- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận: Vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Xem mẫu
- A. LỜI MỞ ĐẦU
Tổng bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam -
Lê Khả Phiêu phát biểu tại hội thảo quốc tế Việt Nam trong th ế k ỷ 20 đã
từng nói: "Dân tộc chúng tôi hiểu đầy đủ rằng: dân tộc mình là một dân tộc
nghèo, một đất nước đang phát triển ở mức thấp… Chúng tôi hiểu rõ
khoảng cách giữa nền kinh tế của chúng tôi và nền kinh tế của những
nước phát triển trên thế giới. Chúng tôi hiểu rõ khoa học công nghệ trong
thế kỷ 21 sẽ có những bước tiến khổng lồ. Thực hiện tư tưởng vĩ đ ại c ủa
chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lấy sức ta mà giải phóng cho ta chúng tôi ph ải tri
thức hóa Đảng, tri thức hóa dân tộc tiếp tục tri thức hóa công nông, cả
nước là một xã hội học tập, phát huy truyền thống những ngày mới giành
độc lập 45 cả nước học chữ, cả nước diệt giặc dốt, cả nước diệt giặc đói.
Phải nắm lấy ngọn cờ khoa học như đã nắm lấy ngọn cờ dân tộc". Một
dân tộc dốt, một dân tộc đói nghèo là một dân tộc y ếu. Chúng ta đã t ừng
chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thắng lợi đó là thắng lợi của
lực lượng trí tuệ Việt Nam đối với lực lượng sắt thép và đô la kh ổng l ồ
của Mỹ. Con người Việt Nam đã làm được những điều tưởng như không
làm được, và tôn tin rằng con người Việt Nam trong giai đoạn mới với
những thử thách mới vẫn sẽ làm được những điều kỳ diệu nh ư th ế với lực
lượng lao động dồi dào, ngày càng phát triển cả về số lượng và ch ất
lượng. Đất nước Việt Nam sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu
cho dù hiện nay chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, rất nhi ều s ự đ ối đ ầu.
Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: "Vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đ ất n ước" cho
đề án kinh tế chính trị của mình.
- B. NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
1. Thế nào là công nghiệp hóa - hiện đại hóa
a. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hóa -
hiện đại hóa
Những nước quá độ tuần tự hay còn gọi là những nước quá độ t ừ
Chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù ch ưa có được cơ s ở v ật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhưng ít ra cũng có tiền đề vật ch ất là
nền đại công nghiệp cơ khí do Chủ nghĩa tư bản để l ại. Vì v ậy đ ể xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cách mạng khoa học, kỹ thuật và công ngh ệ,
ứng dụng những thành tựu của nó vào sản xuất, tiến hành cuộc các h mạng
xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, phân bố và phát tri ển s ản xu ất m ột
cách đồng đều trong cả nước. Thực chất của quá trình này biến những tiền
đề vật chất do chủ nghĩa tư bản đẻ lại thành cơ sở vật ch ất kinh t ế cho
chủ nghĩa xã hội ở trình độ cao hơn.
Những nước quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ
nghĩa tư bản như nước ta, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội được thực hiện bằng con đường công nghiệp hóa - hiện
đại hóa. Có thể hiểu một cách ngắn gọn công nghiệp hóa là một nước công
nghiệp hiện đại. Như vậy giữa công nghiệp hóa và việc xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho CNXH có quan hệ mất thiết với nhau nh ưng l ại
không phải là một CNH con đường để xây dựng cơ sở vật ch ất cho CNXH
đối với những nước kém phát triển như nước ta. Nhưng CNH chỉ mang tính
giai đoạn, khi mà nền công nghiệp hiện đại chưa được xác lập, còn việc
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CHXH vẫn được tiếp tục mãi.
b. Tác dụng của công nghiệp hóa.
- Một là, phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa hơn về kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới,
góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
Hai là, củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước; nâng cao
năng lực tích lũy, tạo công ăn việc làm, khuyến khích s ự phát tri ển t ự do và
toàn diện của mỗi cá nhân.
Ba là, tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố an ninh - quốc phòng.
Bốn là, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào s ự phân công và h ợp
tác quốc tế.
Chính vì do vị trí, tầm quan trọng và các tác dụng nói trên của công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, nên qua tất cả các kỳ đ ại
hội Đảng ta luôn xác định: Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
c. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta
* Quan niệm về công nghiệp hóa
Trước đây chúng ta cho rằng, công nghiệp hóa là quá trình trang bị
kỹ thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thay th ế lao đ ộng th ủ
công bằng lao động cơ khí hóa, biến một nước kém phát triển thành m ột
nước có cơ cấu công nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Theo quan niệm của liên hiệp quốc, công nghiệp là một quá trình
phát triển kinh tế trong đó có một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng
lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công
nghiệp hiện đại về chế tạo ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, có kh ả
năng bảo đảm một nhịp độ tưang trưởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và
đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội.
Kết hợp quan niệm truyền thống và quan niệm hiện đại, và vận
dụng vào điều kiện cụ thể hóa Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban ch ấp
- hành Trung ương Đảng khóa VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghi ệp
hóa - hiện đại hóa: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuy ển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang s ử d ụng m ột
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và ph ương
pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
* Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta
Trước đây một thời gian dài với quan niệm truyền thống về công
nghiệp hóa, chúng ta thường xác định nội quy của công nghi ệp hóa theo
trình tự:
1. Tiến hành cách mạng khoa học - kỹ thuật để xây dựng cơ sở vật
chất -kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công l ại lao đ ộng xã h ội.
Trong điều kiện giao lưu kinh tế giữa các nước chưa được mở rộng quá
trình chuyển giao công nghệ giữa các nước chưa phát triển mạnh mẽ, thì
phải "tự lực, cánh sinh là chính" đó chính là một trình t ự h ợp lý đ ể ti ến
hành công nghiệp hóa.
Sự phát triển của một quốc gia không thể tách rời sự phát triển của
cộng đồng thế giới nói chung và khu vực nói riêng. Điều này cho phép m ột
nước đi sau không nhất thiết phải làm tất cả những công việc mà các n ước
đi trước đã trải qua thực tế cho thấy những thành tựu về khoa học - công
nghệ, về quản lý… của các nước đi trước chỉ có thể chuy ển giao m ột cách
có hiệu quả cho các nước đi sau khi mà các nước đi sau đã có sự chuẩn bị
kỹ càng để đón nhận. Vấn đề đặt ra là các nước đi sau cần phải làm những
gì để tiếp nhận một cách có hiệu quả những thành tựu mà các nước đi
trước đã đạt được. Bài học thành công trong quá trình công nghi ệp hóa các
nước NIC3 đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo hướng
mở cửa với bên ngoài nhằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những thành
- tựu của các nước đi trước kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách m ạng
khoa học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đ ường ng ắn nh ất có hi ệu
quả nhất, có hiệu quả nhất quyết định sự thành công của quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đối với một nước lạc hậu,nội dung c ủa công
nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần được sắp xếp theo một trình tự
mới như sau:
a.Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý
Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền
đề là phân công lại lao động xã hội.
Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ
trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí tu ệ ngày một tăng và
chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
Ba là, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xu ất v ật ch ất
(dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ lao động trong các ngành sản xuất vật
chất.
Song song với phân phối lại thu nhập là vấn đề chuyển dịch cơ cấu
kinh tế bao gồm:
Cơ cấu ngành kinh tế: Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành ở
nước ta sẽ được xác định là cơ cấu công - nông nghiệp -dịch vụ.
Cơ cấu vùng kinh tế: phải tạo điều kiện cho tất cả các vùng đ ều
phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng, liên
kết giữa các vùng, làm cho mỗi vùng đều có cơ cấu kinh tế h ợp lý và đ ều
có chuyển biến tiến bộ góp phần vào sự phát triển kinh t ế - xã h ội đ ất
nước.
Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn, thành ph ố và đô th ị tùy đi ều ki ện
từng nơi, tất cả các thị xã, thị trấn đều được phát tri ển trên c ơ s ở đ ẩy
mạnh công nghiệp, dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Hình thành các th ị tứ
làm trung tâm kinh tế, văn hóa cho mỗi xã hoặc cụm xã.
- Cơ cấu thành phần kinh tế lấy việc giải phóng s ức s ản xu ất, đ ộng
viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
b. Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công ngh ệ hi ện đ ại đi
đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài. Đó là:
Cách mạng về phương pháp sản xuất đó là tự động hóa.
Cách mạng về năng lượng
Cách mạng về vật liệu mới.
Cách mạng về công nghệ sinh học
Cách mạng về điện tử và tin học
2. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực con người trong sự nghi ệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
a. Vai trò thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta
Thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một quy luật khách
hang, một đòi hỏi tất yếu của nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay,
chúng ta đang thực cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có
sự điều tiết quản lý của Nhà nước thì công nghiệp hóa - hiện đại hóa là
nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong những chính sách, đường lối về công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước, Đảng ta luôn chủ trương lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền v ững c ủa n ền
kinh tế đất nước. Để đẩy mạnh, nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, chúng ta phải có một nguồn lực có đầy đủ sức mạnh cả về th ể
lực lẫn trí lực. Nguồn nhân lực là yếu tố, điều kiện đầu vào quy ết đ ịnh
nhất vì nguồn nhân lực quyết định phương hướng, đầu tư, nội dung, b ước
đi và biện pháp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa - hi ện đ ại hóa. Do đó
cần phải chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực - con người cả về số
lượng và chất lượng, năng lực và trình độ. Đây chính là vấn đề cấp bách,
lâu đài và cơ bản trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
- Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ:
Cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là qu ốc sách hàng đ ầu,
là động lực thúc đẩy. Như vậy, giáo dục là một dạng đầu tư cho s ự phát
triển vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát tri ển. Sự nghi ệp giáo d ục đao
tạo có tính xã hội hóa cao. Nền giáo dục và đào t ạo tốt sẽ cho chúng ta
nguồn nhân lực với đủ sức mạnh, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài.
Do vậy sự nghiệp giáo dục phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,
đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước trên th ế gi ới
thông qua việc hợp tác giáo dục.
Mặc dù nền giáo dục của nước ta được sự quan tâm sâu s ắc c ủa
Đảng và Nhà nước, nhưng nó vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm
năng và vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.
* Số lượng
Theo điều tra lao động và việc làm tháng 7 năm 2000, dân số trong độ
tuổi lao động (nam từ 15 - 60, nữ 15 - 55 tuổi) ở Việt Nam là 46,2 tri ệu
người, chiếm 59% tổng số dân (1989 chỉ là 55%). Trong thập k ỷ qua, Vi ệt
Nam đang chuyển dần từ giai đoạn cấu trúc dân số trẻ sang "cơ cấu dân số
vàng" - dư lợi dân số", đó là thời kỳ tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở
mức cao trong khi tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm (số trẻ em gi ảm dần và t ỷ
lệ người già chưa tăng cao). Dự báo dân số Việt Nam hai th ập kỷ đ ầu th ế
kỷ 21 sẽ duy trì "cơ cấu dân số vàng" với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao
động tiếp tục tăng cao và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 (56
triệu người). Trong 10 năm (1999 - 2009), mỗi năm có thêm 1,8 tri ệu người
bước vào độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên), trong khi đó s ố ng ười ra
khỏi độ tuổi lao động (60 tuổi trở lên), chỉ có 0,35 triệu người. D ự tính
trong 10 năm tới, mức tăng dân số trong độ tuổi lao động bình quân là 2,5%
gấp hơn hai lần tăng nguồn nhân lực cao nhất từ trước đến nay trong lịch
sử dân số Việt Nam. Đó vừa là tiềm năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và
là thách thức rất lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm.
- Với số lượng người bước vào độ tuổi lao động đạt mức kỷ lục nh ư
hiện nay, cùng với hàng chục vạn lao động dôi dư từ các cơ quan, doanh
nghiệp Nhà nước, 2 thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 sẽ tạo ra áp lực rất lớn
về việc làm và nguồn vốn đang căng thẳng với tỷ lệ thất nghiệp ở mức
cao (một số lao động thất nghiệp rơi vào nhóm lao đ ộng trẻ đ ược đào t ạo,
gây ra nhiều hậu quả cả về kinh tế xã hội. Bên cạnh đó còn có hàng triệu
người già tuy tuổi cao nhưng vẫn còn khả năng và mong muốn được làm
việc.
Trên phạm vi cả nước, cấu trúc dân số biến đổi tạo cơ h ội thu ận l ợi
cho sự phát triển kinh tế, tuy nhiên do hoàn cảnh đ ịa lý và tình hình kinh t ế
- xã hội khác nhau giữa các vùng miền, nên ở các tỉnh đồng bằng do mức
sinh sống thấp trong nhiều năm qua và "cơ cấu dân số vàng" đã b ắt đ ầu
phát huy tác dụng, tạo ra nhiều thách thức lớn về vi ệc làm cho đ ịa ph ương
vốn đất chật người đông. Tại các tỉnh vùng Tây Nguyên, miền núi Tây
Bắc, do mức sinh ở những vùng này vẫn còn cao nên cấu trúc dân số còn
trẻ. Luồng di cư tự phát rất lớn đổ từ các vùng nông thôn, miền núi đến các
thành phố, Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ. Trong một s ố doanh nghi ệp
ở các vùng này, số lao động ngoại tỉnh chiếm đến 80%.
* Chất lượng
Mặc dù là quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, trên
90% dân số biết chữ, song hiện tại ở nước ta, cứ 3 trẻ em (dưới 5 tuổi) thì
có một cháu bị suy dinh dưỡng, cứ 3 bà mẹ mang thai thì 1 người bị thiếu
máu, thậm chí ở những vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, cứ 2 trẻ em thì
có 1 chú bị suy dinh dưỡng. Tuy chưa có số liệu chung về cả nước song các
nghiên cứu cho thấy thể lực của thanh niên Việt Nam ti ến b ộ rất ch ậm
trong nhiều năm qua. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam cuối
thập kỷ 80 chỉ là 161 - 162 cm (so với 160 cm và 1930. Nh ư v ậy sau 50
năm, chiều cao của thanh niên Việt Nam hầu như không thay đổi). Trong
khi đó xu hướng chung ở các nước phát triển là chiều cao trung bình của
- nam thanh niên cứ sau 10 năm sẽ tăng 1 cm và nặng thêm 1 kg.T ại khu v ực
thành thị như Hà Nội, dù tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã h ạ thấp, song l ại
xuất hiện hiện tượng thừa dinh dưỡng (béo phì) đang có xu hướng tăng.
Nghiên cứu chọn mẫu ở một số trường Đại học ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy tỷ lệ học sinh béo phì 2-4%.
Tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục có xu h ướng gia tăng và lây
lan trong cộng đồng. Trong số hơn 26.000 người bị nhiễm HIV/AIDS có
khoảng 50% ở độ tuổi thanh niên (dưới 30 tuổi), đặc biệt 1,2/1000 ph ụ n ữ
mang thai bị nhiễm HIV. Đối với tệ nạn ma túy, gần 70% trong s ố 100.000
người nghiện ma túy ở nhóm tuổi dưới 30.
Số lượng người lao động tuy tăng và dư thừa, nh ưng lại y ếu v ề s ức
khỏe, trình độ tay nghề hạn chế lao động khu vực thành thị ở Hà N ội th ừa
khoảng 7,5% và ở thành phố Hồ Chí Minh là 6,5% (đó là ch ưa k ể hàng
chục van lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà n ước). Tại khu
vực nông thôn còn dư thừa 26% quỹ thời gian lao động, tương đương
khoảng 9 triệu người, nhưng 95,5% lao động không có tay nghề. Theo t ổng
điều tra dân số (4/1999) trong số những người từ 13 tuổi trở lên 92,4% là
không có trình độ chuyên môn. Mặc dù thời điểm hiện tại, mỗi năm có
thêm khoảng 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động, nhưng theo dự báo
trong 10 năm tới, số lượng này sẽ tăng lên mức cao nh ất là 1,8 tri ệu ng ười,
do đó việc đào tạo, nâng cao tay nghề và tạo việc làm cho số lao động hiện
tại cũng như cho số thanh niên mới bước vào độ tuổi lao động sẽ thách
thức vô cùng lớn.
Cơ cấu nguồn lao động được đào tạo trong những năm qua còn rất
bất hợp lý. Nếu năm 1979 cứ 1 cán bộ Đại học , cao đẳng có 2,2 cán b ộ
trung học chuyên nghiệp và 7,1 công nhân kỹ thuật thì đến năm 1997, c ơ
cấu này là 1-1,5-1,7 và 1999 là hợp lý, cứ 4 cán b ộ đại h ọc m ới có 1 công
nhân kỹ thuật cao. Đây chính là tình trạng "thầy nhiều h ơn th ợ". T ại các
nước phát triển thì cứ 1 thầy có 10 thợ, nhưng ở nước ta, bình quân một
- thầy chỉ có 0,95 thợ. Trong khi số sinh viên đại h ọc tăng nhanh thì s ố công
nhân kỹ thuật giảm dần (1979 chiếm 70% , đến năm 1999 gi ảm xu ống còn
30,3% trong tổng số lực lượng lao động kỹ thuật). Trong các năm 1996 -
1998, bình quân công nhân kỹ thuật tăng 6,3%/năm nhưng số sinh viên đại
học, cao đẳng tăng 27,5%. Một thực tế đáng lo ngại như tại các khu công
nghiệp ở Đồng Nai, từ nay đến 2010, mỗi năm cần khoảng 20 ngàn lao
động kỹ thuật, nhưng khả năng đào tạo nghề cũng cung ứng 12.000
người/năm. Năm 1997 khu chế xuất Tân Thuận cần tuyển 15.000 lao đ ộng
kỹ thuật nhưng chỉ tuyển được 3000 người đủ tiêu chuẩn.
Hiện nay nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật hầu nh ư không được đáp
ứng đầy đủ, trong khi lao động phổ thông lại dư thừa quá nhiều.
Tỷ lệ lao động kỹ thuật đã thấp lại phân bổ không đồng đều giữa
các ngành và các thành phần kinh tế. Rất nhiều lao động kỹ thu ật tập trung
ở các cơ quan trung ương. Các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, các thành
phần kinh tế tập thể , tư nhân, cá thể còn thiếu nhiều lao động kỹ thuật. Ở
khu vực nông thôn, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ càng th ấp (ch ỉ
khoảng 4%). Đặc biệt vùng miền núi, hải đảo, đang thiếu lao động kỹ
thuật và trí thức trầm trọng, trong khi số tri thức dư thừa giả tạo ở thành
phố ngày càng nhiều. Không những vậy, có những lao động sau khi được
đào tạo đã không làm đúng ngành nghề, thậm chí còn làm công việc của lao
động giản đơn.
b. Những nguyên nhân dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực Vi ệt
Nam còn yếu kèm.
Một là lực lượng và cơ sở trang thiết bị quá thiếu thốn, y tế cơ sở
không đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc bi ệt là mi ền núi,
vùng sâu, vùng xa. Tình trạng bệnh tật vẫn c òn nặng nền. Hơn nữa những
kiến thức cơ bản về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn thấp, vệ sinh môi
trường còn rất kém, ô nhiễm, môi trường ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt
- là cung cấp nước sạch và xử lý chất thải các loại có tác đ ộng b ất lực đ ến
sức khỏe nhân dân.
Hai là, cơ cấu giáo dục đào tạo giữa các bậc h ọc, các ngành h ọc,
khối ngành học trong cả nước nói chung và ở từng khu vực nói riêng còn
bất hợp lý. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do s ự đi ều ti ết c ủa
Nhà nước về giáo dục đào tạo chưa hiệu quả thể hiện:
Việc điều tiết, quản lý, giám sát thực hiện các chỉ tiêu tuyển sinh ở
các bậc học, ngành học, khối học còn nhiều bất hợp lý. Các trường, các
ngành học,… mở rộng hoặc thu hút chỉ tiêu tuyển sinh tùy ý, dẫn tới tình
trạng có những ngành đã thừa lại càng thừa trong khi các chuyên ngành đã
thiếu lại càng thiếu.
Các chính sách, biện pháp khuyến khích theo học những ngành học,
khối ngành học mà xã hội cần nhưng bản thân đối tượng không mu ốn h ọc
là chưa hiệu quả.
Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo là một nguyên nhân gây
ra tình trạng này.
Một số chế độ, chính sách đã ban hành đến nay có nh ững điểm
không còn phù hợp hoặc thiếu những văn bản cụ thể nên chưa khuyến
khích cán bộ, công nhân viên trong các cơ sở sản xuất cũng nh ư các c ơ
quan Nhà nước, trong các tầng lớp xã hội… bồi dưỡng nâng cao trình độ
văn hóa.
Ba là, kinh phí giáo dục đào tạo. Do khu vực tư nhân ở Vi ệt Nam
chưa phát triển và Nhà nước cũng chưa có chính sách chia sẻ gánh nặng này
cho khu vực tư nhân nên phần chủ yếu là từ ngân sách Nhà n ước nh ư v ậy
mức chi ngân sách Nhà nước như vậy mức chi ngân sách cho giáo d ục đào
tạo đã có sự gia tăng chút ít nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu cũng như
chưa phản ánh sự ưu tiên và chưa tương xứng với khả năng, còn vào loại
rất thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
- Bốn là, mục tiêu, nội dung, chương trình hình thức, phương thức và
phương pháp đào tạo chậm đổi mới. Trong những năm gần đây, ngành giáo
dục và đào tạo đã có những nỗ lực lớn nh ằm đổi m ới các n ội dung đó.
Bước đầu đã thu được những kết quả nhất định song còn chưa tương xứng
với tiềm năng và yêu cầu đặt ra.
Năm là, đội ngũ giáo viên ở các trường còn yếu, thiếu về số lượng
năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Ngoài ra chính sách đãi ngộ ch ưa
thỏa đáng nên không phát huy được tiềm năng và nhiệt huyết của họ.
Sáu là, mạng lưới trường và trung tâm đào tạo bố trí còn phân tán,
hiệu quả đầu tư sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật kém, lãng phí, ch ồng
chéo.
Bảy là, một bộ phận nhỏ công nhân chưa nhận thức đầy đủ về sự
cần thiết phải nâng cao trình độ văn hóa, tay nghề nên còn thờ ơ, chưa thực
sự cố gắng hoặc tận dụng những điều kiện đã có để tự học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ của bản thân.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT HỢP LÝ VẤN ĐỀ VỀ NGU ỒN
NHÂN LỰC
Nhìn rõ được thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta đ ể chúng ta
phát huy những điểm mạnh, khắc phục và hạn chế những điểm y ếu đồng
thời đưa ra những yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
Để đảm bảo chất lượng về mặt thể lực cho nguồn nhân lực trong
tương lai, các chương trình bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đ ặc bi ệt
chương trình bảo vệ sức khỏe phụ nữ, phòng chống suy dinh dưỡng theo
hướng ngăn ngừa cần được tiếp tục đầu tư từ quan tâm và sẽ ph ải đ ặc
biệt chú ý đến các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa để giảm dần s ự cách
biệt giữa các vùng.
Các chương trình tuyên truyền giáo dục càn được tăng cường để
ngăn ngừa từ xa các tệ nạn lạm dụng ma túy, đặc biệt trong thanh thi ếu
niên.
- Trong trình tự giải quyết phải đi tuần tự từ tiếp tục xóa mù chữ, ph ổ
cập tiểu học, đang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ c ấp đ ến
các bậc cao hơn những phải tạo ra một bộ phận người lao động có chất
lượng cao, đặc biệt phải chú trọng đào tạo lao động kỹ thuật, nh ằm đáp
ứng nhu cầu của những ngành công nghệ mới, các khu công nghiệp và các
khu kinh tế mở.
Việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Nh ưng cố
gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không theo kịp tốc
độ gia tăng dân số. Quy mô mọi ngành, bậc học hiện nay đều chưa đáp ứng
được yêu cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung s ố h ọc sinh và s ố
trường lớp ở mọi ngành học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, đều tăng các hệ thống trung tâm xúc
tiến việc làm, các trung tâm kỹ thuật tổng h ợp, hướng nghi ệp và nhi ều c ơ
sở dạy nghề bán công, dân lập, tư thục được thành lập. Quy mô đào tạo có
chuyển biến là nhờ tăng cường hình thức đào tạo ngắn h ạn. Riêng đ ối v ới
quy mô của hệ thống đào tạo nghề ngày càng bị thu h ẹp. Đảng và Nhà
nước cần có chính sách khuyến khích mở rộng và hỗ trợ cho các trường
dạy nghề nhằm thu hút học sinh, sinh viên, khắc phục sự mất cân đối trong
cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục và đào tạo. Giáo d ục m ầm non có
tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị nền tảng về th ể th ực và
trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục đào tạo chuyên môn nghi ệp v ụ k ỹ
thuật, ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong
việc phát triển giảm nguy cơ tụt hậu. Tuy nhiên, những bất hợp cập giữa
các ngành đào tạo, giữa các bậc học đã gây khó khăn không ít cho sự phát
triển của nền kinh tế. Một số ngành được học sinh, sinh viên theo học như
một phong trào, một số ngành thì rất ít người theo h ọc. Nếu không có s ự
điều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng gặp khó khăn v ề đội ngũ k ỹ
sư, công nhân kỹ thuật như ở nhiều nước Asea, nhất là Thái Lan.
- Giáo dục đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều ki ện phát tri ển
hơn ở nông thôn,vùng núi, vùng sâu, vùng xa rất khó khăn. Đ ể nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa miền núi,
Nhà nước đã chó chính sách cấp học bổng, giảm học phí, ưu tiên các h ọc
sinh nghèo vượt khó.Từ đó giúp họ có điều kiện học tập tìm ki ếm vi ệc
làm, nâng cao mức sống. Chính nhờ những chủ trương đúng đắn này mà
những bất hợp lý trong cơ cấu vùng, miền của giáo dục đào t ạo ngu ồn
nhân lực được điều chỉnh phần nào.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực là
việc đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục
đào tạo. Việc hội nhập và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng hóa ph ải đạt tiêu
chuẩn quốc tế để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó
phải đòi hỏi có trình độ công nghệ cao và khả năng sử dụng tương ứng các
công nghệ đó. Ngoài giáo dục đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý
thuyết cần chú ý điều kiện thực hành, ứng dụng, giáo dục k ỹ thu ật, tác
phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng và những khả năng thích
ứng của người lao động với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường.
Song song với vấn đề giáo dục đào tạo con người, chúng ta ph ải quan tâm
đến vấn đề dân số, sức khỏe, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
giảm sức ép đối với quy mô và chất lượng giáo dục.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, yêu cầu đa dạng hóa các
loại hình giáo dục đào tạo rất cần thiết để bổ sung cải thiện hiện trạng
nguồn nhân lực nhằm khắc phục những bất hợp lý về việc phân bổ ngu ồn
nhân lực, đồng thời nâng cao hiệu quả của đầu tư cho giáo d ục và đào t ạo
để phục vụ cho nhu cầu phát triển. Trong lĩnh vực giáo dục h ướng nghi ệp
chúng ta cần phải kết hợp một cách khoa h ọc với kế hoạch phát tri ển toàn
diện với chính sách sử dụng sau đào tạo hợp lý để giảm lãng phí về chi phí
về giáo dục đào tạo của xã hội và của gia đình. Ng ười lao đ ộng đào t ạo ra
được làm việc đúng ngành, đúng nghề, đúng khả năng và sở trường của
- mình. Ngoài ra, giáo dục hướng nghiệp cũng đòi hỏi phải công tác dự báo
nghề để xác định được xu hướng phát triển và nhu cầu về lao động trong
từng giai đoạn. Giáo dục đào tạo chính quy, dài h ạn là c ơ s ở đ ể hình thành
nên bộ phận người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có kỹ
năng tiếp cận với khoa học, công nghệ mới hiện đại. Ngoài ra, c ần mở
rộng các loại hình đào tạo ngắn hạn để cải thiện hiện trạng nguồn nhân
lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao số lao động đã qua đào tạo của ta
lên. Hình thức giáo dục tại chức và từ xa cần chú ý h ơn đ ến ch ất l ượng và
hiệu quả giáo dục.
Chính sách xã hội hóa giải quyết việc làm cần được ti ếp t ục phát
huy, khôi phục các làng nghề, phố nghề để huy động tổng hợp các nguồn
lực và sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế, các tổ ch ức xã h ội
mọi người dân. Kinh tế hộ gia đình, cơ sở doanh nghiệp ngành nghề ở
nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố là nh ững cơ s ở có th ể thu
hút nhiều lao động, cần được tạo điều kiện phát triển chất lượng.
Các chính sách phụ cấp, tiền lương cũng nên được điều chỉnh l ại đ ể
thu hút người lao động về công tác tại cơ sở, các vùng khó khăn, tham gia
xây dựng các công trình trọng điểm nhằm động viên thanh niên vào h ọc các
trường dạy nghề và làm đúng nghề đã đào tạo, đóng góp sức mình vào sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là một tất yếu khách quan, m ột nhi ệm
vụ trọng tâm trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước. Mặc dù n ền giáo
dục đào tạo đã đạt được nhiều hành tựu to lớn (Việt Nam có ch ỉ số HDI
tương đối cao, được xếp vào các nước có trình độ phát triển trung bình)
nhưng so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, nền giáo dục đào tạo c ủa ta
vẫn chưa đáp ứng được. Do đó càn có những chính sách hỗ trợ, khuy ến
khích và những đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối v ới s ự
nghiệp giáo dục
- C. Ý KIẾN CÁ NHÂN
I.VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH
TIỀN LƯƠNG
1. Việc làm của người lao động
Nói đến việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao
động lao động nói đến vấn đề bức thiết và mục đích của sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội. Việc giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực phải đi đôi
với việc giải quyết việc làm cho người lao động có tạo cho người lao động
việc làm ổn định và mức thu nhập tương xứng thì mới tạo được động l ực
phát triển kinh tế.
Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất. Mác Anghen đã
khẳng định: "Lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật ch ất, là đi ều
kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người". Lao đ ộng là ngu ồn
lực quan trọng để phát triển đất nước. Giải quyết việc làm cho người lao
động xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Bên cạnh
việc kết hợp các giải pháp khuyến khích phát triển sản xuất, th ực hi ện các
chương trình các kinh tế xã hội lớn, tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động. Nhà nước đã thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tác động vào nh ững
người chưa có việc làm hoặc thất nghiệp, thiếu việc làm để h ọ có thêm cơ
hội việc làm. Các mô hình kinh tế hợp lý, như mô hình V-A-C, hình th ức
giao đất giao rừng, được nhân rộng ở nhiều nơi. Bên cạnh đó Nhà n ước
còn có chính sách khuyến khích người dân tự làm giàu cho chính mình, cho
gia đình và cho xã hội. Luật doanh nghiệp ra đời năm 1999 đánh dấu một
bước phát triển mới, một bước ngoặt thuận lợi cho các doanh nhân Việt
Nam; làm giàu chính đáng là tiêu chí của nhiều cuộc hội th ảo, là mục đích
của nhiều chủ trương, chính sách, là động lực của nhiều người dân Việt
Nam cần cù, thông minh.
- Với nền kinh tế vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng
và Nhà nước luôn đặt hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế lên hàng đầu.
Hiệu quả kinh tế phải đi đôi với hiệu quả xã hội, trong đó việc tạo công ăn
việc làm, nâng cao mức sống người dân được chú trọng nhất; Dự án xây
dựng khu công nghiệp Dung Quất ở miền Trung khắc nghiệt, dự án m ở
đường mòn Hồ Chí Minh là những chính sách, biện pháp hợp lý đã lấy hiệu
quả xã hội đặt lên hàng đầu.
Giải quyết việc làm là kết quả tổng hợp của sự phát tri ển s ản xu ất,
của việc thực hiện các chương trình kinh tế, xã hội và các giải pháp h ỗ tr ợ
trong đó việc phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh t ế là ti ền đ ề, đi ều ki ện
cơ bản nhất là từ những kết quả bước đầu về giải quy ết việc làm cho
người lao động xã hội trong thời gian quả là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên,
thực tiễn khách quan cũng cho thấy điều kiện tạo ra việc làm chưa vững
chắc, nhiều yếu tố khác nảy sinh làm cho thực trạng lao động vi ệc làm
thêm khó khăn phức tạp. Tỷ lệ thất nghiệp ở các đô th ị nước ta vào loại
cao so với các nước trong khu vực và có xu h ướng tăng. Ch ất l ượng lao
động thấp, chỉ có 19% lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. C ơ c ấu
lao động kỹ thuật bất hợp lý, chưa đáp ứng được yêu c ầu c ủa n ền kinh t ế
và càng bất cập trước yêu cầu lao động kỹ thuật cao cho sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Việc phân bố lao đ ộng theo ngành còn
nhiều bất hợp lý. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra thấp. L ực
lượng lao động phân bố không đồng đều chưa tương xứng với tiềm năng
và yêu cầu phát triển của các vùng. Và một điều quan trọng h ơn nữa đó là
công tác quản lý lao động theo ngành và theo lãnh th ổ bất cập so với yêu
cầu, chưa giám sát được sự vận động của thị trường lao động. Hi ện nay ở
thủ đô Hà Nội cũng như nhiều thành phố khác, các chợ lao động với nguồn
nhân lực chủ yếu là những nông dân ở những vùng nông thôn, đang là vấn
đề nan giải. Chúng ta cần phải sáng tạo ra nhiều hình thức kinh tế làm ăn
- có hiệu quả nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động tận dụng được
quỹ thời gian những ngày nông nhàn.
2. Vấn đề đổi mới chính sách tiền lương
Tiền lương về thực chất là khoản thù lao Nhà nước trả cho cán bộ,
công chức tương xứng với lao động và trình độ nghiệp vụ, chức trách để
thực hiện những công việc mà Nhà nước ủy quyền cho họ.
Để xác định đúng tiền lương tối thiểu chung cho cán bộ, công ch ức,
trước hết quan niệm đúng đắn về giá trị sức lao động. Đó là toàn b ộ nh ững
chi phí cần thiết về ăn mặc, ở đi lại… bù đắp cho một l ượng nh ất đ ịnh v ề
cơ bắp, trí tuệ đã hao phí để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động
trong trạng thái bình thường đồng thời tái sản xuất ra sức lao động cả về
số lượng và chất lượng trong những điều kiện kinh tế xã h ội ổn đ ịnh. Do
đó, khi đồng tiền mất giá, chỉ số giá cả sinh hoạt cao thì tiền lương danh
nghĩa phải được điều chỉnh thích ứng và kịp thời để đảm bảo tiền lương
thực tế cho người lao động.
Chúng ta cần sửa đổi, hoàn thiện thang, bảng lương cho cán b ộ công
chức Nhà nước và chế độ phụ cấp đồng thời sắp xếp, hoàn thiện tổ chức
bộ máy và biên chế cán bộ công chức đảm bảo các yêu c ầu tinh g ọn, hi ệu
lực, hiệu quả giảm bớt tổng số cán bộ, công chức hưởng lương Nhà
nước. Trên cơ sở đó cần từng bước nâng cao dân lương tối thiểu cho cán
bộ, công chức Nhà nước. Trước mắt cần có sự đột phá, khắc phục s ự l ạc
hậu và bất hợp lý của chính sách tiền lương tối thiểu hiện hành.
Hiện nay trong giới sinh viên đang có tình trạng đổ xô đi làm cho các
công ty nước ngoài, lý do chủ yếu là vì mức lương ở các công ty này rất
cao, nhưng một lý do nữa cũng không kém phần quan trọng đó là do nh ững
sinh viên giỏi không có khả năng kinh tế để xin vào các công ty Nhà n ước.
Có nhiều nguyên nhân giải quyết cho vấn đề này. Th ứ nhất là vì hi ện nay
đang có chính sách giảm biên chế, xây dựng bộ máy Nhà n ước gọn nh ẹ
nhưng hiệu quả và năng động thứ hai là do hiện nay tình trạng tham nhũng,
- ăn hối lộ khiến cho việc thi tuyển công chức rất không công bằng. Họ
không chọn năng lực thật sự mà chỉ chọn những gia đình thanh thế và
nhiều tiền hoặc có quyền cao chức trọng, có tiếng nói quan tr ọng trong
một công ty, một số, một bộ phận nào đó. Vì vậy đã từ lâu hình thành trong
nếp nghĩ của người Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng m ột quan
niệm: Vào được những công ty Nhà nước "danh giá" là một giấc mơ xa x ỉ
đối với những sinh viên nghèo không có điều kiện "chạy chọt". Đó là th ực
trạng đáng buồn.Vì vậy, bên cạnh đổi mới chính sách tiền l ương c ần có
những biện pháp thật rắn để làm trong sạch đội ngũ cán b ộ và làm cho
đồng tiền họ làm ra xứng đáng với năng lực, trí tuệ, nhiệt huyết của họ.
Đồng thời phải có chính sách phân phối thật công bằng "làm theo
năng lực hưởng theo lao động", tránh tình trạng khác lương l ại th ấp cho dù
hao phí lao động bỏ ra như nhu. Ví dụ như ngành bưu điện, điện lực,
lương nói chung (gồm cả lương cơ bản + thưởng + các khoản thu khác) rất
cao, chênh lệch nhiều so với thu nhập của cán bộ công nhân viên chức ở
các ngành khác, như ngành ngân hàng. Ngay trong ngành ngân hàng chính
sách tiền lương cũng có những bất cập, lương ở ngân hàng Nhà nước th ấp
hơn nhiều so với ở các ngân hàng khác như ngân hàng ngoại thương. Đi ều
này lý giải được nguyên nhân vì sao ở những ngành độc quy ền người ta đ ổ
xô tranh nhau vào, gây tình trạng dư thừa lao động còn những ngành khác
đầu vào lao động lại thiếu trầm trọng. Chính phủ cần có nh ững đi ều ch ỉnh
bất hợp lý về đầu vào ở các trường Đại học và phải tạo được động l ực
phát triển .
II. SINH VIÊN VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC MỚI.
Việt Nam đan từng bước đứng trước những thách thức lớn, văn minh
trí tuệ phát triển từng giây, từng phút, nếu không nhanh chóng đi tới s ẽ kéo
nhau cùng tụt hậu.
- Vận mệnh, tiền đồ của đất nước phụ thuộc một phần quan trọng
vào thế hệ trẻ,thanh niên và sinh viên phải vươn lên cùng với cha anh làm
chủ đất nước ngay từ bây giờ.
Để đóng góp cho sự phát triển của đất nước và tương lai của dân
tộc, thanh niên và sinh viên phải có hoài bão và lý tưởng, có tri th ức và kỹ
năng, phải "học, học nữa, học mãi". Sinh viên Việt Nam cần phát huy
truyền thống văn hiến của dân tộc xây dựng xã hội Việt Nam thành một
"xã hội học tập",thành một "xã hội sáng tạo" đưa dân tộc ta trở thành một
'dân tộc thông thái", chiếm lĩnh những đỉnh cao trí tuệ của nhân loại trong
thế kỷ 21. Nước ta bước vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa với điểm xuất
phát thấp trong khi các nước tiên tiến đã bước vào nền kinh t ế tri th ức, n ền
văn minh trí tuệ. Trong kỷ nguyên của nền văn minh trí tuệ, sự phát triển tri
thức của nhân loại sẽ tăng lên theo hàm mũ. Bởi vậy, th ế h ệ trẻ, đ ặc bi ệt
là sinh viên phải xây dựng cho mình bản lĩnh độc l ập t ự ch ủ, ngh ị l ực sáng
tạo và tinh thần đổi mới, tiếp thu và làm chủ nh ững thành t ựu khoa h ọc và
công nghệ tiên tiến, những tri thức quản lý và kinh doanh hiện đại của
nhân loại, trong khi đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa - hiện đ ại hóa
sớm đưa nước ta tiếp cận với nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Trước dòng thác lũ ào ạt của thời đại thông tin, vẫn còn tình trạng
chìm trong thông tin nhưng có đối về kiến thức, nhiều sinh viên, học sinh
vẫn chưa nhận thấy tầm quan trọng của việc học, họ xem việc học là
nghĩa vụ chứ không thấy đó là quyền lực của mỗi người. Vì vậy, phải giáo
dục cho sinh viên, học sinh nhận thức đúng đắn bản ch ất v ấn đ ề, đ ặc bi ệt
phải nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng nhiều hình thức giáo dục.
Hiện nay, chúng ta đã có nhiều hình thức giáo dục đáng khích lệ và
thu nhiều kết quả tốt. Ví dụ hình thức đào tạo từ xa có th ể cung c ấp ki ến
thức cho những người không có điều kiện học tập trung hoặc những người
vừa học vừa làm. Hình thức giáo dục này không chỉ góp phần nâng cao trình
nguon tai.lieu . vn