- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Tiểu luận Xây dựng chương trình phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh dựa trên nhóm chỉ tiêu tổng hợp cho Công ty Cổ phần Xây dựng Sông Hồng - Hà Nội
Xem mẫu
- MỤC LỤC
1
- DANH MỤC HÌNH
2
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tăt Diễn giải
VCSH Vốn chủ sở hữu
TTPH Thông tin phản hồi
KQKD Kết quả kinh doanh
KQHĐKD Kết quả hoạt động kinh doanh
3
- LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Kinh tế xã hội ngày càng phát triển, các hoạt động kinh doanh đa dạng và
phong phú hơn. Do đó việc phân tích quá trình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp là một vấn đề cần thiết hiện nay. Kết quả phân tích không chỉ giúp cho
doanh nghiệp nắm bắt được tình hình hoạt động của công ty mà còn dùng để đánh
giá dự án đầu tư, tính toán mức độ thành công trước khi bắt đầu ký kết hợp đồng.
Ngoài ra, việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh còn là một trong những lĩnh
vực không chỉ được quan tâm bởi các nhà quản trị mà còn nhiều đối tựơng kinh tế
khác liên quan đến doanh nghiệp. Dựa trên những chỉ tiêu kế hoạch, doanh nghiệp
có thể định tính trước khả năng sinh lời của hoạt động, từ đó phân tích và dự đoán
trước mức độ thành công của kết quả kinh doanh. Qua đó, hoạt động kinh doanh
không chỉ là việc đánh giá kết quả mà còn là việc kiểm tra, xem xét trước khi bắt
đầu quá trình kinh doanh nhằm hoạch định chiến lược tối ưu. Để đạt được kết quả
cao nhất trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định phương
hướng, mục tiêu trong đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện vốn có về các
nguồn nhân tài, vật lực. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nắm được các nhân tố
ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh
doanh. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ sở của phân tích kinh doanh. Từ những
cơ sở về phân tích hoạt động kinh doanh nên em chọn đề tài:" Xây dựng chương
trình phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh dựa trên nhóm chỉ tiêu tổng hợp
cho Công ty Cổ phần Xây dựng Sông Hồng – Hà Nội" là một đề tài phù hợp với
công ty hiện nay. Nó góp phần giúp cho công ty hiểu được khả năng hoạt động kinh
doanh của mình và từ đó có kế hoạch hoạch định chiến lược kinh doanh tốt trong
thời gian tới.
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu hệ thống những lý luận cơ bản về phân tích hoạt động sản xuất
kinh doanh. Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Đánh giá
4
- và đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Phạm vi
nghiên cứu công ty Cổ phần Xây dựng Sông Hồng – Hà Nội.
5
- 3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là Công ty Cổ phần Xây dựng Sông Hồng – Hà
Nội
Phương pháp: Phương pháp so sánh.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, lời cảm ơn đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Tổng quan về phân tích hoạt động kinh doanh
Chương 2: Khảo sát và phân tích thiết kế cho chương trình phân tích hoạt
động kinh doanh tại Công ty CP xây dựng Sông Hồng
Chương 3: Xây dựng chương trình phân tích hoạt động kinh doanh
6
- 7
- Chương 1.
TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
1.1. Khái niệm, ý nghĩa và đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh
1.1.1. Khái niệm phân tích hoạt động kinh doanh
“Phân tích, hiểu theo nghĩa chung nhất là sự chia nhỏ sự vật và hiện tượng
trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành sự vật, hiện tượng đó”
“Phân tích hoạt động kinh doanh (PTKD) là quá trình nghiên cứu để đánh giá
toàn bộ quá trình và kết quả của hoạt động kinh doanh; các nguồn tiềm năng cần
khai thác ở doanh nghiệp (DN), trên cơ sở đó đề ra các phương án và giải pháp để
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN”
Trước đây, trong điều kiện sản xuất kinh doanh đơn giản và với quy mô nhỏ,
yêu cầu thông tin cho nhà quản trị chưa nhiều và chưa phức tạp, công việc phân tích
thường được tiến hành giản đơn, có thể thấy ngay trong công tác hạch toán. Khi
sản xuất kinh doanh càng phát triển thì nhu cầu thông tin cho nhà quản trị càng
nhiều, đa dạng và phức tạp. PTKD hình thành và phát triển như một môn khoa học
độc lập, để đáp ứng nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị.
Phân tích như là một hoạt động thực tiễn, vì nó luôn đi trước quyết định và là
cơ sở cho việc ra quyết định. PTKD như là một ngành khoa học, nó nghiên cứu một
cách có hệ thống toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh để từ đó đề xuất những
giải pháp hữu hiệu cho mỗi DN.
Như vậy, PTKD là quá trình nhận biết bản chất và sự tác động của các mặt
của hoạt động kinh doanh, là quá trình nhận thức và cải tạo hoạt động kinh doanh
một
cách tự giác và có ý thức, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng DN và phù hợp
với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan nhằm mang lại hiệu quả kinh
doanh cao.
1.1.2. Ý nghĩa của phân tích hoạt động kinh doanh
- Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ quan trọng để phát hiện khả
8
- năng tiềm tàng trong hoạt động kinh doanh.
- Thông qua phân tích hoạt động DN chúng ta mới thấy rõ được các nguyên
nhân, nhân tố cũng như nguồn gốc phát sinh của các nguyên nhân và nhân tố ảnh
hưởng, từ đó để có các giải pháp cụ thể và kịp thời trong công tác tổ chức và quản
lý sản xuất. Do đó nó là công cụ cải tiến cơ chế quản lý trong kinh doanh.
- PTKD giúp DN nhìn nhận đúng đắn về khả năng, sức mạnh cũng như
những hạn chế trong DN của mình. Chính trên cơ sở này các DN sẽ xác định đúng
đắn mục tiêu và chiến lược kinh doanh có hiệu quả.
- PTKD là công cụ quan trọng trong chức năng quản trị, là cơ sở để đề ra các
quyết định đúng đắn trong chức năng quản lý, nhất là trong các chức năng kiểm tra,
đánh giá và điều hành hoạt động SXKD trong DN.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là biện pháp quan trọng để phòng ngừa và
ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra.
- Tài liệu PTKD còn rất cần thiết cho các đối tượng bên ngoài, khi họ có các
mối quan hệ về kinh doanh, nguồn lợi với DN, vì thông qua phân tích họ mới có thể
có quyết định đúng đắn trong việc hợp tác, đầu tư, cho vay...đối với DN nữa hay
không?
1.1.3. Ðối tượng
Với tư cách là một khoa học độc lập, PTKD có đối tượng riêng:
“Đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình và kết quả của
hoạt động kinh doanh cùng với sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến quá
trình và kết quả đó, được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu kinh tế”
Kết quả kinh doanh mà ta nghiên cứu có thể là kết quả của từng giai đoạn
riêng biệt như kết quả mua hàng, kết quả sản xuất, kết quả bán hàng... hay có thể
là kết quả tổng hợp của quá trình kinh doanh, kết quả tài chính...v.v
Khi phân tích kết quả kinh doanh, người ta hướng vào kết quả thực hiện các
định hướng mục tiêu kế hoạch, phương án đặt ra.
Kết quả kinh doanh thông thường được biểu hiện dưới các chỉ tiêu kinh tế.
Chỉ tiêu là sự xác định về nội dung và phạm vi của các kết quả kinh doanh. Nội
9
- dung chủ yếu của phân tích kết quả là phân tích các chỉ tiêu kết quả kinh doanh mà
DN đã đạt được trong kỳ, như doanh thu bán hàng, giá trị sản xuất, giá thành, lợi
nhuận...Tuy nhiên, khi phân tích các chỉ tiêu kết quả kinh doanh chúng ta phải luôn
luôn đặt trong mối quan hệ với các điều kiện (yếu tố) của quá trình kinh doanh như
lao động, vật tư, tiền vốn, diện tích đất đai...vv. Ngược lại, chỉ tiêu chất lượng
phản ánh lên hiệu quả kinh doanh hoặc hiệu suất sử dụng các yếu tố kinh doanh
như giá thành, tỷ suất chi phí, doanh lợi, năng suất lao động...vv.
10
- Dựa vào mục đích phân tích mà chúng ta cần sử dụng các loại chỉ tiêu khác
nhau, cụ thể: Chỉ tiêu số tuyệt đối, chỉ tiêu số tương đối, chỉ tiêu bình quân. Chỉ tiêu
số tuyệt đối dùng để đánh giá quy mô kết quả kinh doanh hay điều kiện kinh doanh.
Chỉ tiêu số tương đối dùng trong phân tích các mối quan hệ giữa các bộ phận, các
quan hệ kết cấu, quan hệ tỷ lệ và xu hướng phát triển. Chỉ tiêu bình quân phản ánh
trình độ phổ biến của các hiện tượng.
Tuỳ mục đích, nội dung và đối tượng phân tích để có thể sử dụng các chỉ
tiêu hiện vật, giá trị, hay chỉ tiêu thời gian. Ngày nay, trong kinh tế thị trường các
DN thường dùng chỉ tiêu giá trị. Tuy nhiên, các DN sản xuất, DN chuyên kinh doanh
một hoặc một số mặt hàng có quy mô lớn vẫn sử dụng kết hợp chỉ tiêu hiện vật
bên cạnh chỉ tiêu giá trị. Trong phân tích cũng cần phân biệt chỉ tiêu và trị số chỉ tiêu.
Chỉ tiêu có nội dung kinh tế tương đối ổn định, còn trị số chỉ tiêu luôn luôn thay đổi
theo thời gian và địa điểm cụ thể.
Phân tích kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả kinh doanh
thông các chỉ tiêu kinh tế mà còn đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu đó. Một cách chung nhất, nhân tố là những
yếu tố bên trong của mỗi hiện tượng, quá trình...và mỗi biến động của nó tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp ở một mức độ và xu hướng xác định đến các kết quả biểu
hiện các chỉ tiêu.
Ví dụ: Doanh thu bán hàng phụ thuộc vào lượng bán hàng ra, giá cả bán ra và
cơ cấu tiêu thụ. Ðến lượt mình, khối lượng hàng hoá bán ra, giá cả hàng hoá bán ra,
kết cấu hàng hoá bán ra lại chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như khách
quan, chủ quan, bên trong, bên ngoài...vv.
Theo mức độ tác động của các nhân tố, chúng ta có thể phân loại các nguyên
nhân và nhân tố ảnh hưởng thành nhiều loại khác nhau, trên các góc độ khác nhau.
Trước hết theo tính tất yếu của các nhân tố: có thể phân thành 2 loại: Nhân tố
khách quan và nhân tố chủ quan.
Nhân tố khách quan là loại nhân tố thường phát sinh và tác động như một yêu
cầu tất yếu nó không phụ thuộc vào chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Kết
quả hoạt động của mỗi DN có thể chịu tác động bởi các nguyên nhân và nhân tố
11
- khách quan như sự phất triển của lực lượng sản xuất xã hội, luật pháp, các chế độ
chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, môi trường, vị trí kinh tế xã hội, về tiến bộ
khoa học kỹ thuật và ứng dụng. Các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá, giá cả chi
phí, giá cả dịch vụ thay đổi, thuế suất, lãi suất, tỷ suất tiền lương...cũng thay đổi
theo.
Nhân tố chủ quan là nhân tố tác động đến đối tượng nghiên cứu phụ thuộc vào
nỗ lực chủ quan của chủ thể tiến hành kinh doanh. Những nhân tố như: trình độ sử
dụng lao động, vật tư, tiền vốn, trình độ khai thác các nhân tố khách quan của DN làm
ảnh hưởng đến giá thành, mức chi phí thời gian lao động, lượng hàng hoá, cơ cấu hàng
hoá...vv.
Theo tính chất của các nhân tố có thể chia ra thành nhóm nhân tố số lượng
và nhóm các nhân tố chất lượng.
Nhân tố số lượng phản ánh quy mô kinh doanh như: Số lượng lao động, vật
tư, lượng hàng hoá sản xuất, tiêu thụ... Ngược lại, nhân tố chất lượng thường phản
ánh hiệu suất kinh doanh như: Giá thành, tỷ suất chi phí, năng suất lao động...Phân
tích kết quả kinh doanh theo các nhân tố số lượng và chất lượng vừa giúp ích cho
việc đánh giá chất lượng, phương hướng kinh doanh, vừa giúp cho việc xác định
trình tự
sắp xếp và thay thế các nhân tố khi tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
đến kết quả kinh doanh.
Theo xu hướng tác động của nhân tố, thưòng người ta chia ra các nhóm nhân
tố tích cực và nhóm nhân tố tiêu cực.
Nhân tố tích cực là những nhân tố tác động tốt hay làm tăng độ lớn của hiệu
quả kinh doanh và ngược lại nhân tố tiêu cực tác động xấu hay làm giảm quy mô
của kết quả kinh doanh. Trong phân tích cần xác định xu hướng và mức độ ảnh
hưởng tổng hợp của các nhân tố tích cực và tiêu cực.
Nhân tố có nhiều loại như đã nêu ở trên, nhưng nếu quy về nội dung kinh tế
thì có hai loại: Nhân tố thuộc về điều kiện kinh doanh và nhân tố thuộc về kết quả
kinh doanh. Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh doanh như: Số lượng lao động,
lượng hàng hoá, vật tư, tiền vốn...ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô kinh doanh. Các
12
- nhân tố thuộc về kết quả kinh doanh ảnh hưởng suốt quá trình kinh doanh từ khâu
cung ứng vật tư đến việc tổ chức quá trình sản xuất cho đến khâu tiêu thụ sản
phẩm và từ đó ảnh hưởng đến kết quả tổng hợp của kinh doanh như nhân tố giá cả
hàng hoá, chi phí, khối lượng hàng hoá sản xuất và tiêu thụ.
Như vậy, tính phức tạp và đa dạng của nội dung phân tích được biểu hiện
qua hệ thống các chỉ tiêu kinh tế đánh giá kết quả kinh doanh. Việc xây dựng tương
đối hoàn chỉnh hệ thống các chỉ tiêu với cách phân biệt hệ thống chỉ tiêu khác nhau,
việc phân loại các nhân tố ảnh hưởng theo các góc độ khác nhau không những giúp
cho DN đánh giá một cách đầy đủ kết quả kinh doanh, sự nỗ lực của bản thân DN,
mà còn tìm ra được nguyên nhân, các mặt mạnh, mặt yếu để có biện pháp khắc
phục nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Khi phân tích kết quả kinh doanh biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế dưới sự
tác động của các nhân tố mới chỉ là quá trình “định tính”, cần phải lượng hoá các chỉ
tiêu và nhân tố ở những trị số xác định với độ biến động xác định. Ðể thực hiện
được công việc cụ thể đó, cần nghiên cứu khái quát các phương pháp trong phân
tích kinh doanh.
1.2. Các phương pháp phân tích tình hình tài chính
1.2.1. Phương pháp chung
Là phương pháp xác định trình tự bước đivà những nguyên tắc cần phải quán
triệt khi tiến hành phân tích một chỉ tiêu kinh tế nào đó.
Với phương pháp này là sự kết hợp triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của triết học Mác LêNin làm cơ sở. Đồng thời phải dựa vào các chủ
trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ. Phải phân tích đi từ chung đến
riêng và phải đo lường được sự ảnh hưởng và phân loại ảnh hưởng.
Tất cả các điểm trên phương pháp chung nêu trên chỉ được thực hiện khi kết hợp
nó với việc sử dụng một phương pháp cụ thể. Ngược lại các phương pháp cụ thể
muốn phát huy tác dụng phải quán triệt yêu cầu của phương pháp chung.
1.2.2. Các phương pháp cụ thể
13
- Đó là những phương pháp phải sử dụng những cách thức tính toán nhất định.
Trong phân tích tình hình tài chính, cũng như phạm vi nghiên cứu của luận văn, em
xin được đề cập một số phương pháp sau:
1.2.2.1. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để xác định xu
hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh phải
giải quyết những vấn đề cơ bản, cần phải đảm bảo các điều kiện đồng bộ để có
thể so sánh được các chỉ tiêu tài chính. Như sự thống nhất về không gian, thời gian,
nội dung, tính chất và đơn vị tính toán. Đồng thời theo mục đích phân tích mà xác
định gốc so sánh.
Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu số gốc
để so sánh là trị số của chỉ tiêu kỳ trước (nghĩa là năm nay so với năm trước) và có
thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân.
Kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo, kỳ kế hoạch.
Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian.
Trên cơ sở đó, nội dung của phương pháp so sánh bao gồm:
+ So sánh kỳ thực hiện này với kỳ thực hiện trước để đánh giá sự tăng hay
giảm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó có nhận xét về xu
hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp.
+ So sánh số liệu thực hiện với số liệu kế hoạch, số liệu c ủa doanh nghi ệp
với số liệu trung bình của ngành, của doanh nghiệp khác để thấy mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp được hay chưa được.
+ So sánh theo chiều dọc để xem tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so
sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự thay đổi về lượng và về tỷ lệ
của các khoản mục theo thời gian.
1.2.2.2. Phương pháp cân đối
Là phương pháp mô tả và phân tích các hiện tượng kinh tế mà giữa chúng tồn
tại mối quan hệ cân bằng hoặc phải tồn tại sự cân bằng.
14
- Phương pháp cân đối thường kết hợp với phương pháp so sánh để giúp người
phân tích có được đánh giá toàn diện về tình hình tài chính.
Phương pháp cân đối là cơ sở sự cân bằng về lượng giữa tổng số tài sản và
tổng số nguồn vốn, giữa nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các loại tài sản
trong doanh nghiệp. Do đó sự cân bằng về lượng dẫn đến sự cân bằng về sức biến
động về lượng giữa các yếu tố và quá trình kinh doanh.
1.2.2.3. Phương pháp phân tích tỷ lệ
Phươ ng pháp này đượ c áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính vì nó dựa
trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượ ng tài chính trong các quan hệ tài
chính.
Phương pháp tỷ lệ giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu
và phân tích một cách có hệ thống hàng loại tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc
theo từng giai đoạn. Qua đó nguồn thông tin kinh tế và tài chính được cải tiến và
cung cấp đầy đủ hơn. Từ đó cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy quá trình tính
toán hàng loạt các tỷ lệ như:
+ Tỷ lệ về khả năng thanh toán : Được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng
các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ và khả năng cân đối vốn, cơ cấu vốn và nguồn vốn: Qua chỉ tiêu này
phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính.
+ Tỷ lệ về khả năng hoạt động kinh doanh : Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng
cho việc sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp.
+ Tỷ lệ về khả năng sinh lời: Phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng
hợp nhất của doanh nghiệp.
Kết luận: Các phương pháp trên nhằm tăng hiệu quả phân tích. chúng ta sẽ sử
dụng kết hợp và sử dụng thêm một số phương pháp bổ trợ khác như phương pháp
liên hệ phương pháp loại trừ nhằm tận dụng đầy đủ các ưu điểm của chúng để
thực hiện mục đích nghiên cứu một cách tốt nhất.
1.3. Hệ thống báo cáo tài chính
1.3.1. Phân tích bảng cân đối kế toán
15
- Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng thể, là bảng tổng hợp cân đối
tổng thể phản ánh tổng hợp tình hình vốn kinh doanh của đơn vị cả về tài sản và
nguồn vốn hiện có của đơn vị ở một thời điểm nhất định. Thời điểm quy định là
ngày cuối cùng của một kỳ báo cáo.
Thực chất của bảng cân đối kế toán là bảng cân đối giữa tài sản và nguồn
hình thành tài sản của doanh nghiệp cuối kỳ hạch toán. Số liệu trên Bảng cân đối
kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu tài sản
, nguồn vốn, và cơ cấu nguồn vốn hình thành các tài sản đó. Căn cứ vào Bảng cân
đối kế toán, ta có thể nhận xét, đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
16
- 1.3.2. Phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh
tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ hoạt động của doanh nghiệp
và chi tiết cho các hoạt động kinh doanh chính. Nói cách khác báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh là phương tiện trình bày khả năng sinh lời và thực trạng hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.3. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn gọi là báo cáo ngân lưu hay báo cáo lưu kim,
là báo cáo tài chính cần thiết không chỉ đối với các nhà quản trị hoặc giám đốc tài
chính của doanh nghiệp. Kết quả phân tích ngân lưu giúp doanh nghiệp điều phối
lượng tiền mặt một cách cân đối giữa các lĩnh vực : Hoạt động kinh doanh, hoạt
động đầu tư và hoạt động tài chính. Nói một cách khác, báo cáo ngân lưu chỉ rac các
hoạt động nào tạo ra tiền, lĩnh vực nào sử dụng tiền, khả năng thanh toán,lượng
tiền thừa thiếu và thời điểm cần sử dụng để hiểu quả cao nhất, tối thiểu hóa chi
phí sử dụng vốn.
1.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Báo cáo thuyết minh là báo cáo được trình bày bằng lời văn nhằm giải thích
chi tiết về nội dung thay đổi về tài sản, nguồn vốn mà các dữ liệu bằng số trong
báo cáo tài chính không thể được hết.
1.4. Phân tích đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp
1.4.1. Phân tích tình hình tài chính thông qua bảng cân đối kế toán
Khi phân tích bảng cân đối kế toán, chúng ta sẽ xem xét và nghiên cứu các vấn
đề cơ bản sau:
Xem xét sự biến động của tổng tài sản và của từng loại tài sản. Qua đó thấy
được quy mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của công ty.
Xem xét cơ cấu có hợp lý không? Cơ cấu vốn có tác động như thế nào đến
quá trình kinh doanh.
17
- Khái quát xác định mức độ độc lập (hoặc phụ thuộc) về mặt tài chính của
doanh nghiệp.
Xem xét mối quan hệ cân đối giữa các chi tiêu, các khoản mục.
Phân tích các chi tiêu phản ánh khả năng thanh toán và cấu trúc tài chính
1.4.2. Phân tích tình hình tài chính thông qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh
Khi phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chúng ta sẽ xem xét và
nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
Xem xét sự biến động từng chỉ tiêu trên phần lãi, lỗ giữa năm này với năm
trước. Đặc biệt chú ý đến doanh thu, doanh thu thuần, lợi nhuận gộp, lợi nhuận
thuần, lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế.
Tính toán phân tích các chỉ tiêu phản ánh mức độ sử dụng các khoản chi phí,
kết quả kinh doanh của công ty.
1.5. Các chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính
1.5.1. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Đây là các chỉ tiêu được rất nhiều người quan tâm : các ngân hàng, nhà đầu tư,
nhà cung cấp...Trong mọi quan hệ với doanh nghiệp, họ luôn đặt ra những câu hỏi
liệu doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn không? Để trả lời
câu hỏi trên, các chỉ tiêu sau đây thường được sử dụng.
a, Khả năng thanh toán tổng quát
Hệ số thanh toán tổng quát là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay
doanh nghiệp đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả bảo gồm : nợ ngắn
hạn và nợ dài hạn.
Công thức tính :
b, Khả năng thanh toán ngắn hạn
18
- Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đo lường khả năng mà các tài sản
ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn. Nếu
hệ số này cao, có thể đem lại sự an toàn về khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị
của tài sản ngắn hạn. Điều đó thể hiện tiềm năng thanh toán cao so với nghĩa vụ
phải thanh toán. Tuy nhiên, một doanh nghiệp có hệ số khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn quá cao cũng có thể doanh nghiệp doanh nghiệp đó đã đầu tư quá đáng
vào tài sản hiện hành, một sự đầu tư không mang lại hiệu quả. Mặt khác, trong
toàn bộ tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, khả năng chuyển hóa thành tiền của
các bộ phận là khác nhau. Khả năng chuyển hóa thành tiền của hàng tồn kho là
chậm nhất. Do vậy để đánh giá khả năng thanh toán một cách khắt khe hơn, có thể
sử dụng hệ số khả năng thanh toán nhanh.
Công thức :
c, Khả năng thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh đo lường khả năng thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn của doanh nghiệp bằng việc chuyển đổi các tài sản lưu động, không kể
hàng tồn kho. Doanh nghiệp có hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và hệ số khả
năng thanh toán nhanh cao nhưng vẫn không có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn
hạn đến hạn thanh toán do các khoản thu chưa thu hồi được hàng tồn kho chưa chuyển
hóa được thành tiền. Bởi vậy, muốn biết khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp
tại thời điểm xem xét, ta có thể sử dụng công thức sau:
d, Khả năng thanh toán dài hạn.
19
- Để đánh giá khả năng này ta cần dựa trên năng lực tài sản cố định hình thành từ
vốn vay và mức trích khấu hao căn bản hàng năm, xem xét xem mức trích khấu hao căn
bản hàng năm có đủ trả nợ các khoản vay dài hạn đến hạn trả không.
Công thức tính :
20
nguon tai.lieu . vn