Xem mẫu
- Tìm hiểu lôgíc kinh tế trong chính sách đối ngoại của Mỹ
Nguyễn Đình Luân
Nhìn chung, chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia đều nhằm ba mục tiêu
cơ bản là an ninh, phát triển và phát huy ảnh hưởng của quốc gia trên thế giới.
Ba mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với nhau và thứ bậc ưu tiên của mỗi mục
tiêu trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại quốc gia phụ thuộc vào
điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn nhất định. Chẳng hạn trong thời
kỳ chiến tranh thì rõ ràng mục tiêu về an ninh quốc gia phải được đặt lên hàng
đầu, tuy nhiên vẫn phải chú trọng đúng mức phát triển và phát huy ảnh hưởng vì
tiềm lực kinh tế mạnh là cơ sở xây dựng lực lượng quốc phòng mạnh. Chính
sách đối ngoại của Mỹ cũng theo đuổi ba mục tiêu trên và bài nghiên cứu này sẽ
cố gắng chỉ ra lôgíc kinh tế đằng sau các hoạt động quốc tế của Mỹ.
Sự hình thành nước Mỹ có liên quan chặt chẽ đến "giấc mộng vàng" của
những dòng người nhập cư từ lục địa châu Âu và nhiều nơi khác trên thế giới,
và như vậy lợi ích kinh tế và chủ nghĩa thực dụng một cách tự nhiên trở thành
những yếu tố quan trọng chi phối tư duy chính trị đối ngoại ở Mỹ qua các thời
kỳ lịch sử.
1. Mở rộng lãnh thổ bằng ngoại giao điền thổ, thôn tính và làm giàu
bằng chiến tranh, buôn bán vũ khí
Đầu thế kỷ XIX, lợi dụng tình thế khó khăn của Pháp, Mỹ đã nhanh chóng
mở rộng lãnh thổ bằng "ngoại giao điền thổ". Tháng 51803, với 15 triệu USD
và với giá 3 xen (1 xen=1/100 USD)/ một mẫu đất, chính quyền của ông
Jefferson đã mua toàn bộ vùng Louisiana từ tay Pháp vì lúc đó Napoleon rất cần
tiền để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với Anh. Cuộc mua bán ngoạn mục này đã
làm cho diện tích của Hoa Kỳ tăng lên gấp đôi. Tiếp theo là các vụ mua bán
- khác, gây chiến tranh, sáp nhập nhằm mở rộng lãnh thổ: mua lại Florida từ Tây
BanNha (1819), sáp nhập Texas (1845).
Năm 1846 Mỹ tuyên bố chiến tranh với Mêxico và sáp nhập bang
California và New Mexico vào Mỹ. Năm 1848 sau khi ký hiệp ước hoà bình Mỹ
Mêxico, chấm dứt chiến tranh giữa hai nước, Mêxico buộc phải từ bỏ chủ
quyền đối với Texas, California, Arizona, New Mexico, Utah, Nevada (1/2 lãnh
thổ Mexico); Mỹ và Anh ký hiệp ước phân định đường biên của Oregon dọc vĩ
tuyến 49. Năm 1853 Mỹ và Mêxico ký hiệp định Gadsdeh và Mỹ chiếm thêm
140.000 km2 lãnh thổ của Mêxico. Năm 1867, tranh thủ cơ hội khi Nga đang gặp
khó khăn về tài chính, Mỹ cũng đã nhanh chóng mua lại toàn bộ vùng Alaska
rộng lớn từ Nga với cái giá rẻ khó tưởng tượng 7,2 triệu USD. Vùng đất này có
vị trí hết sức quan trọng trong việc bố trí chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ
Chiến tranh lạnh và cả hiện nay.
Như vậy, có thể thấy chỉ trong hơn nửa đầu thế kỷ XIX, bằng "ngoại giao
điền thổ" và chiến tranh thôn tính, các chính quyền kế tiếp nhau của Mỹ đã
nhanh chóng mở rộng lãnh thổ, tạo cho Mỹ một vị thế địachiến lược mới trên
bản đồ địachính trị quốc tế so với nước Mỹ thuở lập quốc.
Vào đầu thế kỷ XX, Mỹ đã vươn lên vượt xa các nước tư bản khác về
sức mạnh kinh tế, dần dần chiếm địa vị bá chủ thế giới. Năm 1900, Mỹ chiếm
tới 31% tổng sản lượng thế giới so với con số tương ứng của Anh, Đức, Pháp
là: 18%, 16% và 7%. Năm 1913 sản lượng gang và thép của Mỹ vượt Đức 2 lần,
vượt Anh 4 lần, than gấp 2 lần Anh và Pháp cộng lại. Trong khoảng từ 1900
1913 số vốn đầu tư vào công nghiệp tăng khoảng 2 lần rưỡi (9 triệu USD22,8
triệu USD), và giá trị sản phẩm tăng hơn 2 lần (từ 11,4 triệu USD lên 24,2 triệu
- USD). Tới năm 1914, GDP của Mỹ đạt 37 tỉ USD, trong khi đó con số tương ứng
của Đức và Anh là 12 tỉ USD và 11 tỉ USD.
Cùng với quá trình tăng cường sức mạnh kinh tế, Mỹ cũng đẩy nhanh xây
dựng lực lượng quốc phòng, có những hạm đội mạnh hơn hải quân Anh và có
đủ khả năng tranh giành quyền lực trên các đại dương với các đế quốc châu Âu.
Trong cơ cấu của nền kinh tế Mỹ, các tổ hợp công nghiệp quân sự có vai trò
quan trọng và đằng sau chúng là những nhóm lợi ích luôn theo đuổi các khuynh
hướng khác nhau của chủ nghĩa hiện thực mà thực chất là dùng sức mạnh quân
sự để đạt bằng được các lợi ích trong đó có lợi ích kinh tế.
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Mỹ đã vận dụng thuyết "toạ sơn
quan hổ đấu", đứng trung lập ngay từ đầu nhưng vẫn hưởng nhiều lợi nhuận từ
buôn bán vũ khí. Đến khi kết cục gần ngã ngũ, năm 1917 Mỹ mới tham chiến
hùa theo bên thắng để tạo cơ sở dính líu tới châu Âu. Thời kỳ giữa hai cuộc
Chiến tranh thế giới, do bị suy thoái kinh tế như các nước tư bản khác, Mỹ điều
chỉnh chiến lược, tạm gác mục tiêu bá quyền thế giới, tập trung sức để khôi
phục và phát triển kinh tế trong nước.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai đang được châm ngòi, từ tháng 3 đến
tháng 9 năm 1939, Tổng thống Rudơven đã hai lần yêu cầu Quốc hội thủ tiêu
đạo luật cấm bán vũ khí cho các nước tham chiến nhưng vẫn không được Quốc
hội chấp nhận vì buôn bán vũ khí là một nguồn lợi lớn của giới công nghiệp
quốc phòng. Lúc đầu Mỹ tuyên bố giữ vai trò "trung lập", nhưng sau sự kiện
Trân Châu Cảng (7121941), Quốc hội Mỹ đã chính thức tuyên chiến. Những
mục tiêu cuối cùng của Mỹ ở Thái Bình Dương là đánh chiếm đảo Ivôgima
(tháng 23/1945) và đảo Ôkinaoa (2531945) nằm ở cửa ngõ đi vào Nhật Bản.
Điều này phù hợp với mục tiêu chiến lược mở cửa thị trường và khống chế
Nhật Bản từ giữa thế kỷ XIX.
- Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, nền công nghiệp quân sự của Mỹ phát
triển mạnh mẽ chưa từng thấy để phục vụ cho chiến tranh và chạy đua vũ trang.
Có một sự kiện đáng lưu ý là ngày 2331983, Tổng thống Rigân đưa ra kế
hoạch "Chiến tranh giữa các vì sao" (SDI) với chi phí 26 tỉ USD trong 5 năm. Kế
hoạch này không chỉ nhằm vào mục tiêu quân sự mà còn tạo đà cho phục hưng
kinh tế Mỹ sau một giai đoạn suy thoái.
Sau khi bức tường Béclin sụp đổ (1989), Chiến tranh lạnh đi vào hồi kết,
vào tháng 1 năm 1991, nhân sự kiện Irắc chiếm đóng Côoét, Mỹ đã tiến hành
chinh phạt Irắc lần thứ nhất. Tháng 3/1999, Mỹ tiến hành chiến tranh ở Côxôvô
(Nam Tư). Sau sự kiện 11/9/2001, Mỹ tiến hành liên tiếp hai cuộc chiến ở
Ápganixtan (112001) và Irắc (32003). Ngoài lý do chính trịan ninh, còn lộ rõ
những lợi ích công nghiệp quân sự.
Ở đây cũng có một sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa chiến tranh với tình
trạng suy thoái của kinh tế Mỹ vào đầu những năm 90 và khả năng chững lại
của kinh tế Mỹ sau một thời kỳ tăng trưởng kéo dài 113 tháng tính tới đầu năm
2000. Chiến tranh đã trở thành liều thuốc kích thích kinh tế Mỹ vì nó tạo ra
những đơn đặt hàng mới cho các tổ hợp công nghiệp quân sự và mặt khác, nó
còn tạo cơ hội cho giới quân sự Mỹ thử nghiệm các loại vũ khí mới và giới buôn
bán vũ khí chào hàng. Tờ "Thời báo Niu Yoóc" ngày 25/9/2003 dẫn Báo cáo của
Quốc hội Mỹ cho biết năm 2002, Mỹ vẫn giữ vị trí số một trên thị trường xuất
khẩu vũ khí thế giới, đặc biệt là bán vũ khí cho các quốc gia đang phát triển, với
tổng giá trị là 13,3 tỉ USD, chiếm 45% khối lượng hợp đồng bán vũ khí thông
thường toàn cầu.
- 2. Thúc đẩy tự do hoá thương mại bằng ngoại giao pháo hạm và thiết
lập các thể chế kinh tế, tài chính quốc tế
Cùng với việc mở rộng biên giới lãnh thổ ở các khu vực "cận ngoại biên",
vào đầu thế kỷ XIX, Mỹ còn đề xuất Học thuyết Monroe (1823) về "Châu Mỹ
của người châu Mỹ" và chủ nghĩa biệt lập. Liệu đây có phải là tinh thần độc lập
và tự trị khu vực hay không? Như đã biết, vào thời kỳ này, Mỹ còn yếu hơn rất
nhiều cả về thế và lực so với các cường quốc khác ở châu Âu mà đặc biệt là so
với Anh và Pháp, vì vậy Mỹ chỉ có thể thực hiện chính sách mở rộng lãnh thổ ở
"sân nhà" là chủ yếu, chứ chưa thể bành trướng ảnh hưởng ở châu Âu. Do đó,
về thực chất, Học thuyết Monroe không phải là một thứ chủ nghĩa biệt lập
thuần tuý mà là luận thuyết phân chia khu vực ảnh hưởng, phân chia thị trường.
Trong Thông điệp liên bang năm 1823, Tổng thống Monroe nhấn mạnh: "lục địa
châu Mỹ, với điều kiện tự do và độc lập đã giành và giữ được, không thể bị coi
là đối tượng của việc thực dân hoá trong tương lai bởi bất kỳ các cường quốc
châu Âu nào", và Mỹ " coi bất kỳ cố gắng nào nhằm mở rộng hệ thống của họ
tới bất kỳ nơi nào của bán cầu này là nguy hiểm đối với hoà bình và an ninh của
Mỹ".
Từ đây có thể thấy là không phải Mỹ muốn biệt lập, không có tham vọng
dính líu gì tới bên ngoài mà thực chất Mỹ muốn ngăn cản các cường quốc châu
Âu, không cho họ bành trướng ảnh hưởng và buôn bán ở lục địa châu Mỹ vì Mỹ
coi đây là "sân sau" tự nhiên, là khu vực ảnh hưởng của riêng Mỹ. Mặt khác, tuy
chưa đủ sức tiến vào châu Âu, nhưng sau khi đã xác lập được vị thế khá vững
vàng ở lục địa châu Mỹ, Mỹ cũng đã bắt đầu bành trướng sang khu vực Đông Á
Thái Bình Dương theo phương thức "thương mại đi trước, cờ Mỹ đi sau".
Năm 1853 đô đốc Mỹ Perry đã đưa bốn chiến thuyền đến cảng Uraga
(trong vịnh Tokyo) yêu cầu Nhật Bản cứu trợ, bảo vệ thuỷ thủ Mỹ, mở cửa
- thông thương và tiếp than cho tàu Mỹ từ California đến Trung Quốc. Năm 1854
Perry lại đưa bốn chiến thuyền đến và ký hiệp ước Kanagawa buộc Nhật Bản
đồng ý mở cửa Shimoda và Hakodate, theo đó Mỹ có quyền lấy than, lương
thực, nước cho các chuyến tàu biển qua đó. Năm 1858 Mỹ ký hiệp ước buôn bán
bất bình đẳng với Nhật Bản, mở cửa Edo, Nigata, Kobe, Yokohama, Osaka và
Nagasaki, giành được quyền tài phán lãnh sự và tối huệ quốc về quan thuế. Như
vậy, về phương diện kinh tếthương mại, sự có mặt của Mỹ ở Nhật Bản đã
được hợp thức hoá một bước.
Nếu từ cách tiếp cận địachiến lược, thì để thống trị đại lục ÂuÁ, trước
hết Mỹ cần phải lôi kéo, khống chế "hai tuần dương hạm nổi tự nhiên" là Anh
và Nhật Bản. Lúc đó Anh đang còn rất mạnh, còn Nhật Bản thì lại chưa tiến
hành công nghiệp hoá, cả thế và lực đều yếu, hơn nữa Nhật Bản vẫn còn là thị
trường "vô chủ". Đây là cơ hội lớn cho Mỹ và Mỹ đã thành công. Bằng "ngoại
giao pháo hạm", Mỹ đã buộc Nhật Bản phải mở cửa thị trường, tạo điều kiện
thuận lợi cho Mỹ xác lập thế đứng vững chắc ở khu vực sau này để phát huy
ảnh hưởng cả về chính trịan ninh và giành giật lợi ích kinh tếthương mại.
Tới cuối thế kỷ XIX, Anh đã suy yếu dần, còn Mỹ ngày càng mạnh thêm
với lực lượng hải quân hùng hậu. Nắm được quyền lực biển là tiền đề quan
trọng để Mỹ giành giật quyền lực thương mại với các cường quốc khác. Mục
tiêu tiếp theo của Mỹ ở Đông Á là Trung Quốc. Sau khi gây chiến tranh với Tây
Ban Nha và chiếm Philippin (1898), năm 1899 Mỹ đề ra chính sách "mở cửa" để
giành giật thị trường ở Trung Quốc với Anh, Pháp, Nga và Nhật. Nội dung của
chính sách "mở cửa" gồm có:
Bất kỳ hàng của nước nào vào Trung Quốc cũng đều chịu chính sách thuế
như nhau và do chính phủ Trung Quốc thu thuế.
Không can thiệp vào lợi ích của các nước theo những điều ước đã ký.
- Không được thu thuế theo khu vực của từng nước quá cao.
Với chính sách này, Mỹ muốn xác lập vị thế hợp pháp và bình đẳng của
mình ở thị trường Trung Quốc so với các cường quốc khác, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi cho các công ty Mỹ tiếp cận và cạnh tranh với các công ty nước
ngoài ở thị trường to lớn này.
Như vậy, có thể thấy cho tới cuối thế kỷ XIX, các chính quyền Mỹ kế
tiếp nhau đã triển khai được một bước quan trọng trong chiến lược toàn cầu:
khẳng định châu Mỹ là khu vực ảnh hưởng riêng, là "chợ sau" của Mỹ mà các
cường quốc ÂuÁ không có quyền nhòm ngó, đồng thời đã bắt đầu vươn vòi
"bạch tuộc" tới Đông ÁThái Bình Dương, xác lập quyền tự do thương mại ở
khu vực quan trọng này.
Với Chính sách kinh tế mới "New Deal" của Tổng thống F.D. Roosevelt
kéo dài trong 8 năm (19331941), nền kinh tế Mỹ đã có một bước phát triển mới
cả về mô hình và cơ cấu. Trong những năm cuối của thế chiến thứ hai, cùng với
việc tranh giành khu vực ảnh hưởng, Mỹ đã nỗ lực thiết lập luật chơi mới trên
thương trường quốc tế thông qua việc xây dựng hệ thống Bretton Woods, IMF
và WB vào năm 1944 một năm trước khi kết thúc chiến tranh. Điều này có ý
nghĩa quan trọng cả trên hai phương diện lý thuyết kinh tế và chính trị đối ngoại.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 1933 cho thấy rõ hơn những khuyết tật
của mô hình kinh tế thị trường tự do, cần có những điều chỉnh trong lĩnh vực
quản lý vĩ mô cả ở tầm quốc gia và quốc tế. Trong khi cả thế giới và đặc biệt là
châu Âu bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc và khi mà lãnh đạo
các nước lớn chỉ tập trung vào đàm phán kết thúc chiến tranh và phân chia khu
vực ảnh hưởng, thì Mỹ không chỉ tranh thủ làm giàu bằng buôn bán vũ khí mà
còn nhanh chóng đổi mới tư duy kinh tế đối ngoại và xúc tiến triển khai các hoạt
động xây dựng các thể chế kinh tế tài chính quốc tế. Thuyết thể chế đã có ảnh
- hưởng mạnh hơn cả trên hai phương diện kinh tế và chính trị . Cùng với cạnh
tranh tự do, giới hoạch định chiến lược của Mỹ cũng đã sớm nhận thấy và tận
dụng thời cơ dùng các thể chế kinh tếtài chính quốc tế nhằm tối đa hoá lợi ích
và mở rộng ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới.
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Mỹ sử dụng sức mạnh quân sự, đặc biệt
là vũ khí nguyên tử và chạy đua vũ trang, thiết lập các liên minh chính trịquân sự
như NATO, hiệp ước an ninh Nhật Mỹ và gây các cuộc chiến tranh cục bộ v.v.
để thực hiện mục tiêu bá chủ thế giới. Đó là một phương diện quan trọng,
nhưng chưa phải là tất cả. Bên cạnh chủ nghĩa hiện thực chính trị, chủ nghĩa tự
do và thuyết thể chế với các mức độ khác nhau cũng có ảnh hưởng lớn tới quá
trình hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ và qua triển khai trên thực tế vẫn thấy
hiển hiện sợi dây lôgíc lợi ích kinh tế của Mỹ ở các châu lục.
Sự phát triển kinh tế Mỹ phụ thuộc một phần hết sức quan trọng vào việc
mở rộng thị trường, thương mại và đầu tư quốc tế. Chính vì vậy mà trong thời
kỳ Chiến tranh lạnh, Mỹ không chỉ chú ý tới cuộc đọ sức với Liên Xô mà còn
triển khai nhiều chính sách kinh tế đối ngoại có hiệu quả thiết thực. Ở châu Âu,
cùng với việc thành lập NATO (1949) để kiềm chế chủ nghĩa cộng sản, Mỹ còn
triển khai kế hoạch Mashall nhằm tái thiết Tây Âu, thiết lập Hiệp định chung về
thuế quan và mậu dịch (GATT). Thông qua các cuộc đàm phán thương mại đa
phương trong khuôn khổ GATT, Mỹ lôi kéo và ép buộc các nước khác, đặc biệt
là các nước tư bản phát triển ở Tây Âu và Nhật Bản hạ thấp hàng rào thuế quan,
chấp nhận các luật chơi chung về tự do hoá thương mại và dịch vụ.
Đầu những năm 70, Tây Âu và Nhật Bản trở thành hai cường quốc kinh tế
thế giới và có thể cạnh tranh được với Mỹ. Nhưng con số hơn 70% lợi nhuận
Mỹ thu được từ Tây Âu cũng cho thấy lợi ích kinh tế mà Mỹ thu được to lớn
như thế nào trong quan hệ với Tây Âu. NATO không đơn thuần chỉ là phương
- tiện "ngăn chặn cộng sản", mà còn là công cụ quan trọng bảo đảm cho sự dính
líu lâu dài cũng như an ninh kinh tế của Mỹ ở châu Âu. Có một khía cạnh đáng
lưu ý nữa là, với sự hậu thuẫn quan trọng của Mỹ, các nước Tây Âu trong khối
NATO đã nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế mạnh mẽ, đặc biệt là
Cộng hoà Liên bang Đức. Trong khi đó thì các nước XHCN trong khối Vacxava
trong đó có Cộng hoà dân chủ Đức, lúc đầu cũng duy trì được sự phát triển nhất
định, nhưng sau đó lâm dần vào khủng hoảng kinh tếxã hội ngày càng trầm
trọng. Chính vì vậy mà lợi thế cạnh tranh kinh tế đã nghiêng dần về phe TBCN
do Mỹ hậu thuẫn. Như vậy, với chiến lược hai gọng kìm cả chính trịquân sự và
kinh tế, Mỹ đã từng bước xác lập được vai trò lãnh đạo và ảnh hưởng chi phối
ở Tây Âu, hình thành khung quan hệ chiến lược châu ÂuĐại Tây Dương trong
quan hệ giữa các nước tư bản ÂuMỹ.
Còn ở khu vực châu ÁThái Bình Dương, song song với việc thiết lập các
liên minh quân sự song phương với Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Australia,
Mỹ còn tăng cường các quan hệ kinh tếthương mại với các nước khác và tạo
điều kiện thuận lợi cho một số nền kinh tế khu vực đặc biệt là Hàn Quốc cất
cánh trở thành "hổ" và "rồng". Việc Mỹ chủ động cải thiện quan hệ với Trung
Quốc vào đầu những năm 70 không chỉ nhằm vào mục tiêu địachính trị thiết
lập tam giác chiến lược MỹXôTrung mà còn chuẩn bị tiền đề cho việc triển
khai chiến lược mở cửa thị trường to lớn của Trung Quốc trong tương lai gần.
Ngay từ thời Tổng thống Lincoln, Bộ trưởng Ngoai giao Mỹ đã khẳng
định khu vực châu Á Thái Bình Dương là "món quà tặng" của tự nhiên cho
nước Mỹ. Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tổng kim ngạch buôn bán của Mỹ
với khu vực này đã vượt so với Tây Âu. Với sự hậu thuẫn của Mỹ, năm 1989
APEC được thành lập. Quan hệ kinh tếthương mại của Mỹ với khu vực cũng
đã được thể chế hoá một bước quan trọng.
- Từ một phương diện khác, sau cuộc khủng hoảng dầu lửa 19721973,
năm 1975, với sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Mỹ, Nhóm các nước công nghiệp
phát triển ( G.7) ra đời nhằm phối hợp chính sách thương mại, tài chính, đầu tư
để đối phó với những bất trắc kinh tế có thể xảy ra trên toàn cầu. Mặt khác, đây
còn là thể chế quan trọng để Mỹ có thêm cơ hội thuyết phục, dàn xếp và giải
quyết những bất đồng, mâu thuẫn với các đồng minh trong sân chơi cạnh tranh
kinh tế quốc tế.
Như vậy, có thể thấy, ngay trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong chiến
lược đối ngoại, với các mức độ và ưu tiên khác nhau, Mỹ luôn phối hợp và triển
khai song song cả hai chiến lược có mối quan hệ tương tác hỗ trợ lẫn nhau là
chính trịan ninh và kinh tế đối ngoại. Đồng thời, chiến lược kinh tế đối ngoại
được hoạch định và triển khai trong mối quan hệ chặt chẽ với quá trình đổi mới
cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với những đòi hỏi mới của sự phát triển
lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa họckỹ thuật. Chính sách
kinh tế của Tổng thống Reagan (Reaganomics) trong những năm 80 đã tạo dựng
cơ sơ hạ tầng thông tin cần thiết cho kinh tế Mỹ nắm bắt kịp những cơ hội mới
do xu thế toàn cầu hoá đưa lại và nhanh chóng cất cánh vào thập kỷ sau đó.
Sau khi Liên Xô tan rã, cùng với việc điều chỉnh chiến lược đối ngoại, Mỹ
cũng nhanh chóng điều chỉnh chiến lược kinh tế đối ngoại nhằm tận dụng
những lợi thế so sánh tối ưu trong bối cảnh cách mạng tin học và toàn cầu hoá.
Cựu Tổng thống Mỹ B. Clinton đã từng tuyên bố "tập trung vào kinh tế như một
tia la de" và cho tới đầu năm 2000, nền kinh tế Mỹ đã trải qua một thời kỳ tăng
trưởng kéo dài hiếm có.
Trên bình diện toàn cầu, cùng với việc triển khai chiến lược an ninh theo
mô hình "đại bàng" với đầu là Bắc Mỹ và hai cánh là châu ÂuĐại Tây Dương
(mở rộng NATO) + châu ÁThái Bình Dương (nâng cấp Hiệp ước an ninh Nhật
- Mỹ), Mỹ đã xúc tiến thiết lập một thể chế thương mại toàn cầu thông qua quá
trình thúc đẩy chuyển hoá GATT thành Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào
đầu năm 1995 nhằm đáp ứng những đòi hỏi mới về tự do hoá thương mại và
đầu tư của xu thế toàn cầu hoá. Đây là một thành công kinh tế đối ngoại của
Mỹ theo hướng thể chế hoá quá trình cạnh tranh kinh tế toàn cầu bằng việc xác
lập những qui tắc và luật chơi chung có lợi cho Mỹ.
Vai trò và ảnh hưởng của Mỹ trong WTO rất lớn. Các nước còn lại, dù có
là nước lớn, nếu muốn trở thành thành viên của tổ chức này đều phải tranh thủ
sự hậu thuẫn và "gật đầu" của Mỹ. Trung Quốc cũng đã phải có một số nhân
nhượng với Mỹ, đặc biệt là trong vụ sứ quán Trung Quốc ở Bêôgrát (Nam Tư)
bị ném bom khi Mỹ tiến hành không kích Côxôvô năm 1999 để tranh thủ sự
hậu thuẫn của Mỹ đối với việc gia nhập WTO. Trong sân chơi kinh tế mới này,
với thế mạnh về kinh tếtài chính, Mỹ và một số nước phát triển khác đóng vai
trò chủ đạo, nhưng trong cấu trúc phụ thuộc lẫn nhau về lợi ích, các nước đang
phát triển cũng có vai trò nhất định. Tại Hội nghị WTO vừa rồi các nước phát
triển đã phải nhượng bộ các nước đang phát triển về vấn đề hàng nông sản.
Còn trên bình diện khu vực, trong hai nhiệm kỳ cầm quyền, chính quyền
B. Clintơn cũng đã có những quyết sách phù hợp khi triển khai chiến lược đối
ngoại để tối đa hoá lợi ích kinh tế của Mỹ. Nắm bắt kịp thời xu thế khu vực hoá
và cũng để tập hợp lực lượng nhằm cạnh tranh với các tổ chức kinh tế khu vực
khác, đặc biệt là với khối kinh tế Tây Âu mà sau này là Liên minh châu Âu (EU),
năm 1992, Mỹ đã cùng với một số nước khác thành lập khu vực thương mại tự
do Bắc Mỹ (NAFTA). Tới tháng 12 năm 1994, 34 nhà lãnh đạo của các quốc gia
châu Mỹ từ Canada đến Chilê (trừ Cu Ba) đã có cuộc họp thượng đỉnh tại Miami
và cùng nhất trí với Tổng thống Mỹ B. Clintơn về dự án hoàn thành Khu vực
thương mại tự do châu Mỹ (FTAA) trước năm 2005.
- Ở châu Âu, Mỹ thực hiện chiến lược kép gắn chính trịan ninh với kinh
tếthương mại. Biên giới NATO mở rộng tới đâu thì sân chơi kinh tế của Mỹ
cũng mở rộng tới đó. Ngay cả cuộc chiến Côxôvô do Mỹ chỉ đạo năm 1999 cũng
có mục tiêu kinh tế chứ không phải đơn thuần là một cuộc chiến tranh tranh
giành quyền lực với Nga ở bán đảo Ban Căng. Mỹ muốn cản trở đồng EURO
sắp lưu hành và dọn đường để tiếp cận vào khu vực Trung Á có nhiều dầu lửa.
Vào những năm gần đây, đặc biệt là sau Hội nghị Seattle và sau sự kiện
11/9, Mỹ đã đẩy mạnh việc ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương
với các nước khác nhau. Trong Chiến lược An ninh quốc gia được công bố ngày
30/9/2002, Tổng thống G.W. Bush đã nhấn mạnh cách tiếp cận ba cấp độ về tự
do hoá thương mại mang tính cạnh tranh: "Hoa kỳ sẽ hợp tác với từng quốc gia,
từng khu vực và cộng đồng thương mại toàn cầu nhằm xây dựng một thế giới
tự do thương mại".
Việc Mỹ lựa chọn đối tác để đàm phán ký kết các hiệp định thương mại
tự do (FTA) song phương xuất phát từ ba mục tiêu có liên quan với nhau phản
ánh mối quan hệ tương tác qua lại giữa kinh tế với chính trị quốc tế: cạnh tranh
kinh tế khu vực, tập hợp lực lượng và xác lập vai trò lãnh đạo trong đàm phán
WTO. Chẳng hạn, Mỹ đã ưu tiên ký FTA với Ôtxrâylia vì nước này vừa là nước
đứng đầu Tổ chức các nước xuất khẩu thuần tuý các sản phẩm nông nghiệp, lại
vừa là nước rất tích cực ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố và cuộc
chiến ở Irắc. Ký FTA với Ôtxrâylia tạo thêm thuận lợi cho Mỹ trong các cuộc
đàm phán về nông nghiệp ở WTO và tăng cường hợp tác chống khủng bố, hỗ trợ
cho an ninh của Mỹ.
Tháng 5/2003, Mỹ đã ký FTA với Xingapo đối tác đầu tiên ở Đông Á.
Đây cũng không phải là hành động ngẫu nhiên. Nó được tính toán phù hợp với
- nhu cầu và lợi ích của Mỹ cả về chính trịan ninh và kinh tế. Nước này đã nhiệt
thành ủng hộ Mỹ trở lại Đông Nam Á sau các sự kiện Subic và Clark (1992), có
chung quan điểm về tiêu chuẩn môi trường và lao động, hơn nữa lại có ngành
dịch vụ tiền tệ rất phát triển. Lôi kéo được Xingapo, Mỹ sẽ có thêm điều kiện
thuận lợi để tiếp tục mở rộng cửa vào thị trường ASEAN, tăng sức cạnh tranh
với cả Trung Quốc và Nhật Bản.
Mỹ đã chọn Chilê là nước đầu tiên ở Nam Mỹ để ký FTA không chỉ vì
nước này là một trong những nền kinh tế mạnh nhất Nam Mỹ, sẽ hậu thuẫn tích
cực cho Mỹ thúc đẩy khu vực thương mại tự do châu Mỹ, mà còn vì Chilê đã
từng có quan hệ gắn bó với Mỹ và hơn nữa, nước này đã ký hiệp định thương
mại tự do với Canađa và một số nước khác. Ở châu Phi, Mỹ đã chọn Marốc để
ký FTA là muốn tạo dựng lên một tấm gương tín đồ Hồi giáo thân thiện với
Mỹ, đồng thời tạo thế đứng vững chắc hơn để mở rộng ảnh hưởng ở châu Phi
nơi cũng có nguồn dầu lửa dồi dào.
3. Chính trị giao thông và dầu lửa
Vào cuối thế kỷ XX, nền kinh tế tri thức đã xuất hiện, tuy nhiên, cho tới
nay và chí ít là tới giữa thế kỷ XXI, vì chưa có nguyên liệu thay thế nên dầu mỏ
vẫn là "vàng đen" của nền công nghiệp hiện đại và cuộc tranh giành nguồn dầu
mỏ sẽ vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt. "Chính trị dầu lửa" vẫn là chủ đề nổi trội
trên nhiều chương trình nghị sự quốc tế.
Đối với Mỹ, "một quốc gia đặt trên những bánh xe, kinh tế đất nước và
đời sống hàng ngày của nhân dân không phút nào tách khỏi dầu lửa", nên tự do
thương mại có mối quan hệ qua lại với tự do hàng hải và tự do tiếp cận các
nguồn dầu mỏ. Một vị Bộ trưởng Năng lượng Mỹ đã từng nói: "Tuyến nguồn
năng lượng thế giới tới đâu thì chính sách ngoại giao của Mỹ cũng tới đó". Theo
- Báo cáo của Tổ chính sách năng lượng quốc gia đứng đầu là Phó Tổng thống
Cheney công bố tháng 5/2001, thì trong 20 năm tới, lượng dầu mà Mỹ sử dụng
sẽ tăng 1/3, trong khi sản lượng dầu của Mỹ giảm 12% và đến năm 2020, lượng
dầu nhập khẩu chiếm 2/3 nhu cầu dầu lửa ở Mỹ. Vì vậy, mối quan tâm đặc biệt
của Mỹ tới Trung Đông, Trung Á, Đông Nam Á, Tây Phi cũng là điều dễ hiểu.
Từ góc độ chiến lược toàn cầu, có thể thấy rõ mục tiêu song trùng mà Mỹ đang
theo đuổi ở các địa bàn trên là: khống chế các khu vực "cửa ô", đầu mối giao
thông và nguồn dầu lửa ở các châu lục.
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, nước Mỹ đã phải hứng chịu vụ khủng bố bằng
máy bay san phẳng Trung tâm thương mại thế giới ở New York. Lợi dụng sự
kiện này, ngay sau đó, chính quyền G.W. Bush đã nhanh chóng tiến hành cuộc
chiến chống khủng bố ở Ápganixtan và tạo thế hợp pháp để đưa quân vào Trung
Á một địa bàn chiến lược quan trọng về địa chính trị, giao thông ÂuÁ và dầu
lửa. Một nhà bình luận quân sự Mỹ cho rằng: "Sự kiện 11/9" khiến cho Mỹ chỉ
trong một đêm thực hiện được giấc mộng ôm ấp hàng mấy thế kỷ là tiến vào
khu vực Trung Á mà từ trước tới nay toàn thế giới khó tiếp cận nhất và khó hiểu
nhất, Mỹ muốn vào nhất mà vẫn chưa vào được".
Từ trước đến nay các nhà chiến lược Mỹ đều coi trọng Trung Á vì có thể
biến nó thành một kết cấu mạng lưới giao nhau và từ những cứ điểm nhỏ có thể
kiềm chế Nga ở phía Bắc, kiểm soát được Ấn Độ ở phía Nam, Trung Quốc ở
phía Đông và châu Âu ở phía Tây. Với việc có mặt quân sự ngày một gia tăng ở
Trung Á, Mỹ đang không chỉ thay đổi cục diện chính trịan ninh mà còn ngày
càng đẩy Nga ra khỏi thị trường, đặc biệt là khai thác dầu lửa và từng bước
chiếm tỉ trọng cao trong quan hệ kinh tế với các nước Trung Á.
- Tháng 9/2002, chính quyền G..W. Bush công bố Chiến lược An ninh Quốc
gia mới với học thuyết "đánh đòn phủ đầu" mà mục tiêu không khác gì với Học
thuyết "Ngăn chặn cộng sản" là xác lập sự lãnh đạo thế giới của Mỹ. Đằng sau
quyền lực chính trị là quyền lực kinh tế, quyền lực dầu lửa. Dù che đậy dưới
hình thức nào thì qua các "hành vi chính sách" vẫn thấy hiển hiện rõ rệt nền
"chính trị giao thông và dầu lửa" mà Mỹ đang theo đuổi một cách liên tục và nhất
quán.
Khu vực Trung Đông nằm ở gần trung tâm Đông bán cầu, là "cửa ô" ngã
ba của ba châu: châu Âu, châu Á và châu Phi và lại được bao bọc bởi năm biển:
Hắc Hải, Địa Trung Hải, Lý Hải, Hồng Hải và Arập. Tại khu vực này còn có
những eo biển quan trọng, nơi có những tuyến đường yết hầu nối liền Địa
Trung Hải với Hồng Hải, Đại Tây Dương với Ấn Độ Dương, Đông với Tây,
châu Âu với châu Á, trong đó có kênh đào Xuê tuyến giao thông nối liền Đại
Tây Dương, Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương với lượng hàng vận chuyển
chiếm tới 22% tổng số lượng hàng vận chuyển đường biển trên thế giới, 40%
lượng tàu vận chuyển dầu trên thế giới và gần 80% lượng tàu vận chuyển hàng
hoá của châu Á. Eo biển Hormuz không chỉ là tuyến đường ra biển duy nhất của
các nước vùng Vịnh mà còn là tuyến đường yết hầu chuyên chở dầu mỏ xuất
khẩu của các nước ở Trung Đông.
Trung Đông còn được mệnh danh là "kho báu dầu mỏ của thế giới", nơi
đây chiếm tới gần 70% trữ lượng dầu mỏ đã được thăm dò của thế giới, 65%
lượng tiêu thụ dầu mỏ trên thế giới. Hiện nay, tỉ trọng dầu nhập khẩu tương
ứng của Mỹ, EU và Nhật Bản là 60%, 75% và 80%. Tỉ trọng dầu Trung Đông
trong tổng lượng dầu nhập khẩu của Mỹ là 22%, EU 36%, Trung Quốc 44%,
Nhật Bản 80%, các nước châu ÁThái Bình Dương khác 73%.
- Do tầm quan trọng chiến lược đặc biệt như vậy, nên trong lịch sử quan hệ
quốc tế, Trung Đông luôn trở thành nơi tranh giành của các đế chế và các cường
quốc, từ đế quốc Arập, Giáo hoàng La Mã, đế quốc Mông Cổ, đế quốc Ốttôman
cho tới đế quốc Anh và Pháp sau này. Thời kỳ Chiến tranh lạnh, hai siêu cường
XôMỹ cũng đã cạnh tranh quyết liệt ở đây. Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ tìm mọi
cách để khống chế toàn bộ khu vực này theo khuôn khổ "hoà bình kiểu Mỹ"
(PAX AMERICANA) và xác lập quyền lực dầu lửa để đáp ứng nhu cầu của Mỹ
cũng như khống chế các đối thủ cạnh tranh khác, đặc biệt là Trung Quốc. Cả hai
cuộc chiến tranh vùng Vịnh I (1991) và II (2003) đều được thực hiện theo logíc
địachính trị giao thông và dầu lửa.
Đông Nam Á cũng là một địa bàn được Mỹ quan tâm hơn sau sự kiện 11/9.
Ngoài mục tiêu hợp tác chống khủng bố, Mỹ còn có những ý đồ to lớn hơn về
cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, khống chế các đường giao thông quan
trọng ở khu vực biển Đông và lợi ích dầu lửa. Chỉ riêng eo biển Malắcca dài 805
km nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, đã là một tuyến đường hàng
hải hết sức quan trọng của thế giới. Mỗi năm có khoảng 50 nghìn lượt tàu biển
qua lại eo này, chuyên chở hơn 1/4 khối lượng hàng hoá buôn bán trên thế giới.
Hầu như toàn bộ số xăng dầu nhập khẩu của Nhật Bản và Trung Quốc đều đi
qua eo biển này.
Cùng với ưu tiên đại lục ÂuÁ, sau Chiến tranh lạnh, Mỹ đã chú ý tới
nguồn dầu lửa và thị trường châu Phi. Tiếp theo Tổng thống B. Clintơn, Tổng
thống G.W. Bush cũng đã bay tới châu Phi (32003). Mục đích của chuyến thăm
viếng này không đơn thuần chỉ là vấn đề nhân đạo, dân chủ và đói nghèo mà còn
là vấn đề thị trường, nguyên liệu hiếm và dầu lửa, hơn nữa, đây lại là vấn đề
quan trọng hơn. Cơn khát dầu lửa đang ập tới và các nền kinh tế lớn trên thế
giới đều phải lo lắng.
- * *
Nhìn vào các hoạt động ngoại giao của Mỹ trong thời gian vừa qua, có thể
thấy trong thời gian tới, dù ai lên nắm quyền thì cũng phải quan tâm tới ưu tiên
chiến lược dầu lửa. Một mặt để bảo đảm năng lượng cho sự tăng trưởng ổn
định và lâu dài của kinh tế Mỹ và đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng
của dân cư Mỹ. Mặt khác, vũ khí dầu lửa được dùng để khống chế các đối thủ
đang và sẽ cạnh tranh kinh tế quyết liệt với Mỹ trong tương lai. Tuy nhiên, thế
giới hiện nay đang thay đổi theo hướng mà ngay cả cường quốc mạnh nhất cũng
không thể đạt được một số mục tiêu quốc tế cơ bản bằng hành động đơn
phương. Do đó, sớm muộn thì Mỹ cũng sẽ phải điều chỉnh chính sách cả về
chính trịan ninh và kinh tế đối ngoại cho phù hợp với những chiều hướng và
thách thức mới trong đó có hiện tượng đặc biệt là "tư nhân hoá chiến tranh".
nguon tai.lieu . vn