Xem mẫu

  1. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải TÌM HIỂU CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI: GẮN KẾT VĂN HÓA VỚI CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ Nguyễn Thị Tâm1* 1 Trường Đại học Giao thông Vận tải, Số 3 Cầu Giấy, Hà Nội *Email: tam_nt@utc.edu.vn Tel: 006115979 Tóm tắt. Thời kỳ đổi mới đất nước, văn hóa phải thôi thúc con người tự nhận thức được trách nhiệm của mình và thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh vực hoạt động. Cần phải làm cho văn hóa thẩm thấm vào mọi mặt của đời sống xã hội và vào từng con người; vào kinh tế với tư cách là văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp; vào lĩnh vực chính trị với tư cách là văn hóa chính trị,... Chính vì vậy, bên cạnh ba trụ cột phát triển bền vững kinh tế, xã hội và môi trường thì sự phát triển của bất cứ một quốc gia nào trong thời hiện đại cũng cần phải có sự phát triển bền vững về văn hóa. Từ khóa: Văn hóa, văn hóa Việt Nam, chính trị, kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội, bản sắc dân tộc. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc phát triển bền vững đất nước phụ thuộc vào việc giải quyết hài hòa và hợp lý các mối quan hệ lớn mà Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã nêu là nhiệm vụ quan trọng, trong đó có mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, chính trị và phát triển văn hóa. Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hoá – nền tảng tinh thần của xã hội. Mọi hoạt động của văn hoá đều phải nhằm vào xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình và xã hội. Nhận thức toàn diện và sâu sắc về mối quan hệ này trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái niệm văn hóa Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, -530-
  2. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [1]. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng cho sự phát triển của loài người qua các thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống văn hóa là một đất nước giàu có về tinh thần. Văn hoá Việt Nam là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và thiên nhiên; được đúc kết từ cuộc sống và thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta qua hàng ngàn năm lịch sử, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản là đại chúng, dân tộc, hiện đại và nhân văn” [2]. Văn hóa không phải là thứ tồn tại bên ngoài xã hội, càng không phải là thứ vốn có sẵn trong tự nhiên, đồng thời, văn hóa cũng không phải là cái bất biến. Trái lại, văn hóa luôn luôn được phát triển, bổ sung, được làm giàu thêm, và cùng với thời gian, được các thế hệ sau kế thừa có chọn lọc. Theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Như vậy, văn hóa là một trong những nét đặc trưng tiêu biểu, hay là thuộc tính đặc trưng cơ bản nhất của loài người và chỉ có ở con người. Điều đó có nghĩa là văn hóa vừa mang tính người, vừa mang tính xã hội và phản ánh đậm nét trình độ phát triển mọi mặt của một xã hội, của một cộng đồng người và của một dân tộc. Trong một quốc gia dân tộc cũng có thể tồn tại các dòng văn hóa khác nhau, song vẫn có sự thống nhất trong đa dạng. Xã hội càng phát triển ở trình độ cao thì trình độ văn hóa càng cao, hoặc có thể nói, trình độ văn hóa cao vừa là điều kiện, vừa là động lực, vừa là kết quả của sự phát triển của xã hội. Nếu coi toàn bộ những “sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng”[4] là văn hóa thì văn hóa không những không tách rời cuộc sống thường nhật của con người, mà còn thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực của kiến trúc thượng tầng. Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, xét cả trên bình diện quốc gia lẫn khu vực và quốc tế, hơn bao giờ hết, văn hóa ngày càng gắn bó hơn, quyện chặt hơn với chính trị và kinh tế. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Ngay từ khi chưa giành chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được sự cần thiết phải gắn kết phát triển văn hóa với xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội; phải xây dựng văn hóa trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống. 2.2. Văn hóa gắn kết với chính trị Trong mối quan hệ với chính trị, văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong chính trị. Mục tiêu đầu tiên cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải giải phóng -531-
  3. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải được về chính trị, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có giải phóng được về chính trị thì mới tạo điều kiện cho văn hóa được giải phóng, tạo tiền đề cho văn hóa phát triển. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy… Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”[5]. Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cách mạng trên lĩnh vực văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận”, “Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[6]. Tính chất mặt trận của văn nghệ không phải chỉ chống giặc ngoại xâm, mà còn phải chống giặc nội xâm. Mà chống giặc nội xâm khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều. Cho nên, văn nghệ cần phải dũng cảm phê bình rất nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, nhũng lạm, lãng phí, lười biếng, quan liêu... Mặt trận văn nghệ không phải chỉ có “chống” mà còn phải “xây”, mà xây là chính và lâu dài. Để làm tròn nhiệm vụ này, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng, phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Nói đến chính trị là nói đến những hoạt động liên quan đến mối quan hệ giữa các tầng lớp, các giai cấp và các tộc người trong mỗi quốc gia. Nói đến chính trị thì cần phải nhấn mạnh vai trò của việc giành lấy chính quyền, giữ được chính quyền, củng cố và xây dựng chính quyền; đến việc sử dụng quyền lực nhà nước, huy động sức mạnh và sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào các công việc của đất nước; xác định các nhiệm vụ và nội dung hoạt động cụ thể của nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể nhất định cũng như xuyên suốt trong nhiều năm. Vì vậy, nói đến một nền chính trị lành mạnh, tiến bộ là nói đến một nền chính trị vì dân, vì nước, vì sự phát triển không ngừng và sự trường tồn của dân tộc và của đất nước. Nói đến nền chính trị hiện đại không thể không đề cập đến hai trụ cột rất quan trọng là quyền lãnh đạo, cầm quyền của đảng chính trị và hiệu lực quản lý của nhà nước. Với một nhà nước pháp quyền hiện đại khi mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân thì vai trò của văn hóa và trình độ văn hóa, nhất là văn hóa pháp luật, văn hóa quản lý, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng xử của chính quyền với người dân càng có vai trò quan trọng. Trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, không một quốc gia nào có thể đứng đơn độc, đứng một mình, tự tách mình ra khỏi cộng đồng thế giới hoặc không tiến hành giao thiệp, không trao đổi, buôn bán với các nước khác, vì thế chính trị còn là mối quan hệ giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Do đó, muốn tạo được sự hài hòa về lợi ích trong toàn xã hội thì cần có chính sách đủ thông minh để không ai trong số họ phải chịu thiệt thòi, cảm thấy bị đối xử không công bằng. Một chế độ chính trị nếu không tạo được sự bình đẳng và sự công bằng một cách thực chất về tất cả các mặt, nhất là nếu để diễn ra tình trạng phân cực giàu nghèo quá mức, mất kiểm soát thì nguy cơ bất ổn xã hội là điều rất dễ xảy ra. Một chính sách hài hòa về lợi ích đòi hỏi không chỉ tính khoa học mà còn cả tính nhân văn, tính văn hóa. Nghĩa là, mọi chính sách của một thể chế chính trị tiến bộ trong thời đại -532-
  4. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải hiện nay đều phải nhằm mục tiêu cao nhất là phục vụ con người với tính cách vừa là chủ thể, vừa là khách thể thật sự và chân chính của xã hội. Nói cách khác, trong thế giới đương đại, văn hóa cần và phải thấm sâu vào chính trị ngay từ bước hoạch định đường lối lâu dài cùng các chính sách cụ thể, cũng như trong suốt cả chặng đường hiện thực hóa các chính sách đó. Muốn tạo được công bằng xã hội và tránh được sự phân cực giàu nghèo thì văn hóa trong chính trị đương đại phải coi con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của thể chế chính trị. Qua đó vừa khơi dậy được sức mạnh tiềm ẩn của họ, vừa phục vụ họ một cách tốt nhất. Đó chính là một nền chính trị và thể chế chính trị thông minh, tất cả đều do con người và vì con người. Đó cũng là chỗ dựa quan trọng hàng đầu tạo nên sự bền vững lâu dài của chế độ. Trong điều kiện thế giới hiện nay, đối với bất cứ chế độ xã hội nào, dù chế độ đó là do một đảng duy nhất cầm quyền hoặc có nhiều đảng cùng đua tranh giành quyền lãnh đạo, để cầm quyền một cách vững chắc không thể thiếu một cơ quan quản lý nhà nước trong sạch và hiệu quả khi thực thi đường lối của đảng cầm quyền. Cơ quan quản lý nhà nước ấy phải được hình thành từ những người ưu tú đại diện cho đảng cầm quyền và cho cả xã hội. Họ phải là những người có văn hóa quản lý điều, hành tốt, văn hóa pháp luật vững vàng, trình độ văn hóa tổ chức cao để hoàn thành trách nhiệm trước đảng của họ và trước đất nước. Đây là điều chúng ta cần học hỏi, rút kinh nghiệm và thực hiện để không lãng phí thời gian, tiền của và mất niềm tin của nhân dân. Tại những nước có trình độ dân chủ và văn minh cao nếu người nào đó sau khi được bầu hoặc được bổ nhiệm vào một cương vị nhất định mà không đáp ứng được yêu cầu công việc thì người đó sẽ tự nguyện xin từ chức hoặc sẽ bị cách chức. Có thể nói, văn hóa từ chức là một nét nổi bật và khá phổ biến của nền chính trị hiện đại thế giới. Những người làm chính trị có văn hóa cần hiểu rằng, việc họ được giao đảm nhiệm một chức trách nào đó chính là để gánh vác công việc chung của đất nước, chứ không phải để thu lợi, để làm giàu bất chính, cho nên khi cảm thấy bản thân mình không đủ năng lực, hoặc mắc những thiếu sót làm mất niềm tin của nhân dân,... thì việc họ xin không tiếp tục chức trách đó nữa là chuyện bình thường và rất đáng trân trọng. Ngược lại, một khi có ai đó bị cách chức, bị miễn nhiệm do năng lực yếu kém, do vi phạm pháp luật hoặc do mất tín nhiệm, do mất lòng tin của nhân dân thì đó chính là sự nghiêm minh của pháp luật, sự trong sạch và sức mạnh thật sự của bộ máy nhà nước. Trong một nhà nước pháp quyền việc thay thế người thiếu năng lực hoặc có tỳ vết được coi là bình thường nhằm mục đích nâng cao năng lực, hiệu quả, uy tín của cơ quan quản lý nhà nước và của đảng cầm quyền, đặc biệt là để thu phục nhân tâm, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đó là lý do vì sao ở các nhà nước pháp quyền tiên tiến sự trì trệ ít khi kéo dài và thường thay đổi quyền lãnh đạo, quyền cầm quyền. Có thể nói, ở những nước này văn hóa từ chức là một trong những động lực góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Thiết nghĩ, đã đến lúc nước ta cần áp dụng văn hóa từ chức trong toàn xã hội, trước hết là trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp. -533-
  5. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Những điều trình bày trên đây cho thấy, trong điều kiện thế giới hiện nay, cũng như từ thực tiễn đất nước ta, văn hóa vô cùng cần thiết cho chính trị; chính trị không thể tách rời văn hóa và không thể thiếu văn hóa; chính trị có văn hóa sẽ là động lực thúc đẩy việc xây dựng một xã hội ổn định, tự do, công bằng, nhân văn và phát triển bền vững. Sức mạnh của chế độ, của chính quyền, của đảng chính trị cầm quyền được tạo nên và dựa trên các cơ sở quan trọng này. 2.3. Văn hóa gắn kết với kinh tế Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Từ đó, Người yêu cầu phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá. Có kinh tế mới đảm bảo cho nền văn hóa phát triển, không thể xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa khi kinh tế chưa đảm bảo, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, đời sống nhân dân chưa ổn định. Trong mối quan hệ với văn hóa, kinh tế phải đi trước một bước, Người viết “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước” [7]. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người chính là văn hóa. Tuy vậy, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một chiều về sự phụ thuộc của văn hóa vào kinh tế, không chờ kinh tế phát triển rồi mới quan tâm đến văn hóa. Theo Người, văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người nói “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[8]. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa - xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được. nói cách khác, văn hóa phải ở trong kinh tế và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Để phát triển đất nước, bên cạnh một nền chính trị lành mạnh, một xã hội ổn định, tiến bộ, còn cần phải tập trung đầu tư phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, ngày nay không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá, nhất là không thể vì các chỉ số tăng trưởng kinh tế mà hy sinh môi trường sống. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trong các kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là phát triển công nghiệp, chúng ta đã thiếu tầm nhìn xa, thiếu kiến thức văn hóa sinh thái. Hơn 40 năm trước đây đã có nhà nghiên cứu đưa ra nhận định mang tính cảnh báo rằng: khi xây dựng nhà máy, xí nghiệp chúng ta chưa chú ý đến việc bảo vệ môi trường, còn nặng tính chất tự phát, nặng về kinh tế đơn thuần chứ chưa có quy hoạch sinh thái. Trong nhận thức, ta chưa thấy rằng môi trường sống và thiên nhiên của chúng ta không chỉ thuộc về thế hệ hôm nay mà còn thuộc về nhiều thế hệ mai sau. -534-
  6. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải Hậu quả của tình trạng đó giờ đây đã rất rõ ràng và chắc chắn sẽ còn nặng nề hơn trong tương lai nếu không kịp thời có các giải pháp hiệu quả. Chính vì vậy, tiếp nhận đầu tư, tiến hành công nghiệp hóa nhất thiết phải theo hướng hiện đại, không tách công nghiệp hóa ra khỏi hiện đại hóa. Dù là công nghiệp hóa nông nghiệp cũng phải theo hướng hiện đại, trên cơ sở sử dụng công nghệ hiện đại. Hãy cẩn trọng với tình trạng “tham bát bỏ mâm” như các dự án kéo dài nhiều năm, đội vốn lên rất lớn so với khi duyệt thầu đang chình ình trước mắt bàn dân thiên hạ. Văn hóa cũng chưa thấm sâu vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp chưa được coi trọng, chưa được coi là điều kiện cốt tử cho sự phát triển bền vững của đất nước. Càng đáng ngại hơn là trình độ văn hóa doanh nghiệp và doanh nhân của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay. Kinh tế đất nước, và nói chung cả những mặt khác của đất nước, sẽ không thể nào phát triển bền vững nếu trình độ văn hóa kinh doanh không được kịp thời nâng lên, nếu văn hóa kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp không được coi trọng đúng mức. Dễ dàng nhận ra, hiện nay, bên cạnh các nhà sản xuất và các doanh nhân chân chính, có đạo đức và có văn hóa thì tình trạng sản xuất, kinh doanh chộp giật, thiếu đạo đức, phản văn hóa vẫn đang tràn lan dường như ở tất cả các lĩnh vực, kể cả lĩnh vực liên quan đến sức khỏe và tính mạng con người. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, sở dĩ tình trạng sản xuất và kinh doanh thiếu văn hóa này có thể diễn ra trong một thời gian dài như vậy, ngoài lỗi của các doanh nhân, còn là do lỗi của các cơ quan công quyền, của các cơ quan thực thi pháp luật và do cả việc thiếu luật, do luật pháp của chúng ta không theo kịp hiện thực cuộc sống. Cũng có thể nói, tình trạng sản xuất, kinh doanh phản văn hóa có thể tồn tại công khai như hiện nay còn do nạn tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả; do lợi ích nhóm tiêu cực của không ít những kẻ thoái hóa, biến chất mà pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật chưa kiểm soát được. Đây chính là bằng chứng nổi bật về sự gắn bó chặt chẽ giữa công tác quản lý nhà nước các cấp với hoạt động kinh tế, giữa chính trị và kinh tế với văn hóa. 3. KẾT LUẬN Trong thời kỳ mới, văn hóa phải thôi thúc con người tự nhận thức được trách nhiệm của mình và thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh vực hoạt động. Văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với chính trị và kinh tế; phải, thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, đồng thời văn hóa phải góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Quốc gia nào đạt được tất cả những mục tiêu đó cũng đồng nghĩa với việc quốc gia ấy sẽ có được sự phát triển nhanh hơn, mạnh mẽ hơn và bền vững hơn. Trong sự phát triển này, văn hóa đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi vì cả chính trị lẫn kinh tế đều không thể thiếu văn hóa và đều đòi hỏi phải có văn hóa. Nói cách khác, trong điều kiện thế giới hiện nay và trong thời kỳ mới của đất nước ta, văn hóa phải thấm sâu vào cả chính trị lẫn kinh tế. Phải gắn kết thật chặt chẽ văn hóa với chính trị và với kinh tế nhằm thực -535-
  7. Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII Trường Đại học Giao thông vận tải hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. LỜI CẢM ƠN Cảm ơn Trường Đại học Giao thông vận tải đã tổ chức Hội nghị Khoa học công nghệ lần thứ XXII để các thầy cô giáo, trong đó có tác giả được chia sẻ bài báo của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.78 - 126. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng, Lưu hành nội bộ, tháng 7-2000, tr. 281. [3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 [4]. Nguyễn Trọng Chuẩn: Chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tạp chí Triết học, số 2-1977. [5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.434. [6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.368-369. [7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.10, tr.59. [8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr 281 -282. -536-
nguon tai.lieu . vn