc sống gia đình (quan niệm sống, vai trò làm cha mẹ, giá trị của con cái, qui mô của gia đình, sự mua sắm của gia đình, khoảng thời gian giữa các lần sinh con, việc kiểm soát sự sinh đẻ). Theo hai vectơ nêu trên, các tác giả đã thu được những hình ảnh cụ thể về cuộc sống gia đinh được nghiên cứu trong m ối liên hệ với việc sinh đẻ (46). Sự phân loại trên đây đáp ứng được những yêu cầu theo quan điểm tâm lí học đối với vấn đề sinh đẻ: trong đó kết hợp được các đặc tính khách quan về hoàn cảnh của cuộc sống gia đình và ý kiến về nó. Nhưng ý đồ của các tác giả không được duy trì đến cùng, bởi vì trong số các đặc tính và hoàn cảnh của cuộc sống gia đình cũng xuất hiện các biểu tượng về cái tốt, tích cực và yên bình, là những biểu tượng đã rút ra từ lĩnh vực các hiện tượng chủ quan và cần phải xếp vào những phán đoán về cuộc sống gia đình. Rõ ràng là, con người nhìn nhận lí tưởng của gia đình một cách khác nhau, đánh giá một cách khác nhau về các mặt quan trọng nhất của cuộc sống gia đình. Chẳng hạn, sinh viên 88
  11. tâm lý học dân só Trường Đại học Tác-tu (Liên Xô) đã đưa vào “mô hình hôn nhân lí tưởng”: những quan hệ đạo đức giữa vợ và chổng- tôn trọng nhau, hiểu biết lẫn nhau, tin tưởng nhau (được đánh giá cao hơn cả); Những quan hệ xúc cảm- tình yêu, sự dịu dàng (được đánh giá tương đối cao). Các nhà nghiên cứu cũng thu được những tài liệu, qua đó có sinh viên cho rằng nên thay khẩu hiệu “chúng ta hãy lấy nhau, vì chúng ta yêu nhau” bằng một khẩu hiệu mới “chúng ta hãy lấy nhau, vì chúng ta tôn trọng và yêu thương nhau”. Sinh viên Extôni đánh giá cao những phẩm chất nhân cách của người chồng (vợ) lí tưởng như chân thành và tốt bụng. Sinh viên (đặc biệt là nữ) cho trí thông minh của người chổng (vợ) tương lai là quan trọng; nữ sinh vidn nhìn thấy trong người chồng lí tưởng các đặc trưng như lòng dũng cảm, tính cứng rắn, sự tận tâm. Mô hình được thừa nhận chung về các quan hệ vợ chồng là: chồng và vợ phải được phân chia trách nhiệm gia đình ngang bằng. Công trình nghiên cứu ở Extôni đã không xác nhận m ô hình cho rằng: đa số nữ thanh niên Extôni muốn có một người chổng có nam tính, mạnh mẽ, có học vấn và tính tích cực cao hơn trong công tác xã hội, và để bù đắp lại họ sẽ sẵn sàng nhận về mình phần lớn các công việc gia đình (29). Các công trình nghiên cứu khác còn chi ra rằng, cần phải xem sự trội hơn đôi chút về trí tuệ cùa người chồng là một đặc trưng của những cuộc hôn nhân “hạnh phúc”. Chính bản thân phụ nữ đã nhấn mạnh điều đó (27). Những biểu tượng về con cái có thể đóng vai trò xác định trong hành vi sinh đẻ và trong cuộc sống gia đình nói chung. Nhưng về vấn đề này còn có nhiều câu hỏi chưa được giải đáp
  12. trán trọng thiùy một cách khoa học, ví dụ như: cha mẹ nhìn nhân con cái mình ở một lứa tuổi nào đó như thế nào? Họ muốn giáo dục cho Oon gái và con trai những nét tính cách nào? Có những trở ngại nào trên con đường giáo dục nhân cách với những đặc điểm xác định? Những biểu tượng đang tồn tại về con cái có ảnh hưởng đến hành vi sinh đẻ hay không?.V .V .. Người ta đã thu được những số liệu khác nhau đối với giá trị của con cái trong cuộc sống của hai vợ chổng. Một loại các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong những giá trị cùa hôn nhân thì các giá trị đạo đức được đề lên hàng đầu: sự tôn trọng lẫn nhau, sự hiểu biết lẫn nhau, lòng chung thủy, sự tin cậy. Trong hệ thống giá trị của hôn nhân thì con cái chiếm vị trí thứ ba hoặc thứ tư (7). Theo các tài liệu nghiên cứu ở Extôni thì những người mới kết hôn đánh giá con cái tương đối cao. Những người trưởng thành hơn (bắt đầu khoảng 30 tuổi) thì đánh giá con cái cao hơn. Theo kết quả nghiên cứu ờ Latvia, thì phần lớn những người được hỏi đều xếp con cái và hạnh phúc gia đình vào những giá trị quan trọng nhất. Có lẽ những kết quả khác nhau trên đây là do những khác biệt về phương pháp thăm dò tạo nên. So sánh những sô' liệu của hai cuộc thâm dò thanh niên, tiến hành ở Extôni năm 1970 và năm 1979, cho thấy rằng: giá trị của con cái trong những năm gần đây được tàng lên, đặc biệt trong nữ sinh viên. Những người được hỏi cho rằng, trong gia đình lí tưởng thì con cái (ít nhất là dưới 3- 4 tuổi) cần phải được giáo dục tại nhà, và cần có sự tham gia của cả cha lẫn mẹ vào côn g việc đó. 90
  13. tâm lý học dãn sổ Những biểu tượng về các đặc tính lí tưởng của hôn nhân và của người chồng (vợ) không phải là bất biến. Thăm dò những cặp vợ chổng mới cưới, các nhà xã hội học cho biết: trước ngày cưới các cặp vợ chồng tương lai ít phê phán đối với mình và người chống (vợ) tương lai nhất: sự đánh giá về minh và người chồng (vợ) tương lai gần với lí tưởng. Trong vòng năm năm và nói chung trong cuộc sống chung tốt đẹp, thì sự tri giác lẫn nhau cùa hai vợ chồng sẽ trở nên chính xác hơn, sự đánh giá về nhau gần gũi hơn, nhưng vẫn còn cao hơn sự tự đánh giá. Ngược lại, ờ những cuộc hôn nhân không thành công, sự đánh giá về nhau nhanh chóng bị hạ thấp và trờ thành thấp hơn sự tự đánh giá. Các cặp vợ chổng hài lòng với hôn nhân của m ình thì cho rằng người chồng (vợ) giống với lí tưởng của m ình, còn những cặp vợ chổng không hài lòng với cuộc hôn nhân cùa mình thì ngược lại, đối lập nó với thần tượng cùa m ình (đặc biệt người vợ). Đ ánh giá các công trình nghiên cứu, chỉ ra ảnh hưởng của các hiểu tượng về cuộc sống gia đình và các thành viên của nó đến hành vi sinh đẻ, v . v . Bôicô có nhận xét như sau. Thứ nhất, trong các công trình nghiên cứu chủ yếu các tác giả đều theo quan điểm nhân tố: vạch ra nội dung của cái lí tưởng về gia đình, về người bạn đời, nhưng không chú ý đầy đủ đến vai trò của biểu tượng này trong cuộc sống gia đình, của sự điều chỉnh cắc quan hộ và hành vi sinh đẻ. Không loại trừ là, việc lí tưởng hoá c u ộ c sống gia đình và các đặc tính cùa người bạn đời có ảnh ỉhường xấu đến các quan hệ vợ chồng sau này, trở thành nguy'ên nhân cùa sự tri giác xuyên tạc các hoàn cảnh sống và hành vi ứng xừ với nhau, bi kịch hoá những xung đột gia đình.
  14. TRẨN TRỌING THỦY Thứ hai, các nhà nghiên cứu không đặt vấn đề hình thành những biểu tượng đúng đắn về cuộc sống gia đình và vổ cá c thành viên của nó. ở đây nảy sinh vấn đề về việc chuẩn bị ch o thanh niên bước vào cuộc sống gia đình, về việc hìnhí thành những nhu cầu định hướng giá trị hợp lí của cá nhân. Nhurng điều đó chưa đù. Cần phải chú ý đến những phương tiộn có thể tác động đến nhu cầu và định hướng của cá nhân. M ột trong những phương tiện đó là các biểu tượng về cuộc sống g ia đ\nh và các thành viên của nó. II. CÁC MỐI QUAN HỆ QUA LẠI TRONG GIA ĐÌNH V À VẤN ĐỀ SINH ĐẺ Vấn đề các mối quan hệ qua lại trong gia đình còn ít được nghiên cứu. Có thể chia ra một số khía cạnh mà tâm lí h ọc dân số có nhiệm vụ phải nghiên cứu. 1. K hía cạnh giao tiếp tron g gia đình Sự giao tiếp trong gia đình có ảnh hường đến việc sinh đẻ qua những đặc điểm giao tiếp giữa các thành viên của gia đình, được dựa trên những định hình giao tiếp cụ thể, những quan hệ lẫn nhau và hành vi theo vai, phù hợp với các trách nhiệm hoạt động cùa các thành viên trong gia đình mà cá nhân đã lĩnh hội được. Giao tiếp có mặt bên trong và mặt bên ngoài. Mặt bên ngoài được đặc trưng bởi tần số và hình thức tác động qua lại. Mặt bên trong là nội dung tâm lí cùa nó, chúng có tác nhân và các hậu quả tâm lí của nó, chúng có tác động qua lại trong gia đình đối với từng thành viên. Cần nói rằng, các biểu tượng của con người về nhau và về cuộc sống hôn nhân được ẩn dấu đằng sau mặt bên trong của sự giao tiếp trong gia đinh. Chính tình 92
  15. tâm lÝ HỌC DÁN SỎ hình nãy đã thúc đẩy các nhà khoa học đặt câu hỏi về những ngucn gốc bên trong của tính ổn định của hôn nhân và của hạnh phúc gia đình- về tình yêu và sự tôn trọng lẫn nhau, về sự tương đồng, vẽ sự hiểu biết nghĩa vụ và trách nhiệm, các tâm thế đạo đức và các đặc điểm nhân cách của hai vợ chổng. Sự xuất hiện cái gọi là những liên kết vợ chồng có vấn dề được cắt nghĩa bằng những khác biệt giữa những đặc tính bên ngoài của giao tiếp và những tiền đề bên trong của nó. Đặc trưng cùa những sự liên kết đó là sự căng thẳng tâm lí, dồn nén, xung đột, cãi cọ; chúng đều có nguồn gốc của mình là sự không được thoả mãn nhu cầu của Hiột trong hai người (vợ hoặc chồng) về các xúc cảm dương tính, vé những thể hiện âu yếm, chăm sóc, dịu dàng, quan tâm. Đúng như nhà nữ khoa học Extôni Đ. Kutka nhận xét, chất lượng cùa hôn nhân được bộc lộ ở sự vận hành bên trong của gia đinh và phụ thuộc vào những đánh giá chủ quan của hai vợ chồng về các m ối quan hệ liên nhân cách của mình, về sụ quyến luyến và ùng hộ lẫn nhau của mình. Một số nhà nghiên cứu phương Tây cũng nhận thấy có sự phụ thuộc của giao tiếp gia đình vào những tiền để bên trong của nó. V í dụ, các nhà nghiên cứu Canada W .H. Masters và V.E. Johnson đã phát biểu quan điểm đó. Theo họ, giao tiếp liên nhân cách trong hôn nhân đòi hỏi một tâm thế cùa hai người đối với việc duy trì gia đình, đối với sự tin cậy lẫn nhau như là một tiền đề cùa sức sống cùa gia đình, như là một khả năng để thảo luận cởi m ở những vấn đề, như là sự sẵn sàng tiếp nhận nhau, như là một kĩ năng hỗ trợ cho việc thực hiện các nhu cầu của nhau (64). Trước hết cần nhấn mạnh rằng, tính chất các mối quan hệ bên trong gia đình phần nhiều phụ thuộc vào các nhân tô xã hội. 93
  16. TRÁN TRONG T húy Trong số các nhân tố đó, những nhân tố sau đây có ý nghĩa hàng đầu: thái độ của xã hội đối với hôn nhân, gia đinh trẻ em; sự tham gia của phụ nữ vào sản xuất xã hội. Chẳng hạn, như mọi người đều biết, vị trí của con cái trong gia đình phin nhiều là do vai trò và giá trị của chúng trong đời sông xã hòi quyết định. Tất nhiên, sự định hướng của xã hội được phàn ánh trong những tâm thế của cha mẹ đối với con cái của mình: con cái trong gia đình- giá trị, niềm tự hào, biểu trưng của hạnh Dhúc. Các nhà nghiên cứu phương Tây đã nhiều lần c ố theo dõi sự biến đổi vị trí của con cái trong gia đình và xã hội triớc dây và hiện nay. Chẳng hạn, C.D. Saal (Hà Lan) đã kết luín rằng, trong suốt nhiều thế kỉ thiếu niên được coi là người lớn thu nhỏ lại. Trong xã hội tư bản hiện đại, ông cho rằng trong quá trình lớn lên đứa trẻ gặp phải hàng loạt những “rào chắn”. Trong số đó có: sự không thể hiện tính người lớn hện đại, khoảng cách trong quan hệ giữa thanh niên và người lớn, sự mâu thuẫn giữa các giá trị và chuẩn mực của gia đìni và xã hội, hệ thống các vai trò được phát triển m ạnh..(74). Có thể tranh cãi về nội dung và số lượng các “rào chắn” do C D. Saal nêu ra, nhưng cần thừa nhận rằng: vị trí của đứa trẻ tnng gia đình, thái độ của cha mẹ đối với nó, trong thực tế, phầi nhiều được qui định bởi những hiện tượng xã hội xảy ra cìng một lúc với quá trình xã hội hoá nhân cách. Đ ồng thời, có một sô nhà nghiên cứu, ví dụ các nhà nghiên cứu của Pháp khỏng phải không có cơ sở để chỉ ra rằng: vai trò của xã hội ton g sự hình thành nhân cách ngày càng trờ nên quan trọng (6 5 . Xã hội tư bản, nơi mà quyền tư hữu thống trị, đầy ẩ y mâu thuẫn xã hội mang tính đối kháng, nơi mà sự bóc lột của con 94
  17. tâm lý học dân số người đối với con người được hợp pháp hoá, thường làm hư hỏng trẻ em , làm đồi truỵ thế hệ đang lớn lên. Không khí tâm lí trong gia đình, tâm trạng của vợ chồng và con cái, sự bền chặt của hôn nhân... là hệ quả của giao tiếp trong gia đình. Đến lượt mình, tính chất của sự giao tiếp trong gia đình, tất nhiên phụ thuộc vào phẩm chất nhân cách của các thành viên của nó, vào văn hoá, tình yêu thương quyến luyến lẫn nhau của họ. Giao tiếp trong gia đình có chức năng như những hiện tượng tâm lí- xã hội, trong đó gồm: chức năng điều chinh, nhân thức, biểu cảm , kiểm soát xã hội, xã hội hoá, ủng hộ tình cảm ... Các nhà nghiên cứu cùa nhiều nước khác nhau đã nhiều lần cô gắng vạch ra xem khối lượng và chất lượng giao tiếp trong gia đình có liên quan với hành vi sinh đẻ hay không. Njíười ta đã thu được những số liệu trái ngược nhau về vấn đề này. Chảng hạn, trong những công trình nghiên cứu được thực hiện tại Thổ Nhĩ Kỳ, người ta đã chỉ ra rằng: mức độ “gần gũi của vợ chồng” càng cao, thì số con trong gia đình càng ít. Đ ổn g thời ý định sinh con càng được phát biểu thường xuyên bao nhiêu, thì tính tất yếu phải củng c ố các liên hệ hôn nhân càng được ý thức bấy nhiêu. Nhân tố giao tiếp vợ chồng làm giảm mức độ thích con trai và góp phần làm giảm số lượng con lý tưởng và thèm muốn. Nhưng đa số các nhà nghiên cứu phưưng Tây ghi nhận tính không có hiệu quả cùa sự giao tiếp trong gia đình hiện đại và xem nó là một trở ngại đối với việc điều chỉnh sinh đẻ. Tính mâu thuẫn cùa các tài liệu thu được là do các nhà nghiên cứu không chú ý đầy đủ đến phân kiểu học gia đình và
  18. TRÁN TRỌNG THỦY các quan hệ gia đình. Chính trong các gia đình thuộc một kiểu cụ thể (có số lượng con nhất định và những dấu hiệu xã hội- nghề nghiệp xác định cùa vợ chồng, điều kiện vật chất, sự phân phối trách nhiệm , sự tham gia vào sản xuất xã hội.v.v... nhất định), rõ ràng, sẽ nảy sinh những hình thức quan hộ g ia đình cụ thể. Đ ến lượt mình, một kiểu quan hệ gia đình này nọ (phụ thuộc vào các nhân tố như chiều sâu, tần số, nội dung, phong cách giao tiếp, cũng như vào sự liên hợp của các nhân tố ấy) có thể có ảnh hưởng khác nhau đến hành vi sinh đẻ không chỉ của hai vợ chồng, mà cả con cái cùa họ nữa. Tuy nhiên, ngoài tính chất của sự giao tiếp trong gia đình, các nguyên tắc đạo đức- luân lý cùa việc tổ chức sự giao tiếp đó cũng có thể có ảnh hường đến hành vi sinh đẻ. Sự thật, những nguyên tắc đó cũng quy định cả sự giao tiếp trong gia đình. Trong các tài liệu X ô V iết, người ta nhấn mạnh rằng gia đình dược dựa trên nền tảng của các nguyên tắc nhân bản- chủ nghĩa tập thể, tình yêu, thiện cảm, tình bạn, sự hiểu biết lẫn nhau và lòng độ lượng. Trong một mức độ đáng kể, các nguyên tắc đó thúc đẩy các gia đình thực hiện chức năng sinh đẻ của mình. Chẳng hạn, sự giảm bớt thời gian rỗi cùa người phụ nữ sau khi sinh con sẽ không gây ra sự căng thẳng thôm trong gia đình, nếu như giữa hai vợ chồng tổn tại những quan hệ tốt đẹp. T heo sự khẳng định của nhiều nhà nghiên cứu, thì các nguyên tắc trong cu ộc sống gia đình quan trọng hơn các nhân tố vật chất, cũ n g như những thành công cùa từng thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, vai trò cùa những nguyên lắc này trong hành vi sinh đẻ còn chưa được vạch ra một cách 96
  19. TÂM LÝ HỌC DÂN số đổy đù. Đ ồng thời người ta cũng xác nhận rằng, tính chất giao tiếp giữa cha mẹ với nhau có để lại dấu ấn lên thái độ cùa họ đối với con cái. N gười ta ch o rằng, những quan hệ trong gia đình có ảnh hưởng đến đứa con từ trước khi nó ra đời. Hoàn cảnh căng thẳng trong gia đình có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của đứa con tương lai. Những đứa trẻ như thế thường hay phải được nuôi dưỡng nhân tạo sớm hơn. Sự kiệt sức hay suy giảm sức khoẻ của bà m ẹ tương lai sẽ dẫn đến rối loạn tuần hoàn não của thai nhi. Những đứa trẻ sơ sinh trong các gia đình có xung đột bị những tác động có hại khác nhau nhiều hom, hay ốm yếu hơn. Con cái của những gia đình không hạnh phúc thường có mức độ hoạt động nhận thức và tính tích cực xã hội thấp (40). H.A. Jansen (Hà Lan), sau khi nghiên cứu các m ối quan hệ trong gia đình hạt nhân, đã đi đến kết luận rằng: sự bất lực trong việc giải quyết các xung đột và hậu quả của sự bất lực đó đối với việc đạt được sự tâm tình giữa hai vợ chồng đã trở nên nguyên nhân chính của tình trạng xã hội hoá “bệnh lý” của đứa trẻ (75). Một trong những khía cạnh của các m ối quan hệ trong gia đình còn ít được nghiên cứu là sự giao tiếp của các anh em và chị em. M ôi quan hệ qua lại của các con lớn và con bé trong gia đình trong những trường hợp riêng lẻ mang tính chất không thân thiện. Những xung đột giữa các anh em và chị em có khả náng ảnh hưởng đến tâm thế sinh đẻ của con người. Khi nhớ lại tuổi thơ cùa mình, người ta có thể đi đến kết luận rằng: trong gia đình tốt nhất chỉ nên có một con. Còn những quan hệ tốt đẹp giữa các anh em và chị em, ngược lại, có thể góp phần • 97
  20. TRÁN TRỌNG T'HÜY hlnh thành tâm thế về một gia đình đông con, coi đó là lý tưởng, là điều mong muốn. Không nghị ngờ gì nữa, sự lành mạnh hoá các quan hệ giữa hai vợ chồng, sự nâng cao tiềm năng giáo dục của gia đình và văn hoá giao tiếp nếu không trực tiếp thì cũng g iầ n tiếp có ảnh hường đến hành vi sinh đẻ. Sự bình thường ỉhoá việc giao tiếp trong gia đình sẽ tạo nên niềm lạc quan, dẫn (đên sự thống nhất và thái độ tôn trọng lẫn nhau của hai vợ chồ>ng, và do đó nâng cao khả năng sử dụng khéo léo các phương ttiện tránh thai. Ngược lại, trong những quan hệ xung đột có thể inảy sinh sự có thai không m ong muốn, và sự ra đời cùa những tđửa trẻ ngoài ý muốn. Đến lượt mình, sự có mặt của những (đửa con trong gia đình sẽ có thể nâng cao khả năng của rhiững quan hệ tốt giữa hai vợ chổng. Chẳng hạn, theo các số liệu cùa B.A. Babin thì trong tuyệt đại đa số trường hợp, những ng:ười có con đánh giá các m ối quan hệ lẫn nhau trong gia đìnn 'Cao hơn so với những người không có con. 2. K hía cạnh hành vi theo vai trò Khía cạnh này đề cập đến mối liên hệ cùa các đặc điểm tr
nguon tai.lieu . vn