Xem mẫu

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ 21
NHÌN TỪ CÁC KIỂU TƯ DUY HIỆN SINH
TRẦN THÁI HỌC - NGUYỄN TIẾN DŨNG
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Có ai đó đã nói rằng khởi thủy là tư duy. Không có tư duy, nghĩa
là không có gì hết, kể cả tồn tại. Tuy nhiên, có tư duy và cách tư duy là hoàn
toàn khác nhau. Theo đó, tiểu thuyết Việt Nam đã đổi mới cách tư duy. Đây
là cách tư duy thuộc nội giới, tư duy hướng ra từ chủ thể. Ta thường gặp
trong tiểu thuyết đầu thế kỷ 21 các kiểu tư duy như: tư duy đa trị, tư duy
phản tỉnh, tư duy quá trình.

MỞ ĐẦU
Gần đây giới học thuật lại bắt đầu quan tâm đến triết học hiện sinh và biểu hiện của nó
trong văn học. Vấn đề ứng dụng triết lý hiện sinh vào nghiên cứu tác phẩm văn học vẫn
gặp khó khăn. Trong ý hướng đó, chúng tôi muốn khai triển các cấp độ của phạm trù
triết lý hiện sinh vào tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ 21. Trong giới hạn của bài nghiên
cứu nhỏ, chúng tôi xin đề cập đôi nét về các kiểu tư duy hiện sinh trong tiểu thuyết giai
đoạn này.
1. TƯ DUY ĐA TRỊ
Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ 21 đã đặt định một cách căn bản về tư duy hiện sinh.
Đó là thái độ nhận thức về thế giới và con người. Tư duy đa trị như là khởi đầu trong
suy tư về thế giới hiện sinh. Tư duy đó được xuất phát từ nội giới và là sự phóng chiếu
tinh thần ra bên ngoài của chủ thể. Nói theo triết gia Schopenhauer thì “vũ trụ là cái
nhìn của tôi” (Le mode est ma représentation) [2, tr. 119]. Từ cái nhìn hướng ra từ bên
trong ấy, ý nghĩa hiện thực của tác phẩm hiện hữu, vừa chủ quan lại vừa độc đáo. Cái
gọi là triết lý về một thế giới độc trị đã được tiểu thuyết đầu thế kỷ phủ nhận quyết liệt.
Sự khai tử thế giới quan độc quyền về chân lý đã đồng thời khai sinh kiểu suy tư đa trị
trong tiểu thuyết. Suy tư đó bắt nguồn từ quan niệm cuộc đời như một dòng biến dịch
không ngừng. Giá trị của vạn vật cũng vì thế mà không cố định hay neo giữ, bám víu
vào một giá trị vĩnh hằng. Socrates đã minh định: “Mọi vật đang biến dịch và không có
gì giữ nguyên cố định” [7, tr. 438].
Đi thẳng vào tư duy đa trị trong tiểu thuyết đầu thế kỷ, ta thấy triết lý hiện sinh được gửi
gắm vào hữu tại thế (Dasein), mỗi hiện hữu mặc nhiên là một nhân vị độc đáo. Thoạt kỳ
thủy của Nguyễn Bình Phương là một kiểu tư duy như vậy. Trong đó, mặc dù sống
trong làng Linh Sơn sặc xú khí, tạp nham nhưng mỗi nhân vật đã thể hiện một quan
niệm khác nhau về thế giới. Truyện không hề có sự phân giới cắm mốc của những giá
trị mà tất cả như được ném vào một cách ngẫu nhiên. Tính chìm ngập trong thế giới vô
thức thú tính, chỉ một nỗi ám ảnh là chọc tiết tất cả mọi sự sống. Sự cô lập trong suy
nghĩ và hành động kỳ quái đã đẩy Tính nằm giữa ranh giới giữa con người và thú vật.
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 03(19)/2011: tr. 81-88

82

TRẦN THÁI HỌC – NGUYỄN TIẾN DŨNG

Còn lão Phùng lại là một thế giới khác, thế giới của ước vọng và dục vọng. Một đằng
lão khát khao sáng tác những tác phẩm lớn, đằng khác lại lăm le quan hệ bất minh với
Hiền, một người đáng tuổi con cháu của mình. Ông Phước là thế giới của rượu, cái gì
ông cũng quy vào rượu, ai cho rượu đều là “đức thánh Trần”. Hưng, thương binh chống
Mỹ, sống bất mãn, ưa xúi dục kích động. Sung, xã đội trưởng, mẫu người rập khuôn
những quy tắc giáo điều. Hiền, nhân vật của sự cam chịu đưa đẩy… Tất cả vẽ lên một
thế giới độc bản, không pha trộn. Hãy đơn cử một quan niệm của ông Thìn vai giám đốc
trong Ngồi của Nguyễn Bình Phương: “Chỉ có thế hệ chống Mỹ mới đủ bản lĩnh cầm
trịch mọi thứ” và so sánh với nhân vật khác của Tạ Duy Anh: “Chỗ này tôi là món
chính. Chỗ khác tôi là gia vị. Chỗ khác nữa tôi chỉ còn là cốc nước xúc miệng, hoặc tệ
hơn là một mẩu thịt dắt răng” (Đi tìm nhân vật). Rõ ràng tư duy khác nhau sẽ là những
triết lý không giống nhau và cuối cùng tính đa trị xuất hiện, bởi “con người là cây sậy
biết suy nghĩ”, bởi dòng sông đời không ngừng cuộn chảy. Chúng ta “không thể tắm hai
lần trên cùng một dòng sông” và vì vậy con người chỉ được định giá trong một chỉnh
thể nào đó. Pascal, vị thủy tổ tổ triết hiện sinh, đã từng thốt lên: “Chân lý bên này rặng
Pyrénes là ngộ nhận bên kia” [4, tr. 31]. Tiểu thuyết đầu thế kỷ không có sự quy tụ
chân lý vào một đỉnh mà phân rẽ ra nhiều đỉnh. Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh là tư
duy đa trị với mô hình cấu trúc chính sau:
Thằng bé

Cô gái điếm

Tư duy đa
trị

B

A

NV Bóng tối

Làng Thổ Ô

Thằng bé

Người thanh niên

Làng Thổ Ô
C

Chính quyền

Các nhà khoa học

Mô hình thế giới quan đa trị trong tiểu thuyết Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh)

Quan sát chúng ta thấy, thế giới đã được tổ chức theo mô hình đa trị. Mỗi đỉnh là một
vận động nội tại riêng biệt, trong đó mỗi thành tố vận động từ mối quan hệ này sang
quan hệ khác sẽ cho một giá trị khác. Thằng bé trong chỉnh thể A là nạn nhân trong
cuộc đấu tranh một mất một còn với thế lực bóng tối mà dân làng Thổ Ô là phép thử.
Nhưng thằng bé sang chỉnh thể B nó là kẻ chịu ơn cô gái điếm. Tương tự như thế làng
Thổ Ô ở chỉnh thể A là nạn nhân của bóng tối, nhưng ở chỉnh thể C nó lại vừa là nạn
nhân của bóng tối lại vừa là thực thể bị phán xét, món lợi cho chính quyền và các nhà
khoa học. Nghĩa là thế giới luôn vận động thay đổi và không ngừng cấp nghĩa cho từng
cá thể trong thế giới, hay nói cách khác thế giới được quan niệm như một quá trình. Ở A
là phản ánh thứ chân lý thuộc về kẻ mạnh, B là chân lý dựa trên tình yêu thương, C là
chân lý dựa trên sự dối trá và ngụy tín. Tất nhiên, có một chân lý tiềm ẩn cho cả ba cực
A,B,C là chân lý thuộc về điều thiện.

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ 21 NHÌN TỪ CÁC KIỂU TƯ DUY HIỆN SINH

83

Sau khi thị phạm một mô hình về triết lý đa trị, xin dẫn ra đây lời của Heidegger:
“Quan niệm thế giới sống là thế giới liên hệ đến sự sinh tồn của con người” [9, tr. 212]
Tính đa trị của tư duy là đặc trưng của chủ nghĩa hiện sinh. Trong thế giới ấy không thể
có sự độc trị về nhận thức thế giới và con người. Mỗi người bằng kinh nghiệm sống,
vốn hiểu biết, mục đích chọn lựa hướng đi cho cuộc đời, đã phải xác quyết triết lý riêng
cho mình. Triết lý ấy phải là triết lý trong tư duy, từ tư duy mà hướng vào thế giới, nhất
quyết không thể sống bằng kinh nghiệm và vốn sống của người khác. Triết gia Mounier
đã từng cảnh báo: “Cái nhìn của người khác ăn cắp vũ trụ của tôi. Nó làm tôi bị vong
thân và chiếm trọn lấy tôi” [4, tr. 191]. Như vậy, mỗi người quan sát về thế giới, cảm
nghiệm về thế giới sẽ thâu nhận những hình ảnh của thế giới khác nhau. Tiểu thuyết của
Đoàn Minh Phượng đã xác tín như sau: “Những hạnh phúc của họ không hề quan
trọng, chỉ có hình ảnh của hạnh phúc quan trọng. Thế giới không phải là thế giới mà
chỉ là cảm nhận của ta về nó mà thôi” (Và khi tro bụi). Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế
kỷ XX đã thay đổi với một lối tư duy mới. Các nhà tiểu thuyết đã làm một cuộc cách tân
trong nhận thức về thế giới và con người. Tư duy phóng chiếu từ chủ thể, nói kiểu J.K.
Melvil rằng: “Thế giới được đem đến cùng hiện hữu như phương thức tồn tại đầu tiên
[5, tr. 110]. Và cuối cùng triết lý gì cũng phải nói cho tỏ về cuộc đấu tranh dai dẳng
giữa cái thiện và cái ác, mà cho đến bây giờ sự phân giới giữa chúng tỏ ra mờ mịt lắm.
Nói tóm lại, “cuộc đời không phải là một chuỗi cười thật sự vui, xâu chuỗi có nhiều hạt
lớn hạt nhỏ, hạt xấu hạt tốt, hạt cười hạt khóc, hạt hạnh phúc và vô hạnh, nó là xâu
chuỗi vô thường” (Tấm ván phóng dao).
2. TƯ DUY PHẢN TỈNH
Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ đã cho thấy kiểu tư duy phản tỉnh rất đặc trưng hiện
sinh. Chưa bao giờ ta thấy trong tiểu thuyết những trăn trở về con người lại da diết đến
thế. Có lẽ con người đã phóng thể quá lâu. Trong văn học nửa thế kỷ trước đổi mới, con
người xã hội lớn lao quá, che mờ những mảnh đời, những số phận, những tâm tư sâu
thẳm của hiện hữu. Giờ đây, con người cá nhân xuất hiện và đồng thời suy ngẫm lại bản
thể người một cách rốt ráo. Ta hãy cảm nghiệm lời nhân vật An Mi trong tiểu thuyết
Đoàn Minh Phượng: “Tôi phải đi tìm tôi ghi, chép mình ra trên giấy. Tôi phải nhìn thấy
mình, đọc được mình. Tôi phải có thật để cái chết của tôi có thật” (Và khi tro bụi). Đó
là khát khao được chứng nghiệm bản thể, và là cách xác tín sự tồn hữu của mình. Cuộc
đời nhân vật An Mi là cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời, được khởi
điểm bằng cái chết của chồng. Cái chết của chồng như là cái cớ, là giọt nước làm tràn
ly, khi sự bức bí truy tìm lẽ sống đã ứ đầy trong lòng cô. Nó cũng giống như những cái
chết trong Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh, chúng chỉ là thuốc thử mà tác giả ném
vào cuộc đời thằng Thượng, để trong cuộc chiến sinh tử cho lẽ phải, nó phải lựa chọn:
hoặc là bị xô đẩy, bị lăn đi bất lực trong bóng tối; hoặc là phản tỉnh làm kiếp người
lương thiện. Trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái cũng có những
cái chết có chủ đích như thế. Theo đó, nhân vật muốn làm người chỉ còn cách: đứng dậy
khẳng định bản vị của mình mà thôi.

84

TRẦN THÁI HỌC – NGUYỄN TIẾN DŨNG

Đề cập đến tư duy phản tỉnh, Lê Thành Trị cho rằng: “Người có năm đặc tính trọng
yếu: kỹ thuật, truyền thống, tiến bộ, tài năng, và sau hết là phản tỉnh [8, tr. 170] và
Heidegger trong Thư về nhân bản chủ nghĩa cũng nói: “Tư tưởng là quá trình của sự
phản tỉnh”. Nghĩa là, người không những tự do hướng ngoại mà còn quay lại với chính
mình, hướng vào nội tâm, tự mình suy tư trên suy tư của mình, động tác ấy gọi là suy tư
phản tỉnh. Trong khi quảng diễn về triết lý hiện hữu, Karl Jasper nhấn mạnh một ý rất
quan trọng: “Triết lý là muốn nhìn thấy sự hữu nguyên thủy, là lý muốn lý hội sự hữu ấy
nhờ sự phản tỉnh của tôi với tôi mỗi khi tôi suy tư bằng phản tỉnh” [3, tr. 57]. Như vậy,
để trở về với bản thể người một cách nghiêm xác và thấu hiểu về con người, thì không
có con đường nào khác là phải biết hoài nghi, biết phản tỉnh. Mặt khác, tư duy phản tỉnh
chỉ ra sự ưu trội trong nhận thức về thế giới và con người. Nó gạt bỏ những định kiến,
chướng ngại để soi chiếu vào đối tượng một cách trực diện, chân xác nhất. Đó là con
đường hiệu quả nhất nhằm tiếp cận chân lý. Đúng theo tinh thần của Descartes: “Muốn
trở thành một người khôn ngoan thì ít nhất một lần trong đời bạn phải hoài nghi tất cả”
[1]. Chẳng phải nhân vật Sophie trong tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng từng thao
thiết: “Bể khổ nằm bên trong chúng ta. Hạnh phúc tự bên trong, đau khổ tự bên trong”
(Và khi tro bụi). Từ cái bể khổ bên trong ấy, con người bừng tỉnh. Tỉnh ngộ để nhận ra
vị trí tồn hữu của mình trong thế giới. Và để trả lời cho được câu hỏi: “Tôi là ai? Tôi
hiện tồn chỉ là bản sao, vậy bản gốc của tôi có hình dạng ra sao?” (Đi tìm nhân vật).
Đó là băn khoăn trước vận số của con người trong thế giới đời này. Con người phải tìm
ra hướng đi cho mình. Bởi vì, “thức tỉnh không phải để dậm chân đứng lại” (Mười lẻ
một đêm). Một trong những đặc tính của tư duy phản tỉnh là con người sẽ quyết liệt
sống cho ra con người hơn. Phản tỉnh luôn gắn với sống hiện sinh. Tư duy phản tỉnh
khiến con người nhận chân ra nhiều giá trị và lật mặt những phản giá trị. Con người
không chỉ hoài nghi, trăn trở về kiếp hiện sinh mà còn đánh trực diện vào thế giới phi
lý. Cái thế giới đã bào mòn con người, vật hóa con người, lôi cuốn con người đi đến
ngày tận diệt mà không cho họ mảy may một cơ hội thức tỉnh nào. Tiểu thuyết Việt
Nam đầu thế kỷ 21 đã rung lên hồi chuông cảnh tỉnh con người. Lời gã lâm tặc trong
tiểu thuyết Tạ Duy Anh là một minh chứng: “Sự thật chưa chắc đã là điều đáng tin
nhất” (Đi tìm nhân vật). Vụ giết ông gác rừng mà hắn là kẻ thủ ác được ngụy biện bởi
bàn tay vô hình xúi đẩy. Chúng ta có thể tin hoặc không về ý đồ giết người được nhen
nhóm bởi một sự mãnh lực bên ngoài, không thể cưỡng lại được. Tất nhiên, đó là lý
luận của kẻ giết người. Ở đây chỉ dừng lại ở một ý, là có nhiều điều tưởng ra là thật
mười mươi nhưng tất cả chỉ là ngụy tạo. Ngay cả “chiến tranh nhiều khi là một vụ đánh
lừa vĩ đại” (Cõi người rung chuông tận thế). Đôi lúc cần một chút hoài nghi, để mình
có dịp quan sát lại mình, ngắm nhìn lại thế giới và để chúng ta không lạc mất mình
trong thế giới; bởi vì, những gì diễn ra đâu có chân xác: “Lịch sử luôn luôn không đáng
tin, vì thế hắn mất đi một chỗ dựa và phải tìm cách trụ vững trên đôi chân của mình”
(Đi tìm nhân vật). Tiểu thuyết đầu thế kỷ đã góp một tiếng nói trọng yếu của con người
trước thế giới. Chưa lúc nào ta lại thấy nhiều tiếng nói đồng loạt để phản tỉnh như thế.
Đó là lời kêu gọi con người nên hành động kịp thời, hãy đứng trên đôi chân của mình,
hãy thức tỉnh. Nguyễn Việt Hà đã viết những dòng này: “Khi hiện hữu thì nên làm gì.
Xin cứ đưa câu hỏi này tới Đạt ma Tổ sư khi Người đang chín năm quay mặt vào vách.

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ 21 NHÌN TỪ CÁC KIỂU TƯ DUY HIỆN SINH

85

Ông ta chẳng làm gì cả. Ông ta chỉ là đồ vô tích sự” (Cơ hội của chúa). Tiểu thuyết
Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh là câu chuyện về sự phản tỉnh của một hài nhi
đang ở trong bụng mẹ. Gạt qua yếu tố hoang đường kỳ ảo của truyện, mà hãy nhìn từ
phương diện triết lý. Trong truyện, đứa bé đã chần chừ trong việc có nên ra đời hay
không. Nó đã nghe thấy những câu chuyện bi đát về thế giới người. Đặc biệt là những
câu chuyện liên quan đến trẻ em. Trẻ em bị âm mưu sát hại trong ý tưởng của người
lớn. Nó quyết định không ra đời. Cho đến khi thấu hiểu rằng cuộc đời là bể khổ nhưng
con người không thể tránh xa nó, và bên cạnh những người xấu thì còn vô vàn những
người tốt. Vì thế, nó đã quyết định ra đời. Tác phẩm không chỉ là sự phản tỉnh của chính
bào thai mà còn thức tỉnh lương tri người lớn. Mục đích là hướng tới một thế giới nhân
bản hơn. Ý nghĩa phản tỉnh là ở chỗ đó. Trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ
Anh Thái cũng chứa đựng kiểu tư duy phản tỉnh. Nhưng không dừng ở phản tỉnh về bản
thể người mà phản tỉnh ở ngoại vi bản thể, phản tỉnh về một thế giới kỹ trị đã làm hao
mòn hóa con người: “Ngớ ngẩn cái phát minh vĩ đại của người Nhật. Kawabata chết
rồi, Akira Kurosawa coi như chết rồi, Kitaro coi như chết rồi, nền văn hóa của họ rốt
cục còn lại những thứ như Karaoke này, một ngôi nhà văn hóa bị lún móng vì xây nhầm
trên đầm lầy. Kỹ thuật điện tử, kỹ thuật vi tính, kỹ nghệ thương mại, văn hóa đầm lầy và
nền giáo dục trọc phú cùng lúc xúm vào cưỡng dâm nghệ thuật âm nhạc”. Tất nhiên,
mọi sự phản tỉnh đều phải trả giá, nhưng là cần thiết cho kiếp người. Đó là sự cao cả
trong lựa chọn cách thái sống tốt đẹp. Nói như Camus: “Sự cao cả của con người là ở
tại thái độ nổi loạn chống lại phi lý tính của vũ trụ” [4, tr. 224]. Bố của Khánh trong
Người sông mê đã xác tín: “Khánh à, phải mất biết bao công phu bố mới định nghĩa
thế nào là phản kháng. Không dễ đâu Khánh à”. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, Hồ Anh
Thái đã xây dựng một tình huống truyện oái oăm. Hai người trong một lần ngoại tình đã
bị khóa trái cửa, người chủ (tay này là họa sĩ và là bạn của hai người, hay đãng trí) đã đi
mất. Chính trong sự cầm tù bất đắc dĩ đó họ đã nhận ra chân lý: “Ngày thứ năm ngày
thứ sáu thì bắt đầu ngộ. Ta có thể vắng. Ta có thể chết hẳn. Và mọi việc hệ trọng đến
đâu cũng có thể được làm mà không có ta. Cái cõi trần quay cuồng toàn việc là việc
này cũng có lúc ta phải dứt ra”, “ta nghĩ về cái thân ta. Thụ hưởng cái thân ta”. Rõ
ràng con người trong Mười lẻ một đêm đang chìm ngập trong cơ man ràng buộc, không
dễ gì thoát ra. Chỉ còn cách lắng mình lại để cảm nhận cuộc đời và sự kiện bị nhốt trong
căn hộ người bạn đã là cơ may để hai người tỉnh ngộ. Thanh âm phản tỉnh đó đã vượt
thoát ra ngoại vi tác phẩm lay tỉnh mỗi chúng ta.
Tư duy phản tỉnh trong tiểu thuyết đầu thế kỷ không phải là sự bừng tỉnh về giá trị cuộc
sống để rồi sống bất cần, lao vào hưởng thụ, trụy lạc. Làm như thế con người cũng
không thể vươn lên hiện sinh, vẫn nằm ngay ngắn ở hàng sự vật. Hiện sinh trong tiểu
thuyết đầu thế kỷ đã trình diễn kiểu tư duy phản tỉnh mới mẻ. Đó là phản tỉnh để hướng
tới một cuộc sống bình thường, giản dị. Niềm khát khao đó đã được Mạc Can thể hiện
trong Tấm ván phóng dao: “Tại sao tôi không được sống bình thường như những
người xung quanh tôi, tại sao tôi dốt nát mê muội, tôi có quyền được sống làm người,
được học hành, yêu thương và có hạnh phúc chứ”. Cùng cảm trạng ấy, An Mi trong Và
khi tro bụi nhận ra giá trị đích thực là cuộc sống rất mực bình dị của con người, vì con

nguon tai.lieu . vn