- Trang Chủ
- Ngôn ngữ học
- Tiểu thuyết phong tục – thành tựu quan trọng của văn hóa và văn học thời khai sáng ở phương Tây thế kỉ XVIII
Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014
TIỂU THUYẾT PHONG TỤC – THÀNH TỰU QUAN TRỌNG
CỦA VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC THỜI KHAI SÁNG
Ở PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XVIII
NGUYỄN HỮU HIẾU(*)
TÓM TẮT
Về mặt xã hội, các tiểu thuyết phong tục đã nói lên được một thực tế quan trọng của
thời đại, rằng đây là thời đại “con người ý thức được sự có mặt của mình trên thế giới với
tư cách là một tộc loại cá thể” hết sức sâu sắc. Và về mặt văn học, tiểu thuyết phong tục,
cũng có thể hiểu rộng ra là tiểu thuyết hiện thực thời Khai sáng, đã “mở ra khả năng
nghiên cứu không chỉ sự phức tạp của thế giới bên ngoài mà cả những phức tạp của cá
nhân, sự phong phú của nó, những xung đột, năng lực của nó” [Souchkov, Số phận lịch sử
của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm mới, tr.43]. Tiểu thuyết phong tục đã góp phần
vào việc định hình một tư duy tiểu thuyết mới: thế sự hóa đối tượng thẩm mĩ và cách thức
biểu hiện. Ý nghĩa tiền đề trực tiếp cho tiểu thuyết hiện thực cổ điển thế kỉ XIX của tiểu
thuyết phong tục thế kỉ XVIII một phần quan trọng chính là ở điểm đó.
Từ khóa: tiểu thuyết phong tục, thời Khai sáng, đối tượng thẩm mĩ, tiểu thuyết hiện
thực cổ điển
ABSTRACT
In social terms, custom novels depict one important fact of the era. This is the era
when "people are profoundly aware of their presence in the world as an individual nation.
And in terms of literature, custom novels which can be interpreted broadly realistic fictions
in the Enlightenment “has opened up the possibility to study not only the complexity of the
outside world, but also the complexity of individual, its variety, conflicts and power”
[Souchkov, The historical fate of realism, New Work Publishing House, p.43]. Custom
novels have contributed to the shaping of a new novel thinking: realizing the aesthetic
object and expression manner. The direct premise meaning for classic realistic fiction in
the nineteenth century is significantly the custom novels of the eighteenth century.
Keywords: custom novel, the Enlightenment, aesthetic objects, classic realistic novel
(*)
Thời đại Khai sáng chưa phải là thời đỉnh văn hóa của thời đại tranh đấu về chính trị và
cao của tiểu thuyết phong tục, mà thời kì triết học của thế kỉ XVIII, hầu hết các nhà
đỉnh cao của tiểu thuyết này sẽ chờ đợi sang văn bị cuốn vào không khí chung của thời
thế kỉ sau, gắn liền với tên tuổi những tác giả đại, và họ muốn bằng những quan niệm phần
như Balzac, Stendhal, Charles Dickens, nhiều mang tính trực tiếp, có tính thời sự, dễ
Thackeray, William Dean Howells... của thế dàng tác động tới nhận thức của đại đa số
kỉ XIX. Lí do dễ hiểu là: trong khuôn khổ người đọc thuộc giới tư sản và các tầng lớp
trung lưu và bình dân. Hơn nữa, thế kỉ XVIII
(*)
PGS.TS, Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG tuy đã có phong trào Bách khoa toàn thư (ở
TP.HCM Pháp) với việc biên soạn và phổ biến nhiều
6
- tri thức khoa học cả tự nhiên và xã hội theo và phân tán về chính trị (như nước Đức), làm
tinh thần có lợi cho tầng lớp tư sản và trào cách mạng giải phóng dân tộc (như Mỹ), làm
lưu tư sản hóa nhưng cũng chưa có được cách mạng nhân quyền và dân quyền (như
những thành tựu như trong thế kỉ XIX – thế Pháp), thì người Anh do chính thể quân chủ
kỉ người phương Tây đứng trước ngưỡng lập hiến đã có những cải cách về thể chế
cửa thời đại khoa học, với những nghiên cứu (dưới vua có Quốc hội, có nội các, có Thủ
sâu sắc về đời sống, về sự tranh đấu giữa tướng cùng Hội đồng bộ trưởng điều hành
những tầng lớp khác nhau về quyền lợi, cũng đất nước) nên chủ yếu họ ra sức cho cách
như về vai trò của hoàn cảnh đối với con mạng về kinh tế. Kể từ sau “cách mạng vẻ
người (các học thuyết của Lamark, Saint vang” 1688, dù trong xã hội vẫn có những sự
Hilàire, Michelet, Darwin…), những vấn đề mẫu thuẫn, tranh giành quyền lợi giữa các
có thể gợi ý niệm về bức tranh toàn cảnh và phe phái (giữa đảng Whig và Tory), các
mối quan hệ giữa tâm lí, tính cách của con dòng tộc hay những tranh luận giữa những
người trong khung cảnh nó sống và hoạt người có quan điểm khác nhau về tôn giáo…
động. Tuy vậy, dù không nhiều, nhưng trong nhưng nước Anh không có những cơn lốc
thế kỉ XVIII cũng đã xuất hiện một số nhà chính trị dữ dội mà chủ yếu người ta tập
văn có những tiểu thuyết mà ở đó thấp trung cho những sự phát triển về kĩ thuật
thoáng dáng dấp của hình thức tiểu thuyết sẽ hiện đại (nhất là sự cơ khí hóa ngành dệt may
phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỉ truyền thống), về nông nghiệp, mở mang và
XIX. duy trì thế lực ở các thuộc địa rộng lớn ở Bắc
Một điều rất đặc biệt là trong thế kỉ Mỹ và Ấn Độ… Về kinh tế và chính trị xã
XVIII loại tiểu thuyết này hầu như vắng hội là vậy, còn về đời sống văn hóa tinh thần
bóng ở Pháp, Đức, Mỹ, nói đúng hơn,ở trong thế kỉ XVIII ở Anh cũng có sự khác
những nền văn học ấy tính chất của tiểu biệt. Ví dụ: trong khi tiếp cận những học
thuyết phong tục hết sức mờ nhạt với vài thuyết của những nhà tư tưởng lớn của thời
biểu hiện nhỏ (như tiểu thuyết “Nữ tu sĩ” đại (như F.Bacon, Descartes, John Locke,
của Denis Diderot khi nói về đời sống Montesquieu…) người Pháp thường có xu
trong chốn tu viện, hay tiểu thuyết “Manon hướng khai thác những khía cạnh có tính
Lescaut” của A. Prévost ít nhiều đề cập đời chất đối lập quyết liệt với chủ nghĩa giáo
sống giới giàu có mặt kì triều đại Louis điều và sự ngưng trệ phong kiến để tạo nên
XIV), mà chủ yếu chỉ xuất hiện ở nước những cuộc tranh luận về triết học, khoa học,
Anh, với một số tác giả tiêu biểu như tôn giáo khá gay gắt và có tính chất “đập
Richardson, Smollett, đặc biệt là Henry phá” thì ở Anh ngược lại, người ta ra sức phổ
Fielding. Vì sao lại có hiện tượng đó? biến những quan điểm mới ấy theo hướng
Trong thế kỉ XVIII, xét về cơ sở hiện thực, làm sao có lợi cho việc điều chỉnh nhận thức
mặc dù nước Anh vẫn nằm trong trào lưu của con người với mục đích hướng đến sự
tư sản hóa của châu Âu nhưng rõ ràng có hợp lí, khách quan và một sự bình ổn về xã
những khác biệt rất lớn so với Pháp, Mỹ hội và đạo đức. Những quan điểm mới về
hay nước Đức. Khác biệt cơ bản ở đây là: con đường truy tầm chân lí của Francis
trong khi người Đức, người Mỹ, và đặc Bacon (1561 – 1626), một triết gia, một
biệt người Pháp bận tâm tập trung vào hoạt nhà văn và chính khách trong thế kỉ XVI –
động tranh đấu để chống sự trì trệ lạc hậu XVII, “ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy
7
- vật Anh và tất cả những khoa học thự một trong những tiểu thuyết phong tục tiêu
nghiệm hiện đại” (thuyết của Bacon đã biểu trong văn học Anh thế kỉ XVIII.
sớm nêu nguyên tắc thực nghiệm theo ba Pamela là nhân vật chính. Đó là một cô
bước quan sát, nêu giả thuyết và kiểm gái xuất thân gia đình nghèo và trở thành
chứng bằng thực tiễn, hoàn toàn không xa con nuôi trong một gia đình quí phái. Dù
với nguyên tắc của khoa học hiện đại), hay được ở trong một gia đình giàu có nhưng
tư tưởng đề cao con ngưởi tự nhiên và thân phận cô gái cũng không khác gì kiếp
thuyết duy cảm của John Locke, David tôi đòi. Con trai của bà chủ, anh chàng
Hume trở thành kinh nghiệm quí báu và có Belfort, vốn là một chàng thanh niên lêu
những tác động quan trọng đối với việc lổng, phóng đãng, đã tìm mọi cách, lúc thì
kiến tạo đời sống tinh thần Anh trong thế dụ dỗ, lúc dùng tiền bạc, lúc lại cậy thế ông
kỉ XVIII, mà văn học là một phần quan chủ để đe dọa, cưỡng ép hòng chiếm đoạt
trọng trong đó. Những đặc điểm có tính tình cảm của cô. Tuy vậy, với đức tính hồn
lịch sử trên nhiều phương diện của nước nhiên và sự hiền dịu bẩm sinh không bao
Anh ấy có thể được xem là cơ sở quan giờ biết đến thù hằn, cô dần cảm hóa được
trọng dẫn đến sự xuất hiện sớm ở nền văn bá tước Belford, làm cho anh ta từ bỏ tính
học này thể loại tiểu thuyết phong tục, một kiêu ngạo tự phụ của giới thượng lưu và
hình thức tiểu thuyết ít hoặc không trực thiên kiến đẳng cấp để cuối cùng hai người
tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị xã có một kết thúc có hậu với một hạnh phúc
hội rộng lớn, mà có xu hướng quan tâm viên mãn.
những điều bình dị trong đời sống thường Thực ra, với tiểu thuyết này, ta cũng có
nhật, đời sống riêng tư và phong tục đạo thể có những định danh khác nhau: tiểu
đức, cũng như chú trọng việc khai thác và thuyết tâm lí, tiểu thuyết thư tín, tiểu thuyết
thể hiện tâm lí, tính cách của các nhân vật. thuyết giáo đạo lí… Mỗi cách định danh
Samuel Richardson (1689 – 1761) là như thế đều có cơ sở từ chính đặc tính nội
một người sớm bộc lộ thiên hướng quan sát dung và hình thức tiểu thuyết, hoặc từ
và viết về những hoàn cảnh éo le, những thông điệp mà Richardson muốn gửi gắm
“trạng huống mang tính xã hội phức tạp rõ tới người đọc cùng thời. Tuy nhiên, nếu xét
rệt”, đặc biệt ông hay đề cập tới những vấn trên nhiều khía cạnh, việc định danh tiểu
đề liên quan tới đạo đức xã hội thông thuyết phong tục cho tác phẩm này có lẽ
thường, như đạo đức trong tình yêu và hôn phù hợp hơn.
nhân. S. Richardson viết không nhiều, tên Tác phẩm là một tập hợp nhiều lá thư
tuổi ông chủ yếu gắn với ba bộ tiểu thuyết: kể chuyện về cô gái nghèo Pamela. Cốt
“Pamela hay đức hạnh được đền bù” truyện tuy không có gì phức tạp, rối rắm,
(Pamela or Virtue rewarded) gồm 4 tập được nhưng tác phẩm nói lên nhiều điều liên
xuất bản trong bảy năm, từ 1740 đến 1747; quan đến sự tiến hóa của thể loại văn học
“Clarissa Harlowe hay câu chuyện về một cũng như sự tiến hóa của văn học Anh.
người phụ nữ trẻ” (Clarissa Harlowe or The Điều quan trọng ở đây là, đằng sau hình
history of a young lady) xuất bản năm 1748, thức thư từ ấy là môi trường xã hội, là số
và “Charles Grandison” (1754). Trong số phận của một con người bé nhỏ bị lép vế
những tác phẩm ấy, tiểu thuyết “Pamela hay và bị coi thường trong cái nhìn của giới
đức hạnh được đền bù” có thể được xem là nhà giàu. Những định kiến về vị trí sang
8
- hèn, giàu nghèo, mà ở đây là thái độ coi đã khiến tác phẩm được xem là “tiểu thuyết
thường của Belford đối với nguồn gốc xuất tiếng Anh hiện đại đầu tiên”, và tác giả của
thân của Pamela đã làm cho tác phẩm trở nó – Samuel Richardson là người “đã có
thành một câu chuyện kể về vấn đề có tính công đóng góp vào việc tạo ra thể loại tiểu
hiện thực và xã hội sâu sắc. Tuy thông điệp thuyết hiện đại Anh” [Hữu Ngọc chủ biên,
đạo đức của tiểu thuyết cũng khá rõ khi Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước
nhà văn muốn nhấn mạnh những phẩm ngoài, Nxb Văn hóa, 1983, tr. 379].
chất “trung thực, lòng trung thành, sự siêng Henry Fielding (1707 – 1754) được
năng (phải) là các đức tính trụ cột của xã coi là người đưa tiểu thuyết phong tục thế
hội”, nhưng cái thông điệp đạo đức ấy kỉ XVIII đạt tới đỉnh cao nhất của nó, đồng
cùng với kết thúc có hậu của tiểu thuyết thời là “tiểu thuyết gia vĩ đại nhất” trong
vẫn không làm mờ đi ý nghĩa quan trọng thời đại Khai sáng. Thậm chí Walter Scott,
của tác phẩm: đó là một câu chuyện về đời một nhà văn bậc thầy của thể loại tiểu
sống của người bình dân, những người vốn thuyết lịch sử Anh đầu thế kỉ XIX không
chỉ được đóng vai phụ trên sân khấu đời chỉ rất ngưỡng mộ Henry Fielding mà còn
sống, với tất cả tâm tư và cảm xúc đời coi ông là “cha đẻ của tiểu thuyết Anh”.
thường của họ. H. Fielding viết khá nhiều, cả kịch trào
Tiểu thuyết phong tục không chỉ là vấn phúng chính trị (trên 20 vở) và tiểu thuyết,
đề miêu tả số phận hay tái hiện hoàn cảnh nhưng thường thì người ta ít khi nhắc đến
sinh hoạt có tính chất thường nhật của các ông với tư cách nhà viết kịch mà chủ yếu
nhân vật, mà đi liền với những điều ấy nhà nhắc đến ông với tư cách tiểu thuyết gia
văn còn đi sâu khai thác tâm lí của họ trong quan trọng trong lịch sử tiểu thuyết Anh và
mối tương quan với hoàn cảnh mà họ là lịch sử tiểu thuyết châu Âu nói chung.
nạn nhân hoặc là sản phẩm của nó. Tâm lí Ông là tác giả của nhiều tiểu thuyết, như
đó là thứ tâm lí có tính chất riêng tư, đời “Joseph Andrews” (1742) “Cuộc đời của
thường, không cường điệu. Chính thứ tâm ông Jonathan Wild vĩ đại” (Life of Mr.
lí rất “cận nhân tình” của Pamela đã làm Jonathan Wild The Great, 1743), “Hành
cho hình tượng thêm tính thuyết phục. Mối trình tới Lisbon” (Voyage to Lisbon, 1751)
quan hệ giữa cô và Belford trước khi đi “Amilia” (1752)… trong đó mỗi tiểu
tới kết thúc có hậu là một thứ tâm lí đầy thuyết được viết theo một lối riêng, cho
phức tạp, ở đó cô phải vừa dịu dàng, thậm thấy bút pháp đa dạng và quan niệm tiểu
chí có vẻ là phục tùng trong quan hệ giữa thuyết khá rõ ràng ở nhà văn này.
người ở và ông chủ, nhưng cũng vừa phải Tiểu thuyết đỉnh cao và gắn liền với
cương quyết để bảo vệ danh dự của mình. tên tuổi Henry Fielding là “Câu chuyện về
Hơn thế nữa, một mặt Pamela biết Belford Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi” (The history
là người đưa lại cho cô rất nhiều đau khổ of Tom Jones, a foundling, 1749). Đó là
và tủi nhục và bắt cô phải chịu đựng, câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của
nhưng mặt khác trái tim non trẻ của cô lại một đứa trẻ vô thừa nhận sống trong gia
không chống lại được những rung động đình một điền chủ giàu có và tốt bụng, ông
trước anh ta. Tính chân thật, chiều sâu của Allworthy. Những tưởng cuộc sống sẽ
những uẩn khúc tâm lí và bóng dáng môi bằng phẳng và tràn đầy hạnh phúc, nhưng
trường xã hội gắn liền với số phận nhân vật khi lớn lên Tom Jones lại luôn phải đối
9
- diện với sự toan tính, hiềm tị của Blifil, một Charles Dickens (1812 – 1870) với tiểu
người cháu ruột của điền chủ. Với những thuyết “Oliver Twist” và “David
rắc rối, phức tạp chung quanh quan hệ tình Corpperfield”, hay Charlotte Brontee
cảm của hai chàng trai với cô gái trẻ đẹp (1816 – 1855) với tiểu thuyết “Jane
Sophie và chuyện dành quyền thừa kế trong Eyre”… Nếu xét trong khung thẩm mĩ
gia đình của Blifil, anh ta đã dùng những lời hiện thực chủ nghĩa thế kỉ XVIII, khi mà
nói xấu và dèm pha đầy ác ý, buộc ông hoàn cảnh chưa trở thành một khách thể
Allworthy phải đuổi Tom Jones ra khỏi nhà. mĩ học và các nhà văn chưa có kinh
Tuy nhiên, sau những tháng ngày gian truân nghiệm “tái hiện nghệ thuật đối với môi
vất vả, bí mật về cuộc đời của anh cũng trường” cũng như “chưa truyền được cảm
được hé lộ: Tom chính là con hoang của hứng cho thế giới chung quanh con người”
người em gái của ông Allworthy, và là anh [Souchkov, Số phận lịch sử của chủ nghĩa
cùng mẹ khác cha với Blifil. Khi bí mật hiện thực, tr.81] thì những gì Henry
được sáng tỏ, những tươi sáng của cuộc đời Fielding đã làm được trong tiểu thuyết này
đã đến với Tom Jones, anh trở thành người đã là một ngoại lệ, vượt ra ngoài thói quen
thừa kế và có lại tình yêu với cô gái trẻ tốt phổ biến (chủ yếu kể lại người, sự việc, sự
bụng Sophie. vật) của tiểu thuyết thế kỉ XVIII.
Xét về khía cạnh thể loại, cuốn tiểu Cùng được xem là những tiểu thuyết
thuyết hứa hẹn có nhiều điều rất mới mẻ, phong tục, nhưng nếu so với tiểu thuyết
không xa với tiểu thuyết hiện thực, và “Pamela hay đức hạnh được đền bù” của
tất nhiên là đã có những điểm vượt ra khỏi Samuel Richardson thì tiểu thuyết “Câu
những đặc điểm thường thấy ở tiểu thuyết chuyện về Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi”
nói riêng và văn xuôi nói chung của thời của Henry Fielding cũng có nhiều thay đổi.
đại Khai sáng. Sự khác biệt ở đây không chỉ dừng ở hình
So với các hình thức tiểu thuyết khác thức trần thuật, một bên là hình thức thư
cùng thời (tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết tín (số phận, tâm trạng thể hiện qua những
tình cảm, tiểu thuyết triết học…), tiểu bức thư) và một bên là kể và tả (tức là dùng
thuyết “Câu chuyện về Tom Jones, đứa trẻ lời văn trần thuật), mà điều quan trọng ở
bị bỏ rơi” là một tác phẩm khá dày đặc về chỗ sự lựa chọn những hình thức khác
tình tiết, sự kiện. Tuy cốt truyện không quá nhau đó có liên quan tới dụng ý của nhà
rối rắm phức tạp, nhưng sự diễn biến của văn, một bên chú trọng phương diện tình
cốt truyện cùng với những tình tiết và sự cảm (cũng có ý kiến xếp tác phẩm của
kiện đi liền với nó luôn gợi ở người đọc Richardson vào thể loại tiểu thuyết tình
những hình dung về đời sống mà ở đó có cảm), còn một bên muốn thể hiện một thứ
những cảnh đời, những phong tục tập quán, hoàn cảnh “không thêm bớt” và hình ảnh
những bức tranh khung cảnh xã hội, cũng “con người tự nhiên” theo một cách tự
như bức tranh sinh hoạt trong những gia nhiên nhất. Chính ngôn ngữ văn xuôi dạng
đình nông thôn nước Anh thế kỉ XVIII. Cái kể tả của tác phẩm đã góp phần làm tăng
cách nhà văn miêu tả khung cảnh gia đình chất đời thường của nội dung trần thuật
Allworthy cũng như số phận các nhân vật một cách đáng kể.
trong đó rất gần với cách miêu tả của các Văn học thế kỉ XVIII nhìn chung bị
nhà văn hiện thực Anh đầu thế kỉ XIX, như điều kiện hóa bởi nhu cầu cổ võ cho tinh
10
- thần mới (tinh thần tư sản) và gắn với mục những đặc tính của bản tính con người, bản
đích xây dựng tâm hồn và trí tuệ con tính như thế nào thì biểu hiện như vậy”
người, chấn chỉnh đạo đức cá nhân và xã [B.Souchkov, Số phận lịch sử của chủ
hội.... Trong điều kiện như thế, dù muốn nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm mới, tr. 80].
hay không thì tiểu thuyết của Fielding cũng Nhìn lại quá trình tiến hóa của văn học
không hoàn toàn thoát ra khỏi bầu khí hiện thực, nói chính xác ra là văn học mang
quyển văn hóa chung của thời đại mình. tính hiện thực (hay có xu hướng hiện thực)
Dấu vết của tính chất bị điều kiện hóa ấy trong lịch sử văn học phương Tây từ thời
chúng ta có thể tìm thấy trong thái độ thiện đại Phục hưng cho đến thế kỉ XVIII và thời
cảm của tác giả đối với những nhân vật đại Khai sáng, sự xuất hiện của tiểu thuyết
mang vẻ đẹp tinh thần và thể chất như phong tục dù xét về qui mô vẫn còn mang
Allworthy, Tom Jones, Sophie Western…, tính cục bộ (chủ yếu là văn học Anh) và
tất cả họ là những con người đáng mến, có cũng chưa có nhiều nhà văn đi theo thể loại
tấm lòng trong sáng, thánh thiện (kể cả ông này, nhưng không thể không khẳng định
Allworthy, dù ông đã đuổi Tom Jones ra rằng đó là một bước phát triển đáng kể của
khỏi nhà). Giống với tiểu thuyết của tiểu thuyết và tư duy tiểu thuyết. Vì vậy, để
Richardson, để khẳng định giá trị đạo đức, đánh giá một cách thỏa đáng vị trí của thể
H. Fielding cũng vận dụng khung truyện loại tiểu thuyết phong tục thiết nghĩ không
kể có kết thúc có hậu (happy ending) và thể không đặt nó trong tiến trình lịch sử
motif quen thuộc lưu lạc – đoàn viên của văn học phương Tây nói chung, lịch sử văn
nhân vật trung tâm… Tuy vậy, so với tiểu xuôi nói riêng.
thuyết “Pamela”, vấn đề đức hạnh và lí Ngay trước thời đại Phục hưng, từ thế
tưởng về con người đức hạnh ở “Truyện về kỉ thứ V, cụ thể từ năm 476 (năm đánh dấu
Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi”đã được “cất sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã) đến
dấu” rất khéo sau những miêu tả đậm chất năm 1453 (năm đánh dấu sự sụp đổ của đế
văn xuôi về một hiện thực đời sống đa diện quốc Đông La Mã, cũng là trên toàn cõi
và một đời sống tâm lí nhiều chiều của các châu Âu) được gọi là thời đại trung đại.
nhân vật. Tác giả không bị sa đà vào mục Trong suốt mười thế kỉ ấy, trong những thế
đích giáo huấn đạo đức cũng như lí tưởng kỉ trung đại sơ kì, các dân tộc phương Tây
hóa nhân vật tốt bụng một cách lộ liễu. phải dồn sức lực của mình vào quá trình
Ông tỏ ra có thiện cảm với những con lập quốc (phân chia ranh giới, xác định
người tốt bụng, nhưng mặt khác, trong khi cương vực, lãnh thổ), củng cố ý thức cộng
nói về những đức tính tốt thì đồng thời ông đồng, sau đó là nâng cao ý thức dân tộc để
cũng đề cập đến những tính xấu như thói hướng đến khẳng định vị thế riêng của mỗi
tham lam, ích kỉ, toan tính của người đời. dân tộc trong mối tương quan với các dân
Cách thể hiện như thế của H. Fielding rõ tộc khác trên lãnh thổ châu Âu. Tiếp theo
ràng có cơ sở từ sâu xa quan niệm về “con những thế kỉ lập quốc đó là thời kì người
người tự nhiên” của nhà văn, ở đó “đức phương Tây củng cố uy thế của Nhà thờ.
hạnh là do bản tính tự nhiên – chúng tạo Giáo hoàng La Mã trực tiếp phát động
thành bản chất nội tại của nó (nhân vật), những cuộc thánh chiến, tiến hành những
chúng không được đưa từ bên ngoài vào cuộc viễn chinh chinh phục những người
tâm hồn… (mà) chẳng qua nó biểu hiện bị xem là tà đạo và giải phóng vùng đất
11
- Thánh Palestine trong suốt một thời gian Thánh, như “Cuộc đời Thánh Alexis” (Vie
dài gần hai thế kỉ (từ 1098 đến năm 1270) de Saint Alexis), Cuộc đời Thánh Léger
với nhiều cuộc viễn chinh lớn nhỏ. Trong (Vie de Saint Léger), “Tụng ca Nữ thánh
những thế kỉ trung đại này, nhà thờ và tu Eulalie” (Cantilène de Sainte Eulalie),
viện trở thành những trung tâm, không “Sách về tội lỗi” (Le manuel des péchés)…
những là trung tâm tôn giáo mà còn là của các nhà thơ khuyết danh, hay đó là
trung tâm văn hóa và giáo dục. Văn hóa các truyện thơ của Rutebeuf – một nhà
tôn giáo và văn hóa La – tinh thống trị đã thơ chuyên nghiệp, như “Đồng tiền của
dẫn đến thực tế là chủ thể văn hóa của thời Chúa”, “Đường Thiên đường”…. “Văn
trung đại bị thu hẹp, chủ yếu là những hóa thời trung cổ cốt yếu mang tính chất
người có học vấn cao, thông thạo ngôn ngữ tôn giáo. Được lưu truyền bởi các học giả,
La – tinh, đó là những vị linh mục, giới tất cả đều là các tăng lữ, nền văn hóa này,
tăng lữ, ngoài ra còn có giới hiệp sĩ quí tộc. trước hết, là cỗ xe chuyên chở lòng tin”
Tôn giáo ngày càng chi phối mạnh mẽ hệ [Xavier Darcos, Lịch sử văn học Pháp,
thống tri thức và cách nhìn thế giới, cũng tr. 26 – 27].
như chi phối cách nhìn cuộc đời của người Tất nhiên, văn hóa và văn học thời
phương Tây trung đại. Về tri thức, đó là sự trung đại đậm tính chất tôn giáo nhưng
chi phối của học thức và những quan niệm không phải thuần tôn giáo. Trong thời kì
có tính chất kinh viện (scholasticisme), đầu nhà thờ, tu viện phát triển rất nhanh, vì
không khuyến khích những sáng tạo mới ngoài việc truyền bá tôn giáo thì các tổ
mà chủ yếu củng cố và làm rõ những tín chức trung gian ấy còn có vai trò rất quan
điều và nhận thức đã có; về cách nhìn đời trọng trong việc tập hợp và liên kết con
sống, tôn giáo hướng con người phải liên người khi mà các dân tộc mới hình thành
tục đặt mình trong tâm điểm của sự lựa chưa lâu, nhưng dần dần càng ngày càng
chọn giữa thiện và ác, giữa tội lỗi và đức rõ, bên cạnh mạch văn hóa tôn giáo - tinh
hạnh, vinh quang và ô nhục (nhất là từ năm thần còn có một mạch văn hóa khác mang
1215, khi Giáo hoàng La Mã ra sắc lệnh tính thế tục (gọi là văn hóa thế tục). Văn
yêu cầu các nhà thần học không chỉ chăm hóa thế tục này, trong đó có văn học mang
sóc các tín đồ tôn giáo mà còn phải quan tính thế tục, vừa xen lẫn với văn hóa tôn
tâm đời sống của người thế tục và quy định giáo – văn hóa tinh thần để tạo nên đặc tính
những người đến tuổi thành niên mỗi năm bất phân của văn học và văn hóa, vừa như
phải xưng tội một lần)… Tính chất tôn một thực thể văn hóa và văn học đối trọng
giáo của văn hóa nói chung cũng chính là với văn hóa tôn giáo và văn hóa La - tinh
đặc điểm quan trọng của văn học trung đại ấy. Mạch văn hóa và văn học thế tục này
phương Tây. Vì vậy, không phải ngẫu càng về hậu kì trung đại càng có vai trò lớn
nhiên mà trong thời kì đầu của văn học, hơn và dần đe dọa thế chỗ cho văn học của
thậm chí là những sáng tác đầu tiên phần văn hóa tôn giáo và La – tinh. Các tác
nhiều rất đậm tính chất tôn giáo, thậm chí phẩm “Những truyện kể ở Canterbury”
có thể xem đó là những tác phẩm gắn với (The Canterbury tales) của nhà văn Anh
chức năng truyền giáo, như bài thơ “Giấc Geoffrey Chaucer (1342 – 1400), hay
mơ Thánh giá” (The Dream of Rood), hay “Chuyện chàng Cáo” (Roman de Renart)
những câu chuyện về cuộc đời của các và hệ thống các câu chuyện mang tính khôi
12
- hài như truyện cười và truyện tiếu lâm mang nặng tính hoài nghi của Montaigne
trong văn học Pháp… là hết sức tiêu biểu hay những học thuyết cổ xúy cho cá nhân
cho văn hóa và văn học thế tục, hoặc có và niềm vui với cái tự nhiên hài hòa của
liên quan đến mạch ngầm văn hóa thế tục Erasme hay của Mirandola… thực sự đã là
hậu kì trung đại. bệ đỡ về mặt tinh thần cho những sáng tạo
Điểm lại một ít về văn học thời đại tiền văn học của thời đại này. Qui luật phát triển
Phục hưng như vậy ta thấy khá rõ rằng, của văn học đã xác nhận rằng, tiến trình lịch
mặc dù trong thời đại trung đại bên cạnh sử văn học không chỉ có đột biến mà còn có
văn học tôn giáo đã có những tác phẩm văn sự tiệm tiến, vừa có sự đứt gãy vừa mang
học mang tính thế tục, nhưng nếu xét trong tính liên tục. Trong những điều kiện mới với
tương quan thì dòng văn học này vẫn đang những tinh thần mới của thời đại Phục
còn lép vế so với mạch văn học mang tính hưng, dòng văn học thế tục vốn có vị thế lép
chính thống kia. Trong một thời đại mà văn vế trong văn hóa trung đại trở thành có ý
hóa chính thống là văn hóa tôn giáo thắng nghĩa như một sự chuẩn bị cho sự bùng nổ
thế, bên cạnh đó là sự chi phối của quyền của một thời đại văn học mới.
lực và thể chế phong kiến, con người chưa Đã có một chủ nghĩa hiện thực thời đại
ý thức nhiều về quyền cá nhân, quyền phải Phục hưng, hay nói cách khác có vẻ chặt chẽ
sống cho mình thì những câu chuyện liên hơn, rằng văn học từ thời đại Phục hưng đã
quan đến vấn đề thân phận, quyền lợi riêng bắt đầu có những biểu hiện theo khuynh
tư chưa thể có đất sống để trên cơ sở đó hướng hiện thực chủ nghĩa, và đó là một
tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết phong trong những bước chuẩn bị quan trọng, có
tục nói riêng nảy sinh và dành được chỗ tính chất nội tại, cho một chủ nghĩa hiện thực
đứng. Thêm vào đó, thẩm mĩ văn học trung ở trình độ cổ điển thăng hoa vào thế kỉ XIX
đại luôn đề cao yêu cầu về tính chất sang ở hầu hết các nền văn học châu Âu. Tuy vậy,
trọng, cao nhã (courtoisie), nhất là những khuynh hướng hiện thực trong thời đại Phục
tác phẩm văn học là con đẻ của văn hóa hưng vẫn chủ yếu là sự khẳng định một tinh
hiệp sĩ quí tộc trung kì trung đại, cho nên thần mới của văn học, đó là sự vinh danh
một thể loại như tiểu thuyết thế tục rõ ràng một mĩ học mới – mĩ học hướng về những
còn rất lâu mới có thể được chấp nhận. giá trị có thực của đời sống, chứ chưa phải
Sang thời đại Phục hưng, có vô số khuynh hướng hiện thực theo nghĩa chú
những thay đổi cả về lịch sử xã hội và văn trọng vào việc thể hiện những bức tranh đời
hóa, ở đó một trong những điều cơ bản và sống, phản ánh những tình thế hiện thực theo
phổ quát nhất, đó là phong trào văn hóa này tinh thần khách quan về lịch sử, hay sự phân
đã góp phần tạo ra một thực tế mới: thế giới tích sâu sắc những quan hệ xã hội đang tồn
thế tục càng ngày càng thể hiện rõ xu hướng tại…. Về phương diện thể loại, các thể loại
thoát ra khỏi sự lệ thuộc thế giới thánh thần. văn học phát triển mạnh và phổ biến chủ yếu
Những sự hoài nghi đối với tôn giáo và chủ vẫn là kịch (Shakespeare…), thơ (Pétrarque,
nghĩa kinh viện trong tri thức thúc đẩy Ronsard…), truyện mang màu sắc phiêu lưu
mạnh mẽ và khuyến khích con người thời và truyện trào phúng (Thomas More,
đại Phục hưng càng ngày càng tin hơn vào Boccaccio, Marguerite de Navarre…), các
cuộc sống trần gian, vào những hoạt động bài luận của những nhà nhân văn chủ nghĩa
thực tiễn và những giá trị vật chất. Tư tưởng (như Montaigne, Erasme, Bruno…). Tác
13
- phẩm được nhắc đến nhiều và là thành thay vào đó là lí tưởng về đời sống hồn
tựu của thể loại tiểu thuyết trong thời kì nhiên và hài hòa (Rabelais), hay khước từ
này là tiểu thuyết nhại mang màu sắc phiêu ảo tưởng của lí tưởng hiệp sĩ trung đại, để
lưu “Don Quijoté” của nhà văn Tây Ban Nha hướng về những giá trị có thực của đời
Cervantès, hay tiểu thuyết trào phúng sống. Việc Rabelais đề cập tới nhiều khía
“Gargantua và Pantagruel” của nhà văn Pháp cạnh khác nhau trong “Gargantua và
F. Rabelais. Cho tới tận thế kỉ XVII cũng Pantagruel” như sự trì trệ lạc hậu của tri
vậy, thể loại tiểu thuyết hầu như vắng bóng thức và nền giáo dục kinh viện, sự phù
trên văn đàn Anh và Đức, chỉ một vài tiểu phiếm của giới quí tộc, hay cảm quan về sự
thuyết gia ở Pháp được biết đến như phu biến đổi liên tục của thế giới… là những
nhân de Lafayette (1634 - 1693) với tiểu vấn đề của đời sống trần gian, nhưng
thuyết mang màu sắc một tiểu thuyết lịch sử Rabelais chưa bao giờ thể hiện trong tác
“Công chúa de Clèves”, hay Fénelon (1651 – phẩm của mình sự miêu tả những vấn đề ấy
1675) với tiểu thuyết mang màu sắc chính trị với ý thức xem chúng là đối tượng thẩm mĩ
“Những cuộc phiêu lưu của Télémaque” và trực tiếp. Khẳng định lí tưởng nhân văn
một số sáng tác của các nhà văn thuộc dòng thông qua việc ca ngợi sự sống hồn nhiên,
văn học cầu kì như Scudéry và D’Urfé... Với tự nhiên và hài hòa vẫn là giá trị căn bản
văn học Pháp thế kỉ XVII, đó là một thế kỉ của tiểu thuyết của nhà văn vĩ đại này. Việc
của sân khầu cổ điển và các hình thức văn Rabelais vận dụng lối kể chuyện ở bàn ăn
học thiên về chức năng giáo hóa đạo đức, (cũng có thể gọi một cách tu từ đó là “thi
với những đỉnh cao như Pierre Corneille và pháp kể chuyện bàn ăn”, một sáng tạo hết
Jean Racine với bi kịch, Molière với hài kịch sức độc đáo mà ông với tư cách là nhà
và La Fontaine với thơ ngụ ngôn… Đặt tiểu thông thái đã rút tỉa bài học từ nhiều nguồn
thuyết phong tục trong lịch sử vận động của nguyên mẫu, từ “Bữa tiệc rượu” của Platon,
thể loại tiểu thuyết như vậy ta mới thấy một “Ca ngợi sự điên rồ” của Erasme… để ta ra)
cách rõ ràng và thực chất hơn thành tựu văn để kể về nguồn gốc và vận số của những
xuôi của thời đại Khai sáng và vị trí của thể người khổng lồ Gargantua và Pantagruel, để
loại tiểu thuyết này. tạo nên, qua lối kể này, một thế giới lí tưởng
Sự ra đời của thể loại tiểu thuyết mà ở đó không có sự cấm cản và đời sống
phong tục đã làm thay đổi đời sống văn học cứ tự nó tuôn ra, hay việc ông cường điệu
rất nhiều mặt, trong đó đặc biệt là sự quá mức (thậm chí cả tục tĩu nữa) khi nói về
thay đổi tư duy tiểu thuyết. Trước thế kỉ các nhân vật của mình và những việc làm
XVIII, nhất là thời Phục hưng, như đã của các nhân vật, việc sử dụng yếu tố kì
khẳng định, tiểu thuyết đã bắt đầu có những ảo…, tất cả đều xoay quanh việc mục đích
biểu hiện của khuynh hướng hiện thực qua khẳng định lí tưởng về sự hài hòa, tự nhiên
một số sáng tác của các nhà văn đỉnh cao và và về một thế giới mới mang đầy sức sống.
tiên phong như Cervantès hay Rabelais… Tiểu thuyết “Don Quijoté” của Cervantès
Điều đó là không phủ nhận, nhưng khuynh cũng tương tự như vậy, ở đó có nhiều điểm
hướng hiện thực trong sáng tác của những khiến người đọc nghĩ về khía cạnh giá trị
nhà văn này, xét đến cùng, chủ yếu vẫn đặt hiện thực. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì so
trọng tâm vào thái độ từ khước thế giới với “Gargantua và Pantagruel” của Rabelais,
siêu nhiên và những ảo tưởng siêu nhiên, rõ ràng Cervantès đã loại bỏ ra khỏi tiểu
14
- thuyết của mình những sự kiện và tình tiết có trong những mẫu mực của hình thức văn học
tính phi thực, kì ảo, tuy rằng sự cường điệu nhại (parody) trong lịch sử văn học phương
trong việc xây dựng hình tượng hiệp sĩ Don Tây, một hình thức văn học mà ở đó nhà văn
Quijoté vẫn còn. Mặt khác, trong tiểu thuyết dựa trên nguyên mẫu (có thể từ văn học, có
này, bên cạnh Don Quijoté đắm đuối với ảo thể từ đời sống), rồi nhào nặn, sửa đổi và
tưởng cứu vớt nhân loại và biến câu chuyện sáng tạo lại bằng một hình thức thẩm mĩ
sách vở thành câu chuyện cuộc đời là nhân khác. Các nhà văn của chủ nghĩa hiện đại và
vật giám mã Sancho Pansa vô cùng thực tế hậu hiện đại rồi sẽ học được rất nhiều từ
với những toan tính và mơ ước rất đời những tác phẩm như của nhà văn vĩ đại
thường. Tuy vậy, xét về động cơ và mục đích người Tây Ban Nha này. Còn trong thời đại
sáng tạo, Cervantès cũng như Rabelais, điều tiền Khai sáng, vào thế kỉ XVII, những giá
chủ yếu mà nhà văn này muốn nói với người trị lớn lao của văn học Phục hưng, trong đó
đọc của mình là hãy từ bỏ những ảo tưởng có tiểu thuyết, sẽ được kết tinh trong tinh
viển vông, và rằng sức mạnh thực sự của con thần quay về với cái có thực, cái vốn có, tức
người nằm ở chính cuộc sống thực tiễn này. là cái tự nhiên trong đời sống tâm hồn và
Việc nhân vật chính của tiểu thuyết cuối tâm lí con người của chủ nghĩa cổ điển
cùng phải chuốc lấy thất bại thì đó cũng thông qua cuốn “Nghệ thuật thơ” của
không phải Cervantès muốn nêu lên vấn đề Boileau: hãy tôn trọng tự nhiên, “tự nhiên là
thân phận con người như trong các tiểu đối tượng duy nhất của các bạn”, và “không
thuyết sau này, mà đó là sự thất bại của một được xa rời tự nhiên nửa bước”. Tự nhiên
ảo tưởng. Còn một ý nghĩa trực tiếp hơn, tác tức là không phải cái siêu nhiên, đó là một
phẩm khiến cho người đọc có thể nhận ra trong những nguyên tắc nghệ thuật của thế
rằng: thời thế đã thay đổi, một cấu trúc văn kỉ cổ điển, chính tư tưởng đó đã làm cho văn
hóa khác đã ra đời và có nhiều hứa hẹn, cho học từ thời đại Phục hưng đến thế kỉ XVIII
nên văn hóa hiệp sĩ và con đẻ của nó là trở nên có một sợi dây liền lạc với nhau.
dòng văn học thanh nhã hiệp sĩ thời trung Trở lại với tiểu thuyết phong tục thế kỉ
đại với những tác phẩm như “Tristan và XVIII và ý nghĩa của nó đối với sự tiến hóa
Yseut” hay những câu chuyện chung quanh của dòng tiểu thuyết hiện thực phương Tây.
vị vua Arthur huyền thoại… dù sao cũng đã Chủ nghĩa hiện thực (réalisme) hay
đến lúc phải nhường chỗ cho một kiểu văn hiện thực phê phán (theo cách gọi của
học mới và một nền văn hóa mới, đó là một Maxim Gorky) đạt tới trình độ cổ điển vào
thời đại mà những sản phẩm sáng tạo có ý thế kỉ XIX và trở thành một hiện tượng
nghĩa như là sự thực hành một nền văn hóa văn học mang tính thế giới, có ảnh hưởng
tạo ra niềm vui, sự thú vị và đầy tinh thần tới nhiều nền văn học, với những nhà văn
thực tiễn. Xác định những đặc điểm đó của bậc thầy như Honoré de Balzac, Stendhal,
tiểu thuyết thời đại Phục hưng không có Gustave Flaubert… (của Pháp), Charles
nghĩa là hạ thấp giá trị các sáng tác của Dickens, Thackeray, Bronte… (của Anh),
Rabelais hay Cervantès mà trái lại, ta càng Wilhelm Raabe, Theodor Fontane… (của
thấy rõ hơn vị trí ngọn cờ của họ trong trào Đức), William Dean Howells, Mark
lưu nhân văn chủ nghĩa thời đại tiền Khai Twain… (Mỹ)… Những nhà văn này, bằng
sáng. Thực tế thì chính tiểu thuyết “Don sáng tác của mình, đã tạo ra một mô hình
Quijoté” của Cervantès được xem là một văn học có những đặc điểm riêng biệt, đó
15
- là sự ưu tiên cho quan sát đời sống, là khả môi trường sống như các nhà văn hiện thực
năng đồng hóa nội dung đời sống thành nội phong tục thế kỉ XIX (như Balzac,
dung nghệ thuật thông qua những cách Stendhal, Dickens, Thackeray…) để rồi
thức và phương tiện nghệ thuật riêng, gắn biến nó thành một khách thể thẩm mĩ. Tuy
liền với cách nhìn và quan niệm đời sống nhiên những đặc điểm đó không phải là
và con người của cá nhân nhà văn, là khả khiếm khuyết của các nhà văn mà điều đó
năng phân tích đời sống theo quan điểm phản ánh xu hướng phổ quát của văn xuôi
duy lí, đồng thời có thiên hướng mạnh mẽ thời đại Khai sáng, một thời đại mà văn
trong thái độ phê phán đối với những mặt học đã lựa chọn trọng tâm cho mình là góp
trái của đời sống... Tuy nhiên, như đã nói, phần thức tỉnh lương tri và xây dựng đạo
không có một hiện tượng văn học nào, kể đức mới cho con người. Thể loại tiểu
cả những hiện tượng văn học được cho là thuyết phong tục bởi vậy, dù thành tựu
có ý nghĩa cách mạng nhất về phương diện chưa trở thành phổ biến, nhưng đó là một
tư duy nghệ thuật, mà lại không thông qua hình thức văn học quan trọng trong quá
một quá trình chuẩn bị lâu dài trước khi nó trình vận động của dòng văn học theo
có thể thăng hoa rực rỡ. Với quan điểm khuynh hướng hiện thực. Về mặt xã hội,
ấy, thể loại tiểu thuyết phong tục thế kỉ các tiểu thuyết phong tục đã nói lên được
XVIII có thể được xem như một bước một thực tế quan trọng của thời đại, rằng
chuẩn bị quan trọng, có tính chất tiền đề đây là thời đại “con người ý thức được sự
trực tiếp và là một kinh nghiệm quí đối với có mặt của mình trên thế giới với tư cách là
chủ nghĩa hiện thực cổ điển thế kỉ XIX. Tất một tộc loại cá thể” hết sức sâu sắc. Và về
nhiên trong các tiểu thuyết phong tục tiêu mặt văn học, tiểu thuyết phong tục, cũng
biểu mà ta đã đề cập như “Pamela hay đức có thể hiểu rộng ra là tiểu thuyết hiện thực
hạnh được đền bù” của Richardson, hay thời Khai sáng, đã “mở ra khả năng nghiên
“Chuyện về Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi” cứu không chỉ sự phức tạp của thế giới bên
của Henry Fielding, sự đề cập đến nếp ngoài mà cả những phức tạp của cá nhân,
sống trong các gia đình tư sản hay trong sự phong phú của nó, những xung đột,
những gia đình nông thôn Anh và phần năng lực của nó” [Souchkov, Số phận lịch
nào là tập tục xã hội vẫn thường đi liền với sử của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm
câu chuyện về đạo đức (và điều này với mới, tr.43]. Tiểu thuyết phong tục đã góp
văn học thế kỉ XVIII là phổ biến: khai sáng phần vào việc định hình một tư duy tiểu
cũng mang ý nghĩa xây dựng đời sống tâm thuyết mới: thế sự hóa đối tượng thẩm mĩ
hồn, đạo đức xã hội). Hơn nữa, dù đã và cách thức biểu hiện. Ý nghĩa tiền đề trực
chạm đến vấn đề phong tục, tập quán hay tiếp cho tiểu thuyết hiện thực cổ điển thế kỉ
hoàn cảnh hiện thực của nhân vật nhưng XIX của tiểu thuyết phong tục thế kỉ XVIII
các tác giả cũng chưa coi trọng vai trò của một phần quan trọng chính là ở điểm đó.
16
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexander, M. (2006), Lịch sử văn học Anh quốc, Cao Hùng Lynh dịch, Nxb
Văn hóa -Thông tin.
2. Benoit, A., Fontaine, G.… (1994), Histoire de la littérature européenne, Hachette,
Paris.
3. Carpusina, X. & Carpusin, V (2004), Mai Lý Quảng dịch, Lịch sử văn hóa thế giới,
Nxb Thế giới.
4. Darcos, X. (1997), Lịch sử văn học Pháp, Phan Quang Định dịch, Nxb Văn hóa-
Thông tin.
5. Lanson, G. (1951), Histoire de la littérature franc, aise, Librairie Hachette
6. Pospelov, G.N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử dịch, Nxb
Giáo dục.
7. Phùng Văn Tửu (2006), Văn học Âu – Mỹ, Nxb ĐHSP Hà Nội.
8. Xuskov, B. (1977), Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực, Hoàng Ngọc Hiến dịch,
Nxb Tác phẩm mới.
* Ngày nhận bài: 26/8/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014
17
nguon tai.lieu . vn