Xem mẫu

  1. Đề tài 5: Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở Việt Nam, vai trò cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế? A, Mở đầu: Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa đề phòng nhưng con người vẫn luôn luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro trong mọi lĩnh vực. Các rủi ro xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân như môi trường, thiên nhiên, xã hội như: bão lụt, hạn hán, bệnh dịch, tai nạn … Tất cả mọi rủi ro đó đều đe dọa đến khả năng tài chính của mỗi cá nhân, những con người không may gặp tai nạn. Để ngăn ngừa, khắc phục những rủi ro đó người ta nghĩ đến việc đoàn kết cộng đồng, liên hợp nhiều người lại để chia sẻ mất mát với những con người kém may mắn đó. Như vậy, xét trên diện rộng là cả cộng đồng thì hoạt động này tận dụng được tối đa mọi nguồn lực xã hội và lợi ích xã hội thu được là rất lớn. Do vậy, các công ty bảo hiểm xuất hiện. Ngày nay khi nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ ngày càng phát triển thi người ta còn biết đến bảo hiểm như các tổ chức phi ngân hàng mà trong đó nó thực hiện chức năng như một trung gian tài chính, tức là góp phần giải quyết hiện tượng thiếu thừa vốn diễn ra thường xuyên trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình tuần hoàn vốn được diễn ra trôi chảy và nhanh chóng Qua vài điều sơ lược trên ta nhận thấy bảo hiểm có vai trò quan trọng đối với con người, xã hội, nền kinh tế. Để biết cụ thể hơn về bảo hiểm cũng như vai trò và sự phát triển của bảo hiểm ở nước ta, các bạn hãy cùng với chúng tôi tìm hiểu về đề tài: “Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở nước ta. Vai trò của các loại hình bảo hiểm cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế” B, Nội dung: I, Giới thiệu chung về bảo hiểm: 1,Sự cần thiết của các dịch vụ bảo hiểm: Thực tiễn cho thấy, tai nạn gây ra nhiều tổn thất về tài chính, tinh thần thậm chí là cả tính mạng cho chính bản thân và gia đình của những người không may gặp. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Ngân hàng thế giới (WB) thì mỗi năm, thế giới có hơn 1,2 triệu người chết vì tai nạn giao thông đường bộ, khoảng 50 triệu người khác bị thương trong các tai nạn đó. Hiện nay nguy cơ chiến tranh và nguy cơ khủng bố, nội chiến sắc tộc ở các nước châu Phi, tranh chấp lãnh thổ giữa một số quốc gia vùng trung và nam châu Á,...vẫn luôn thường trực xảy ra, đe doạ sự an toàn của tất cả mọi người. Vẫn đang từng ngày cướp đi sinh mạng, tiền của của rất nhiều người. Đặc biệt trận động đất và sóng thần kinh hoàng xảy ra ở Nhật Bản vừa qua đã cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người,nhiều thành phố bị xoá sổ,gây thiệt hại ước tính khoảng 180 tỷ đô la. Ở Việt Nam cũng có rất nhiều nguy cơ có thể ảnh hưởng tới cuộc sống ổn định của con người. Theo báo cáo sơ bộ, trong mười một tháng năm 2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 12,6 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 10,4 nghìn người và làm bị thương 9,2 nghìn người. Thiên tai xảy ra trong năm 2010 đã làm 355 người
  2. chết và mất tích; gần 600 người bị thương; hơn 2,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hơn 579 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, ngập nước; 30 nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng; trên 100 km đê, kè và gần 1,9 nghìn km đường giao thông cơ giới bị vỡ, sạt lở và cuốn trôi; hơn 11 nghìn cột điện bị gãy, đổ. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2010 ước tính 11,7 nghìn tỷ đồng. Sự ổn định cuộc sống của mỗi con người đang bị đe doạ nghiêm trọng. Trong khi đó, thu nhập của họ đang được nâng lên đáng kể, nhu cầu tiết kiệm để đảm bảo cuộc sống trong tương lai rất được chú trọng. Do vậy các hoạt động bảo hiểm lại là sự lựa chọn an toàn của những người tham bảo hiểm. Đó chính là những đòi hỏi khách quan cho sự ra đời,tồn tại và phát triển của các loại hình dịch vụ bảo hiểm 2, Định nghĩa và bản chất của bảo hiểm: a, Định nghĩa: Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế…. - Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít. - Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. - Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm. - Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. b, Bản chất: Bản chất của bảo hiểm: Là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa trên Quy luật số đông (the law of large numbers). 3, Lịch sử phát triển của bảo hiểm: Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như các mức độ và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn bán, những người vận tải luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình.
  3. Đầu tiên vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, người ta đã tìm cách giảm nhẹ tổn thất toàn bộ lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó là hình thức nguyên khai của bảo hiểm. Vào thế kỷ XIV, ở Floren Genoa nước Ý đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh. Về cơ sở pháp lý có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp luật đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne năm 1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở Amsterdam năm 1558. Ngoài ra còn có sắc lệnh của Phần Lan năm 1563 liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hóa. Đến cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hỏa hoạn, đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn hộ trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được, sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hỏa hoạn bằng cách đứng ra thành lập những công ty hỏa hoạn: Fire Office(1667), Hand and Hand(1696)…Lúc đó công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải mãi đến thế kỷ XX mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm Ở Việt Nam, chưa có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác bảo hiểm xuất hiện ở Việt Nam khi nào mà chỉ phỏng đoán là vào năm 1880 do hội bảo hiểm ngoại quốc như: Anh, Pháp, Thụy Sĩ… đã để ý đến Đông Dương. Vào năm 1926, chi nhánh đầu tiên của công ty Franco-Asietique đã được mở tại Việt Nam. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài. Ở miền Bắc Việt Nam, ngày 15/01/1965 công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương… II, Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm ở Việt Nam: 1, Một số loại hình bảo hiểm ở Việt Nam: 1.1. Bảo hiểm xã hội:
  4. 1.1.1. Khái niệm và bản chất của BHXH: a, Khái niệm : BHXH là việc tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương trong xã hội đó. Trong các cơ chế của các hệ thống an sinh xã hội thì BHXH là trụ cột quan trọng nhất. b Bản chất: Bản chất của BHXH là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện. 1.1.2. Vai trò của BHXH: BHXH được coi là mạng lưới đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH), BHXH là 1 trụ cột trong hệ thông ASXH, do vậy sự vững chắc của hệ thống ASXH của 1 quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH của quốc gia đó. BHXH điều tiết các chính sách trong hệ thống ASXH, BHXH,ưu đãi xã hội,cứu trợ xã hội là những nội dung của chính sách ASXH,do đó đều là những chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,cùng bổ sung và hộ trợ cho nhau, tất cả đều góp phần ổn định cuộc sống cho mỗi người trong xã hội, từ đó góp phần làm ổn định xã hội. 1.2. Bảo hiểm y tế: 1.2.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi của BHYT: a, Khái niệm: BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhằm đảm bảo chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cho nhưng người tham gia BHYT khi họ ốm đau bệnh tật bằng nguồn qũy BHYT do sự đóng góp theo chu kỳ của người sử dụng lao động, các tổ chức và cá nhân. BHYT là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau.. b Đối tượng: Theo Điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Nghị định số 63/2005/NĐ- CP ngày 16-5-2005 của Chính phủ, bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc được áp dụng với những đối tượng sau: - Người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và HĐLĐ không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang - Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức. - Người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) hằng tháng. - Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật.
  5. - Người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đang hưởng trợ cấp hằng tháng. - Đại biểu Quốc hội đương nhiệm không thuộc biên chế Nhà nước và biên chế của các tổ chức chính trị - xã hội; đại biểu Hội đồng nhân dân đương nhiệm các cấp không thuộc biên chế Nhà nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hằng tháng. - Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp BHXH hằng tháng và cán bộ xã già yếu nghỉ việc đang hưởng phụ cấp hằng tháng từ nguồn ngân sách Nhà nước. - Thân nhân sĩ quan quân đội nhân dân đang tại ngũ; thân nhân sĩ quan nghiệp vụ đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân. - Các đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hằng tháng. - Người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên và người cao tuổi được ưu đãi theo Pháp lệnh Người cao tuổi. - Người nghèo theo quy định của Chính phủ. - Cựu chiến binh thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ. - Lưu học sinh nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam cấp học bổng. - Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đã nêu trên làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn HĐLĐ mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc hoặc giao kết HĐLĐ mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia BHYT bắt buộc. BHYT tự nguyện được áp dụng đối với mọi đối tượng có nhu cầu tự nguyện tham gia BHYT, kể cả đối tượng tham gia BHYT bắt buộc nhưng muốn tham gia BHYT tự nguyện để hưởng mức dịch vụ BHYT cao hơn đối với người tham gia BHYT bắt buộc. c Phạm vi BHYT: - Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm; - Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế; - Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ theo quy định; cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này. 1.2.2 Vai trò của BHYT: - BHYT giúp ổn định cuộc sống cho người lao động lúc ốm đau,tại nạn…sớm khỏe trở lại và cũng như sớm có việc làm. - BHYT là 1 công cụ đắc lực của Nhà nước góp phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân 1 cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm ngân sách Nhà nước bảo đảm ASXH bền vững. 1.3. Bảo hiểm thất nghiệp: 1.3.1,Vài nét về bảo hiểm thất nghiệp: a, Sự ra đời và phát triển của BHTN:
  6. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và bước vào hội nhập với kinh tế thế giới, bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội, thì tình trạng thất nghiệp đang là một trong những vấn đề nan giải và hết sức bức xúc. Hàng năm có từ 1,1 đến 1,2 triệu người bước vào tuổi lao động, nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn. Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, một bộ phận không nhỏ lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau bị mất việc làm, đời sống rất khó khăn, ảnh hưởng đến trật tự an sinh xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Bên cạnh đó bảo hiểm thất nghiệp còn giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp. Có thể khẳng định, bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định. b, Đối tượng của BHTN: Theo dự thảo Nghị định bảo hiểm thất nghiệp, người lao động là công dân Việt Nam làm việc trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể; làm việc cho cơ quan, tổ chức, cho cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ và sử dụng lao động Việt Nam..., có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12-36 tháng, đều thuộc diện tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Theo dự thảo, loại hình bảo hiểm thất nghiệp này có sự tham gia của 3 bên là Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. c, Phạm vi bảo hiểm của BHTN (ĐK hưởng trợ cấp thất nghiệp) Người thất nghiệp được hưởng các chế độ Bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ 3 điều kiện sau: + Đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Pháp luật về cán bộ, công chức ; + Đã đăng ký với Trung tâm GTVL thuộc Sở LĐ TBXH khi bị mất việc làm, chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc ; + Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp với Trung tâm GTVL thuộc Sở LĐ TBXH theo quy định. d, Nguồn quỹ và mức trợ cấp thất nghiệp: * Nguồn quỹ: - Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp. - Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
  7. - Hàng tháng, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp và mỗi năm chuyển một lần. - Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ. - Các nguồn thu hợp pháp khác * Mức trợ cấp: Mức trợ cấp thất nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP được hướng dẫn thực hiện như sau: - Mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. - Trưòng hợp những tháng cuối cùng trước khi thất nghiệp, người lao động có thời gian gián đoạn đóng bảo hiểm thất nghiệp do không thuộc đối tượng đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định thì 6 tháng liền kề để tính mức trợ cấp thất nghiệp là bình quân của 6 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trước khi người lao động mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. * Thời gian hưởng trợ cấp BHTN: - Ba tháng, nếu có từ đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; - Sáu tháng, nếu có từ đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; - Chín tháng, nếu có từ đủ bảy mươi hai tháng đến dưới một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; - Mười hai tháng, nếu có từ đủ một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên. 1.3.2. Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam và sự cần thiết của BHTN: a, Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp tính chung cho lực lượng lao động ở nước ta trong thời gian qua là thấp.Tỷ lệ thất nghiệp năm 2003 là 2,25%, 3 năm tiếp theo có xu hướng giảm đi nhưng không dáng kể, và đến năm 2007 tăng lên 2,52%.Tại cuộc họp báo ngày 31/12/2010, Tổng cục thống kê cho biết, lực lượng lao động trong độ tuổi của nước ta năm 2010 khoảng 46,21 triệu người, tăng 2,12% so với năm 2009. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 là 2,88% Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2010 là 4,43%, giảm 0,17%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn là 2,27%, tăng 0,02% so với năm ngoái. Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 4,5%, giảm 1,11% so với 2009. Trong đó, khu vực thành thị là 2,04%, giảm 1,29%, khu vực nông thôn là 5,47%, giảm 1,04% so với 2009. Sở dĩ tỷ lệ thất nghiệp chung của lực lượng lao động thấp, là do nước ta có tới khoảng 76% lực lượng lao động làm việc ở nông thôn. Phần lớn họ là nông dân
  8. và các hộ lao động cá thể nhỏ, nên hầu như ít có khả năng xảy ra thất nghiệp. Còn lại chỉ có khoảng 17% lao động làm việc trong khu vực làm công ăn lương là có khả năng xảy ra thất nghiệp. Chính vì vậy, xét về tỷ lệ thất nghiệp tính riêng cho khu vực thành thị và nông thôn,tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao hơn nhiều so với tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn. Thất nghiệp không chỉ là sự lãng phí mà còn làm cho thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư thấp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế trong nước, cũng như việc “gọi” các nhà đầu tư nước ngoài. Thất nghiệp làm cho tỉ lệ nghèo cao và sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục gia tăng. Thất nghiệp cũng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội do “nhàn cư vi bất thiện”, trở thành vấn đề bức bối mà nhiều gia đình cũng như cộng đồng phải tốn nhiều tiền của, công sức để khắc phục. b, Sự cần thiết của BHTN: Khi người lao động bị mất việc làm thì họ bị mất nguồn thu nhập từ lao động. Vì vậy, một trong những giải pháp tích cực là đầu tư để tạo ra chỗ làm việc mới. Tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng có thể làm được mà nhiều khi bơm thêm tiền vào nền kinh tế vốn đang không mạnh có thể lại dẫn đến lạm phát và khủng hoảng kinh tế, càng làm trầm trọng hơn tình trạng thất nghiệp. Có một giải pháp khác để bảo vệ người lao động tránh được những hụt hẫng khi bị mất việc làm là xã hội cần tạo cho họ một khoản thu nhập bù đắp khoản thu nhập bị mất thông qua bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ giúp góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Chỉ riêng trong năm 2010, ở Việt Nam mức thu bảo hiểm thất nghiệp đạt 4.800 tỷ đồng. Tổng số người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 6,6 triệu người. Ngoài ra, đang có tới 190.000 người tiếp tục đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp và 156.000 người đã có quyết định được hưởng bảo hiểm thất nghiệp. 1.4. Bảo hiểm thương mại: 1.4.1. Bảo hiểm tài sản: a,Khái niệm: Bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm mà đối tượng là giá trị tài sản. Bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm ra đời từ lâu, với mục đích bảo vệ tình hình tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi không may tài sản của họ bị tổn thất, mất mát vì nhiều lý do khác nhau. b,Các sản phẩm bảo hiểm tài sản: (1) Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt: Là nghiệp vụ bảo hiểm những thiệt hại do cháy và các rủi ro tương tự khác hay các rủi ro đặc biệt như: động đất,sóng thần,núi lửa…gây ra cho các đối tượng bảo hiểm. * Đối tượng áp dụng: Bất động sản: Nhà cửa,máy móc,thiết bị…thuộc loại hình sản xuất kinh doanh hay công trình xây dựng. Các động sản : tài sản liên quan đến người được bảo hiểm và các tài sản,hàng hoá khác.
  9. (2) Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản: áp dụng với tài sản có trên và trong phạm vi thuộc quyền sở hữu, quản lý, trông nom,, kiểm soát của người được bảo hiểm (3) Bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp: Áp dụng với tài sản, thời gian gián đoạn kinh doanh do các thiệt hại về tài sản (4) Bảo hiểm hoả hoạn nhà tư nhân: Áp dụng với nhà ở tư nhân và mọi tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng, trông coi, kiểm soát của Người được Bảo hiểm. (5) Bảo hiểm tiền: * Đối tượng áp dụng Tiền mặt, ngân phiếu, các loại tiền tệ, giấy tờ có giá, séc, phiếu chuyển tiền, các loại tem thư hiện hành, thẻ tín dụng, hóa đơn bán hàng, tem thu nhập, công trái, hối phiếu, giấy hẹn trả tiền, tem và phiếu miễn thuế hoặc các chứng từ đền bù hoặc các công cụ có thể đổi thành tiền, tất cả thuộc sở hữu của Người được bảo hiểm hoặc được Người được bảo hiểm thừa nhận trách nhiệm. (6) Bảo hiểm trộm cướp: * Đối tượng áp dụng:Tài sản để trong nhà hoặc phần ngôi nhà. (7) Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau mọi rủi ro tài sản: * Đối tượng áp dụng: Các đơn vị sản xuất kinh doanh (8) Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau hoả hoạn và rủi ro đặc biệt: áp dụng với các đơn vị sản xuất kinh doanh (9) Bảo hiểm mọi rủi ro văn phòng: * Đối tượng áp dụng: Toà nhà và tài sản bên trong toà nhà 1.4.2. Bảo hiểm con người: a, Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm con người: Con người là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội, nhưng trong quá trình lao động sản xuất do tiến bộ khoa học hiện đại và tác động của môi trường làm việc, con người không tránh khỏi những rủi ro tai nạn ốm đau già yếu, mất việc làm … vẫn luôn tồn tại và tác động đến đời sống con người. Để khắc phục hậu quả của rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống con người, đă có nhiều biện pháp được áp dụng như: phòng tránh cứu trợ tiết kiệm … nhưng bảo hiểm luôn được đánh giá là một trong những biện pháp hiệu quả kịp thời giúp người lao động có thể góp phần đảm bảo cuộc sống của họ khi những rủi ro đó xảy ra. BHYT,BHXH thực chất cũng là bảo hiểm con người và đã xuất hiện từ lâu, song phạm vi đảm bảo cho các rủi ro vẫn còn quá hẹp.Con người vẫn luôn quan tâm đến những vấn đề khác nảy sinh trong cuộc sống. Chẳng hạn như :Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì người ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Ngoài BHYT BHXH các dịch vụ bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại ra đời là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Bảo hiểm con người là một trong ba loại hình của BHTM, là hình thức bổ sung cho BHXH BHYT nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với than thển, tính mang, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia .b) Tác dụng của bảo hiểm con người:
  10. Thứ nhất, góp phần ổn định đời sống nhân dân, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm.Tham gia bảo hiểm con người sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn do rủi ro gây ra. Công ty bảo hiểm sử dụng quỹ bảo hiểm để trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ ổn định tài chính và đời sống từ đó góp phần ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thứ hai, góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo lập mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tùy theo đặc điểm ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh các chủ doanh nghiệp thường mua bảo hiểm sinh mạng bảo hiểm tai nạn… cho người làm công và những người chủ chốt trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo cuộc sống và tạo ra sự lôi cuốn gắn bó ngay cả trong những lúc doanh nghiệp gặp khó khăn. Tránh cho doanh nghiệp sự bất ổn về kinh tế khi mất người làm công chủ chốt. Thứ ba, bảo hiểm con người còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn vốn tiền mặt nhàn rỗi ở các tầng lớp dân cư trong xã hội. Quỹ bảo hiểm được hình thành từ sự đóng góp dưới hình thức phí bảo hiểm của ngưới tham gia bảo hiểm. Mỗi người tham gia chỉ phải đóng một khoản tiền nhỏ,số tiền này được công ty tập hợp lại trong quỹ bảo hiểm khi có càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quy mô của quỹ ngày càng tăng lên. Điều này tạo điều kiện quan trọng để công ty bảo hiểm tạo nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế. Thứ tư, góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống đẹp… Thứ năm, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước.Hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát triển làm tăng them giá trị sản lượng cho các ngành, từ đó tăng nguồn đóng góp cho ngân sách nhà nước.Mặt khác cũng nhờ có bảo hiểm mà ngân sách không phải trợ cấp khắc phục hậu qủa của những rủi ro bất ngờ(trừ những trường hợp rủi ro có tính thảm họa và xã hội rộng lớn), do đó ngân sách nhà nước càng có thêm điều kiện để phát triển kinh tế xã hội. c, Bảo hiểm nhân thọ: - Khái niệm: Bảo hiểm nhân thọ là một hợp đồng giữa một cá nhân và một công ty bảo hiểm nhân thọ để bảo hiểm cho bản thân mình hoặc người thân, hoặc giữa một tổ chức với công ty bảo hiểm nhân thọ để bảo hiểm cho nhân viên của mình với mục đích là đảm bảo an toàn tài chính cho người tham gia bảo hiểm. - Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản: + Bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp tử vong Bảo Hiểm Tử Kỳ: Bảo kiểm tử kỳ là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp Người được bảo hiểm tử vong trong một thời hạn nhất định, theo đó Công ty bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho Người thụ hưởng, nếu Người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được thỏa thuận trong Hợp đồng. Trên cơ
  11. sở Số tiền bảo hiểm trên một đồng phí bảo hiểm phải trả, để hướng tới Quyền lợi bảo hiểm tử vong cao thì mua bảo hiểm tử kỳ là cách cho phép phải trả phí bảo hiểm thấp nhất. Bảo Hiểm Trọn Đời : Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp Người được bảo hiểm tử vong vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. Loại hình này đem lại sự bảo đảm trọn đời cho người được bảo hiểm trên phí bảo hiểm định kỳ cố định. + Bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp sống: Bảo Hiểm Sinh Kỳ : Bảo hiểm sinh kỳ chỉ trả quyền lợi bảo hiểm vào ngày đáo hạn nếu Người được bảo hiểm còn sống. Bảo Hiểm Niên Kim: Bảo hiểm niên kim là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp Người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó Công ty bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho Người thụ hưởng theo thỏa thuận trong Hợp đồng bảo hiểm. Có hai thời kỳ: thời kỳ tích lũy (khi phí bảo hiểm được phân bổ vào tài khoản) và thời kỳ niên kim (khi Công ty bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm). + Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: Bảo hiểm hỗn hợp là loại hình bảo hiểm nhân thọ có quyền lợi bảo hiểm được chi trả một lần vào cuối thời hạn hợp đồng (ngày đáo hạn) hoặc khi Người được bảo hiểm tử vong. Thời gian đáo hạn điển hình thường là 10, 15, 20 năm hoặc đến một giới hạn tuổi nhất định. d, Bảo hiểm con người phi nhân thọ: - Đặc điểm chủ yếu: Hậu quả của rủi ro mang tính chất thiệt hại, thường quy định độ tuổi cho người được BH, thời hạn BH ngắn và thường triển khai kết hợp với nghiệp vụ BH khác trong cùng một hợp đồng BH - Một số nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ : + Bảo hiểm tai nạn con người 24/24 Mục đích: Góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân người bị tai nạn và gia đình .Tạo điều kiện thuận lợi cho những người làm ở những ngành nghề thường xảy ra tai nạn được BH như khai thác, xây dựng… Đối tượng tham gia: Người từ 18 đến 60 tuổi, thể chất và tinh thần bình thường Phạm vi BH: Tai nạn chết người hoặc gây thương tật Trường hợp loại trừ: Người được BH vi phạm pháp luật, hành động cố ý gây tai nạn, ảnh hưởng của chất kích thích, ngộ độc, trúng gió, động đất, núi lửa, nhiễm phóng xạ và chiến tranh. Thời hạn BH: thường là 1 năm + Bảo hiểm tai nạn hành khách : Mục đích : Góp phần ổn định cuộc sống của hành khách và gia đình họ. Tạo điều kiện cho chính quyền địa phương khắc phục hậu quả kịp thời Đối tượng BH: tính mạng và tình trạng sức khoẻ của hành khách trên phương tiện giao thông kinh doanh chuyên chở hành khách Phạm vi BH: rủi ro, thiên tai, tai nạn bất ngờ Thời hạn hiệu lực: thời gian hợp lý để thực hiện hành trình
  12. Phí BH tính vào giá vé :Phí BH tính trên 1km/ hành khách.Hoặc phí BH tính theo tỷ lệ trên giá cước vận tải. 1.4.3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: * Khái niệm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một loại chính sách mà là mua để cung cấp bảo hiểm cho dân sự quy định theo pháp luật . Chính sách bảo hiểm trách nhiệm dân sự có sẵn trong nước như Anh và được mua bởi các câu lạc bộ khác nhau, thể thao các đội và các chuyên gia.. Một chính sách sẽ phải trả cho thiệt hại là kết quả của việc thực hiện các yêu cầu bảo hiểm và thực hiện chống lại một bảo hiểm, trong khi chính sách có hiệu lực. Điều này bao gồm yêu cầu trách nhiệm dân sự xảy ra như là kết quả của bất kỳ hoạt động nghề nghiệp. * Bảo hiểm trách nhiệm (Liability Coverage): Có bảo hiểm trách nhiệm dân sự bảo vệ từ nhiều loại trách nhiệm như trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản phẩm và trách nhiệm nghề nghiệp. Công trách nhiệm bao gồm thiệt hại về tài sản phát sinh trong hoạt động của một nhóm hoặc tổ chức. Sản phẩm trách nhiệm bao gồm thương tích hay thiệt hại mà các kết quả từ sản phẩm đã được bán ra. Chuyên nghiệp bồi thường bao gồm các lỗi và thiếu sót như đưa ra lời khuyên xấu hoặc không hành động khi thích hợp. * Các loại Khiếu nại (Types of Claims): Bảo hiểm cho nhiều loại yêu cầu được cung cấp bởi bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà đã được mua bởi một doanh nghiệp hoặc nhóm. Một loại bao gồm các yêu cầu bồi thường thương tích duy trì bởi một bên thứ ba, là kết quả của thiết bị bị lỗi. Một loại yêu cầu bồi thường là khi một cá nhân đã bị thương khi theo hướng dẫn hoặc tư vấn. Khiếu nại cũng có thể xảy ra khi gia súc thoát và gây thương tích khi cửa của một địa chủ đã được mở lại. * Cung cấp phạm vi bảo hiểm (Coverage Provided): Các chi phí thanh được cung cấp bởi một chính sách bảo hiểm trách nhiệm dân sự được chứa trong phần trách nhiệm dân sự của chính sách. Điều này bao gồm các loại hình trách nhiệm pháp lý đã được bảo hiểm và những gì loại thiệt hại được trả bởi chính sách. Thiệt hại bao gồm tuyên bố rằng kết quả từ hoạt động kinh doanh, bảo hiểm và tuyên bố rằng được thực hiện theo pháp luật dân sự trừ trường hợp loại trừ về chính sách. Bảo hiểm này cũng cung cấp cho bất kỳ chi phí pháp lý xảy ra. * Các loại trách nhiệm pháp lý (Types of Liability): Bảo hiểm trách nhiệm dân sự bao gồm trách nhiệm có thể xảy ra cho một bên thứ ba hoặc là kết quả của một hành động của bảo hiểm. Trách nhiệm pháp lý có thể xảy ra như là kết quả của thương tích đã được duy trì bởi bất kỳ người nào hoặc bên thứ ba và tài sản của mình. sự cố khác liên quan đến trách nhiệm xâm phạm và phiền toái. Hành động của người được bảo hiểm có thể bao gồm vu khống hoặc phỉ báng đó không phải là cố ý và xảy ra từ những lời khuyên hoặc hướng dẫn được cung cấp bởi một chuyên nghiệp. * Loại trừ (Exclusions): Doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường có nhiều loại trừ được bao gồm về chính sách một. Loại trừ một chính sách có thể bao gồm bất kỳ kiến thức trước khi có thể dẫn đến một yêu
  13. cầu bồi thường và bất kỳ khiếu nại được thực hiện bởi các nhân viên của một doanh nghiệp loại trừ các hành vi khác bao gồm cam kết cố ý của người được bảo hiểm và tuyên bố từ một tổ chức được kiểm soát bởi đồng bảo hiểm này. 2, Vai trò chung của các loại hình bảo hiểm: 2.1, Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế: - Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất: Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm và cũng xuất phát chính từ nhu cầu này mà bảo hiểm đã ra đời. Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có tổn thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Khi có tổn thất xảy đến với đối tượng được bảo hiểm thì nhiệm vụ cơ bản của bảo hiểm là khắc phục những hậu quả đó, ổn định đời sống và quá trình sản xuất – kinh doanh. Theo số liệu mới nhất của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, toàn thị trường bảo hiểm đã giải quyết bồi thường 3.540 tỉ đồng, chiếm 35,9% doanh thu, trong đó, các doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao gồm: AIG 70,4%, Bảo Minh 57,8%, QBE 49%. Ví dụ: Ngày 10/03/2011, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội (MIC) đã tiến hành chi trả tiền bảo hiểm cho Công ty TNHH Dược phẩm Dược Đông Á, với tổng số tiền gần 27 tỷ đồng, giúp khách hàng nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh. Ngày 20/04/2009, MIC đã ký hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cho kho dược phẩm của Công ty TNHH Thương mại Dược phẩm Đông Á, địa chỉ tại Số 13, Lô 13 Trung yên, Trung Hòa, Nhân chính, Hà Nội với tổng số tiền bảo hiểm là 40 tỷ đồng. Ngày 28/05/2009, Kho của Công ty Dược Phẩm Đông Á bị cháy, Cán bộ giám định của MIC đã có mặt tại hiện trường trong vòng 24 giờ ngay sau khi đám cháy xảy ra hướng dẫn khách hàng cung cấp các thông tin để việc hoàn thiện hồ sơ bồi thường được thực hiện trong thời gian ngắn nhất. Ngay sau khi Công ty Dược Phẩm Đông Á cung cấp đầy đủ hồ sơ bồi thường, MIC đã tiến hành chi trả bồi thường đầy đủ, đúng lúc và kịp thời cho khách hàng theo đúng qui định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, đồng thời, trong thời gian chờ hòan thiện hồ sơ bồi thường, MIC cũng đã nhiều lần tạm ứng bồi thường với số tiền rất lớn để giúp khách hàng ổn định được công việc sản xuất và kinh doanh. - Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất: Dựa trên cơ sở các rủi ro xảy ra hàng năm, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm tiến hành nghiên cứu các rủi ro, thống kê các tai nạn, tổn thất, từ đó xác định các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt hại. Những nghiên cứu này giúp các công ty bảo hiểm có thể đề ra được các biện pháp kiểm soát ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra. Các công ty bảo hiểm cũng luôn đôn đốc các cá nhân, tổ chức tham gia mua bảo hiểm tăng cường các biện pháp bảo vệ tài sản của chính mình. Đồng thời, họ cũng tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ an toàn giao thông, an toàn lao động… Do bảo hiểm không có nghĩa là đổ hết trách nhiệm cho người bảo hiểm
  14. nên ở các cơ quan, xí nghiệp thường có các qui tắc, qui định cho an toàn lao động, các qui định về phòng cháy chữa cháy, các thiết bị chống trộm, báo cháy… - Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu tư vào những lĩnh vực khác: Việc tự khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập quỹ dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có khả năng sinh lợi lớn nếu đem đầu tư. Do vậy, người ta có thể đóng cho các công ty bảo hiểm một khoản nhỏ hơn thay vì bỏ một khoản tiền lớn lập quỹ, và có thể dùng tiền đó nâng cao đời sống hoặc đầu tư kinh doanh. Bảo hiểm đã trở thành lựa chọn tối ưu trong môi trường đầy rủi ro hiện nay, đảm bảo mức độ an toàn tương đối về khả năng tài chính khi xảy ra rủi ro mà vẫn không gây đọng vốn. Ngày nay, các công ty bảo hiểm là một kênh huy động vốn không thể thiếu của nền kinh tế và đang ngày càng được khai thác một cách hiệu quả, do phạm vi hoạt động rộng, các loại hình bảo hiểm phong phú. Thông qua các hợp đồng bảo hiểm, các công ty bảo hiểm đã tập trung lượng tiền phân tán rải rác thành những quĩ tiền tệ khá lớn. Quĩ bảo hiểm đã trở thành một định chế tài chính trung gian quan trọng trên thị trường vốn. Đặc biệt, thông qua loại hình bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm đã khuyến khích các tầng lớp nhân dân tăng cường tiết kiệm và qua đó đã thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi để đầu tư. => Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2008, ngành bảo hiểm đã đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 57.000 tỷ đồng, tăng hơn 10.000 tỷ đồng so với năm 2007. Năm 2009, thị trường bảo hiểm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định và đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế với tỷ trọng doanh thu/GDP khoảng 2,3%. Ngành bảo hiểm cũng đã huy động đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 69.000 tỷ đồng, tăng xấp xỉ 12.000 tỷ đồng so với năm 2008. Năm 2010, tổng doanh thu bảo hiểm đạt 30.844 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 17.052 tỷ đồng, bảo hiểm nhân thọ 13.792 tỷ đồng. Các DNBH đã đầu tư trở lại nền kinh tế hơn 92.000 tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tư này không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, mà còn giúp nguồn bảo tức của khách hàng mua bảo hiểm được cao hơn. - Tăng thu cho ngân sách nhà nước: Qua quá trình phát triển lâu dài, bảo hiểm tự thân nó đã trở thành một ngành kinh doanh độc lập, có hạch toán thu chi, lỗ lãi rõ ràng. Vì vậy, các công ty bảo hiểm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước như mọi doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế. Hàng năm, thông qua việc nộp thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, bảo hiểm cũng góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông qua việc thực hiện tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo vệ tối đa tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc. Điều này giúp Nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp cho những tổn thất như phải xây dựng lại đường xá, cầu cống, nhà xưởng, công trình… Ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một lượng ngoại tệ lớn cho ngân sách Nhà nước.
  15. - Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống: Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi trường kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Những rủi ro do thiên nhiên như bão lũ, hạn hán, sóng thần, cháy rừng tự nhiên… đang trở nên hết sức phức tạp, khó dự đoán do môi trường thế giới đang thay đổi theo chiều hướng xấu. Chiến tranh, xung đột, khủng bố, đình công… không những không giảm bớt mà lại ngày càng diễn biến phức tạp ở nhiều nơi trên thế giới. Trong tình hình như vậy, bảo hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống cho con người. 2.2,Vai trò của bảo hiểm cho việc an sinh xã hội: 2.2.1. Tìm hiểu chung về an sinh xã hội An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội (XH) cung cấp cho những thành viên trong cộng đồng qua các biện pháp phân phối thu nhập và bảo vệ XH cho các thành viên lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong XH, thông qua các biện pháp thu nhập và dịch vụ XH. 2.2.1.1. Bản chất của An sinh xã hội: ASXH là một chính sách xã hội có mục tiêu cụ thể và nó thường được cụ thể hóa bằng pháp luật, chương trình quốc gia, đặc biệt nó còn tồn tại ngay trong tiềm thức của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc. ASXH là một cơ chế công cụ để phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng XH. ASXH là sự che chắn, bảo vệ cho các thành viên trong XH trước các rủi ro và biến cố bất lợi xảy ra thông qua các lưới ASXH. ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn cao đẹp của con người trong mọi thời đại. 2.2.1.2. Vai trò của An sinh xã hội: ASXH góp phần đảm bảo công bằng XH. Vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực cho sự phát triển kinh tế XH. Khơi dậy tinh thần đoàn kết và giúp đờ lẫn nhau trong cộng đồng XH. Là chất xúc tác giúp các nước các dân tộc tìm hiểu và xích lạ gần nhau, không phân biệt các thể chế chính trị, màu da, văn hóa. 2.2.1.3.Hệ thống an sinh xã hội: Bao gồm hệ thống ưu đãi xã hội ,hệ thống bảo trợ xã hội và hệ thống bảo hiểm xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội: Hệ thống bảo hiểm xã hội sẽ bảo đảm quyền lợi cho người lao động trên cơ sở đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Theo phương thức đó, người lao động phải có đóng góp vào quỹ BHXH mới được quyền lợi BHXH. Còn mối quan hệ giữa mức đóng và quyền lợi được hưởng lại chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc như: nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro (thể hiện ở chính sách BHYT, chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp...), nguyên tắc tương quan giữa đóng và hưởng có sự can thiệp nhờ cách thức phân phối lại mang tính xã hội (chế độ hưu trí, tử tuất). Còn thực chất của BHYT là chế độ khám chữa bệnh nằm trong chính sách BHXH, nhưng do lịch sử hình thành và phát triển ở nước ta có sự khác biệt và theo thói quen nên chúng ta thường gọi là chính sách BHYT.
  16. 2.2.2. Vai trò của các chính sách bảo hiểm cho việc an sinh xã hội: - Thứ nhất, thực hiện chính sách BHXH, BHYT nhằm ổn định cuộc sống người lao động, trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro: ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp... sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm có việc làm.... Theo phương thức BHXH, BHYT, người lao động khi có việc làm và khỏe mạnh sẽ đóng góp một phần tiền lương, thu nhập vào quỹ dự phòng. Quỹ này hỗ trợ người lao động khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Do vậy, hoạt động BHXH, BHYT, một mặt, đòi hỏi tính trách nhiệm cao của từng người lao động đối với bản thân mình, với gia đình và đối với cộng đồng, xã hội theo phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các thành viên trong xã hội, giữa các thế hệ kế tiếp nhau trong một quốc gia, tạo thành một khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong một thể chế chính trị - xã hội bền vững. Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng góp BHXH, BHYT cho người lao động. Nếu theo nhìn nhận ban đầu, việc đóng góp BHXH, BHYT cho người lao động có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thực chất, về lâu dài, phương thức BHXH, BHYT đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ người lao động khi gặp rủi ro về phía xã hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ sử dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đối với nước ta, nguồn lao động với trình độ chuyên môn cao, người lao động có mức thu nhập ở mức bình quân chung toàn xã hội là chủ yếu thì biện pháp điều tiết thu nhập mang tính cộng đồng là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy sản, hải sản; da giày; dệt may... sử dụng nhiều lao động, nhất là doanh nghiệp có nhiều lao động nữ đều rất coi trọng chính sách BHXH, BHYT để bảo vệ và duy trì nguồn lao động của doanh nghiệp mình. Trong hoạt động BHXH, BHYT, Nhà nước tiến hành xây dựng chính sách, chế độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHXH, BHYT. Như vậy nhà nước giữ vai trò quản lý về BHXH, BHYT, bảo hộ cho quỹ BHXH mà không phải chi từ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách BHXH, BHYT là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong suốt quá trình. Chính sách BHYT với mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân đã tạo điều kiện cho mọi người dân giảm bớt gánh nặng chi phí khi khám chữa bệnh do ốm đau, tai nạn, tạo sự bình đẳng trong khám chữa bệnh BHYT.
  17. - Thứ hai, thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT, nhất là chế độ hưu trí, góp phần ổn định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động hoặc không còn khả năng lao động. Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, người lao động tham gia đóng BHXH từ 20 năm trở lên khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp hằng tháng. Với nguồn lương hưu và trợ cấp BHXH, người cao tuổi có thu nhập ổn định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, cả nước đã có khoảng 2,5 triệu người hết tuổi lao động đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng với số tiền chi trả từ quỹ BHXH hàng nghìn tỉ đồng mỗi tháng. Trong nhiều năm qua, kể từ khi chính sách BHXH được thực hiện, cùng với sự phát triển kinh tế, mức lương hưu cũng không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với mức sống chung của toàn xã hội. Vào các thời điểm tăng mức lương tối thiểu chung cũng như việc xem xét chỉ số giả cả, Nhà nước đều có sự điều chỉnh lương hưu một cách hợp lý. Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh cho phù hợp với mức sống chung toàn xã hội tại thời điểm hưởng lương hưu đã bảo đảm cuộc sống của người nghỉ hưu, tạo sự an tâm, tin tưởng của người về hưu sau cả cuộc đời lao động. Tương tự như vậy, các quyền lợi về BHYT, về chế độ ốm đau, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; mức trợ cấp tuất một lần... cũng được cải thiện rõ rệt. - Thứ ba, thực hiện chính sách BHXH, BHYT góp phần ổn định và nâng cao chất lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển. Chính sách BHXH, BHYT hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng” đã tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của người lao động về chính sách BHXH, BHYT. Khi đó, mọi người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế, các ngành nghề, địa bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được tham gia thực hiện các chính sách BHXH, BHYT. Phạm vi đối tượng tham gia BHXH, BHYT không ngừng được mở rộng đã thu hút hàng triệu người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, BHYT, tạo sự an tâm, tin tưởng và yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh. Người lao động tham gia BHXH, BHYT khi ốm đau sẽ được khám chữa bệnh và được quỹ BHYT chi trả phần lớn chi phí; được nhận tiền trợ cấp khi ốm đau không đi làm được, được nghỉ chăm con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai, được nghỉ khi sinh đẻ và nuôi con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai sản; khi bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp do giảm khả năng lao động do tai nạn, bệnh nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra, người lao động còn được nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực. Khi người lao động mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và được giới thiệu việc làm hoặc gửi đi học nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm mới.
  18. Với những quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH, BHYT đã góp phần thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho người lao động trong suốt quá trình lao động, sản xuất. Việc được tham gia BHXH, BHYT khi đang làm việc và được hưởng lương hưu sau này đã tạo ra cho người lao động sự phấn khởi, tâm lý ổn định, an tâm vào việc làm mà họ đang thực hiện. Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi tuyên truyền quảng cáo tuyển dụng lao động, thì tiêu thức được tham gia BHXH, BHYT cũng là một quyền lợi quan trọng thu hút được nhiều lao động. Sự an tâm của người lao động cũng như việc bảo vệ sức lao động của họ thông qua chính sách BHXH, BHYT đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển. - Thứ tư, BHXH, BHYT là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền vững. Trên thị trường lao động, “tiền lương là giá cả sức lao động” được hình thành tự phát căn cứ vào quan hệ cung cầu, vào chất lượng lao động cũng như các điều kiện khung mà trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý thông qua những quy định về mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động cần thiết. Quá trình hình thành tiền lương theo thỏa thuận giữa chủ sử dụng lao động và người lao động là sự phân phối lần đầu và phân phối trực tiếp cho từng người lao động. Do vậy, người lao động có tay nghề cao, có nghề nghiệp thích ứng với nhu cầu của xã hội sẽ có thu nhập cao. Đó là sự hợp lý và khuyến khích làm giàu chính đáng. Sau khi đã thực hiện thuế thu nhập, Nhà nước sẽ tiến hành phân phối lại thông qua chính sách BHXH, BHYT. Khi đó, người có năng lực hơn, nhận được tiền lương cao hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp những người “yếu thế” hơn trong xã hội. Một bộ phận lao động khác do gặp phải rủi ro trong cuộc sống như về sức khỏe, về năng lực, về hoàn cảnh gia đình... có việc làm và thu nhập thấp hơn sẽ nhận được các quyền lợi BHXH, BHYT để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ hưu trí, tử tuất với nguyên tắc tương đồng giữa mức đóng và mức hưởng đã khuyến khích người lao động khi làm việc có thu nhập cao và đóng góp ở mức cao, với thời gian dài thì sau này sẽ được hưởng tiền lương hưu với mức cao, an tâm nghỉ ngơi khi tuổi già. Bảo hiểm xã hội, BHYT đều được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, có nghĩa là người tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, BHYT thì người đó mới được hưởng quyền lợi về BHXH, BHYT. Như vậy, nguồn để thực hiện chính sách là do người lao động đóng góp, Nhà nước không phải bỏ ngân sách ra nhưng vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài. 3, Thực trạng phát triển và giải pháp cho bảo hiểm Việt Nam: 3.1. Thực trạng phát triển:
  19. Tính đến hết tháng 6/2010, có 50 Doanh nghiệp Bảo hiểm hoạt động trên thị trường trong đó bao gồm 27 Doanh nghiệp Bảo hiểm phi nhân thọ, 11Doanh nghiệp Bảo hiểm nhân thọ, 10 Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 1 Doanh nghiệp tái bảo hiểm. Hiện tại Bộ Tài chính đã chấp nhận về nguyên tắc việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho 01 Doanh nghiệp Bảo hiểm phi nhân thọ -Công ty Bảo hiểm Cathay Việt Nam và 01 Doanh nghiệp Bảo hiểm nhân thọ - Công ty Bảo hiểm nhân thọ Fubon Việt Nam. Tổng doanh thu Phí bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt14.427 tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó doanh thu phí bảohiểm phi nhân thọ ước đạt 7.940 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2009, doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ ước đạt 6.487 tỷ đồng, tăng 14,39% so với cùng kỳ năm 2009. Đến cuối năm 2010 doanh thu phí bảo hiểm toàn ngành đạt 30844 tỷ đồng,trong đó bảo hiểm nhân thọ là 17052 tỷ,bảo hiểm nhân thọ 13792 tỷ đồng. Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc đáo trên cơ sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm - đầu tư bảo vệ, được công luận đánh giá cao như sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn nuôi và sản xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo… Tốc độ tăng doanh thu phí của bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và khu vực. Tốc độ tăng doanh thu bảo hiểm nhân thọ Tốc độ tăng doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ Một số công ty bảo hiểm tuy mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO… Vốn đầu tư cho hoạt
  20. động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả năng giữ lại phí bảo hiểm trong nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui định của nhà nước về tái bảo hiểm bắt buộc qua VINARE đã giúp mức phí giữ lại của toàn thị trường tăng đều qua các năm. Tổng mức phí giữ lại chiếm khoảng 70% tổng phí bảo hiểm gốc, giảm được một lượng không nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Theo đánh giá của HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8- 10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn. -Bảo hiểm nhân thọ: Tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt khoảng 6.487 tỷ đồng tăng 14,39%so với cùng kỳ năm 2009 (trong đó tổng doanh thu phí của các sản phẩm bảo hiểm chính đạt 6.268 tỷ đồng tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2009). Thị phần tổng doanh thu phí bảo hiểm của các doanhnghiệp về cơ bản không khác biệt nhiều so với năm 2009: Prudential 38,9%, BảoViệt Nhân thọ 31,4%, Manulife 10,5%, AIA 6,6%, Dai-ichi 6,3%, ACE 4,5%, KoreaLife 0,9%, Cathay 0,5%, Prevoir 0,3% và Great Eastern 0,1%. Đến nay sản phẩm chủ yếu của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vẫn là các sản phẩm hỗn hợp truyền thống với 73% doanh thu khai khác mới và 87% số lượng hợp đồng chính có hiệu lực tại cuối năm 2007. Về kênh phân phối,kênh phân phối qua đại lý đến nay đây vẫn là kênh phân phối chính, đóng góp khoảng 99% doanh thu khai thác mới. Bảo hiểm phi nhân thọ:Doanh thu phí bảo hiểm gốc trong 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt 7.940 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 25 DNBH tăng trưởng về doanh thu phí bảo hiểm gốc; 3 DNBH giảm doanh thu phí bảo hiểm gốc là UIC, Bảo Tín và VIA.Các DNBH lớn như Bảo Việt, PVI, Bảo Minh vẫn dẫn đầu thị trường: Bảo Việt ước đạt1.871 tỷ đồng, chiếm 23,57% thị phần, giảm gần 2%; Bảo Minh đạt 1.095 tỷ đồng chiếm 13,79%, tăng 0,18%. Một số nghiệp vụ chiến tỉ trọng doanh thu lớn: dẫn đầu là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, chiếm tỉ trọng 31,35%, doanh thu phí đạt 2.489 tỉ đồng, tăng gần 21% so với cùng kỳ năm trước.Đứng thứ hai là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và thiệt hại, chiếm 25,57%, doanh thu phí đạt 2.030 tỷ đồng, tăng 21,51% so với cùng kỳ năm trước.Thứ ba là nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu và tách nhiện chủ tàu chiến tỉ trọng 12,19%, ước
nguon tai.lieu . vn