Xem mẫu
- Đề tài 5: Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở Việt
Nam, vai trò cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế?
A, Mở đầu:
Trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa đề phòng nhưng con người vẫn luôn luôn phải
đối mặt với nguy cơ rủi ro trong mọi lĩnh vực. Các rủi ro xảy ra có thể do nhiều
nguyên nhân như môi trường, thiên nhiên, xã hội như: bão lụt, hạn hán, bệnh
dịch, tai nạn … Tất cả mọi rủi ro đó đều đe dọa đến khả năng tài chính của mỗi
cá nhân, những con người không may gặp tai nạn. Để ngăn ngừa, khắc phục
những rủi ro đó người ta nghĩ đến việc đoàn kết cộng đồng, liên hợp nhiều
người lại để chia sẻ mất mát với những con người kém may mắn đó. Như vậy,
xét trên diện rộng là cả cộng đồng thì hoạt động này tận dụng được tối đa mọi
nguồn lực xã hội và lợi ích xã hội thu được là rất lớn. Do vậy, các công ty bảo
hiểm xuất hiện.
Ngày nay khi nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ ngày càng phát triển thi người ta còn
biết đến bảo hiểm như các tổ chức phi ngân hàng mà trong đó nó thực hiện chức
năng như một trung gian tài chính, tức là góp phần giải quyết hiện tượng thiếu
thừa vốn diễn ra thường xuyên trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình tuần
hoàn vốn được diễn ra trôi chảy và nhanh chóng Qua vài điều sơ lược trên ta
nhận thấy bảo hiểm có vai trò quan trọng đối với con người, xã hội, nền kinh tế.
Để biết cụ thể hơn về bảo hiểm cũng như vai trò và sự phát triển của bảo hiểm
ở nước ta, các bạn hãy cùng với chúng tôi tìm hiểu về đề tài: “Vai trò và sự phát
triển của các loại hình bảo hiểm chủ yếu ở nước ta. Vai trò của các loại hình
bảo hiểm cho việc an sinh xã hội và phát triển kinh tế”
B, Nội dung:
I, Giới thiệu chung về bảo hiểm:
1,Sự cần thiết của các dịch vụ bảo hiểm:
Thực tiễn cho thấy, tai nạn gây ra nhiều tổn thất về tài chính, tinh thần thậm chí
là cả tính mạng cho chính bản thân và gia đình của những người không may gặp.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Ngân hàng thế giới (WB) thì
mỗi năm, thế giới có hơn 1,2 triệu người chết vì tai nạn giao thông đường bộ,
khoảng 50 triệu người khác bị thương trong các tai nạn đó. Hiện nay nguy cơ
chiến tranh và nguy cơ khủng bố, nội chiến sắc tộc ở các nước châu Phi, tranh
chấp lãnh thổ giữa một số quốc gia vùng trung và nam châu Á,...vẫn luôn thường
trực xảy ra, đe doạ sự an toàn của tất cả mọi người. Vẫn đang từng ngày cướp
đi sinh mạng, tiền của của rất nhiều người. Đặc biệt trận động đất và sóng thần
kinh hoàng xảy ra ở Nhật Bản vừa qua đã cướp đi sinh mạng của hàng ngàn
người,nhiều thành phố bị xoá sổ,gây thiệt hại ước tính khoảng 180 tỷ đô la. Ở
Việt Nam cũng có rất nhiều nguy cơ có thể ảnh hưởng tới cuộc sống ổn định
của con người. Theo báo cáo sơ bộ, trong mười một tháng năm 2010, trên địa bàn
cả nước đã xảy ra 12,6 nghìn vụ tai nạn giao thông, làm chết 10,4 nghìn người và
làm bị thương 9,2 nghìn người. Thiên tai xảy ra trong năm 2010 đã làm 355 người
- chết và mất tích; gần 600 người bị thương; hơn 2,6 nghìn ngôi nhà bị sập đổ,
cuốn trôi; hơn 579 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, ngập nước; 30 nghìn ha lúa
và hoa màu bị mất trắng; trên 100 km đê, kè và gần 1,9 nghìn km đường giao
thông cơ giới bị vỡ, sạt lở và cuốn trôi; hơn 11 nghìn cột điện bị gãy, đổ. Tổng
giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong năm 2010 ước tính 11,7 nghìn tỷ đồng. Sự
ổn định cuộc sống của mỗi con người đang bị đe doạ nghiêm trọng. Trong khi
đó, thu nhập của họ đang được nâng lên đáng kể, nhu cầu tiết kiệm để đảm bảo
cuộc sống trong tương lai rất được chú trọng. Do vậy các hoạt động bảo hiểm
lại là sự lựa chọn an toàn của những người tham bảo hiểm. Đó chính là những
đòi hỏi khách quan cho sự ra đời,tồn tại và phát triển của các loại hình dịch vụ
bảo hiểm
2, Định nghĩa và bản chất của bảo hiểm:
a, Định nghĩa:
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng
góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế….
- Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh
của số ít.
- Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người
được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện
mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi
ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó
là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và
đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.
- Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ
chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro
cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các
tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những
người được bảo hiểm.
- Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): Kinh doanh bảo hiểm là hoạt
động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm.
b, Bản chất:
Bản chất của bảo hiểm: Là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người
cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa
trên Quy luật số đông (the law of large numbers).
3, Lịch sử phát triển của bảo hiểm:
Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như các mức độ
và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn bán, những người vận
tải luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình.
- Đầu tiên vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, người ta đã tìm cách giảm nhẹ tổn
thất toàn bộ lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình ra làm nhiều chuyến
hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó là hình thức nguyên
khai của bảo hiểm.
Vào thế kỷ XIV, ở Floren Genoa nước Ý đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm
hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo
hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải
gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản
phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày
22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát hiện ra
Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng
hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.
Về cơ sở pháp lý có thể coi chiếu dụ Barcelona năm 1435 là văn bản pháp luật
đầu tiên trong ngành bảo hiểm. Sau đó là sắc lệnh của Philippe de Bourgogne
năm 1458, những sắc lệnh của Brugos năm 1537, Fiville năm 1552 và ở
Amsterdam năm 1558. Ngoài ra còn có sắc lệnh của Phần Lan năm 1563 liên quan
đến hợp đồng bảo hiểm hàng hóa.
Đến cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản
xuất TBCN thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu
vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội.
Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hỏa hoạn, đánh dấu bằng
vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn hộ
trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không
thể cứu trợ được, sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng
đồng chia sẻ rủi ro hỏa hoạn bằng cách đứng ra thành lập những công ty hỏa
hoạn: Fire Office(1667), Hand and Hand(1696)…Lúc đó công ty bảo hiểm Lloyds
đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải mãi đến thế kỷ XX mới
chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm
Ở Việt Nam, chưa có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác bảo hiểm xuất
hiện ở Việt Nam khi nào mà chỉ phỏng đoán là vào năm 1880 do hội bảo hiểm
ngoại quốc như: Anh, Pháp, Thụy Sĩ… đã để ý đến Đông Dương. Vào năm 1926,
chi nhánh đầu tiên của công ty Franco-Asietique đã được mở tại Việt Nam. Đến
năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo
hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau,
hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với sự
hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài. Ở miền Bắc
Việt Nam, ngày 15/01/1965 công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt)
mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành
các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm
tàu viễn dương…
II, Vai trò và sự phát triển của các loại hình bảo hiểm ở Việt Nam:
1, Một số loại hình bảo hiểm ở Việt Nam:
1.1. Bảo hiểm xã hội:
- 1.1.1. Khái niệm và bản chất của BHXH:
a, Khái niệm : BHXH là việc tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp
nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho
những người lao động làm công ăn lương trong xã hội đó. Trong các cơ chế của
các hệ thống an sinh xã hội thì BHXH là trụ cột quan trọng nhất.
b Bản chất: Bản chất của BHXH là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế
thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH do Nhà nước tổ chức thực hiện.
1.1.2. Vai trò của BHXH:
BHXH được coi là mạng lưới đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống an sinh
xã hội (ASXH), BHXH là 1 trụ cột trong hệ thông ASXH, do vậy sự vững chắc
của hệ thống ASXH của 1 quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH của
quốc gia đó.
BHXH điều tiết các chính sách trong hệ thống ASXH, BHXH,ưu đãi xã hội,cứu
trợ xã hội là những nội dung của chính sách ASXH,do đó đều là những chính sách
xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau,cùng bổ sung và hộ trợ cho nhau, tất cả đều góp phần ổn định cuộc sống
cho mỗi người trong xã hội, từ đó góp phần làm ổn định xã hội.
1.2. Bảo hiểm y tế:
1.2.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi của BHYT:
a, Khái niệm: BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe nhằm đảm bảo chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa
bệnh cho nhưng người tham gia BHYT khi họ ốm đau bệnh tật bằng nguồn qũy
BHYT do sự đóng góp theo chu kỳ của người sử dụng lao động, các tổ chức và cá
nhân.
BHYT là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự
đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và
sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo
hiểm khi ốm đau..
b Đối tượng:
Theo Điều lệ Bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Nghị định số 63/2005/NĐ-
CP ngày 16-5-2005 của Chính phủ, bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc được áp
dụng với những đối tượng sau:
- Người lao động Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) có thời
hạn từ đủ 3 tháng trở lên và HĐLĐ không xác định thời hạn trong các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp, đơn vị
thuộc lực lượng vũ trang
- Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức.
- Người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH)
hằng tháng.
- Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật.
- - Người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học do
Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đang hưởng trợ cấp hằng tháng.
- Đại biểu Quốc hội đương nhiệm không thuộc biên chế Nhà nước và biên chế
của các tổ chức chính trị - xã hội; đại biểu Hội đồng nhân dân đương nhiệm các
cấp không thuộc biên chế Nhà nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hằng
tháng.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp BHXH hằng tháng
và cán bộ xã già yếu nghỉ việc đang hưởng phụ cấp hằng tháng từ nguồn ngân
sách Nhà nước.
- Thân nhân sĩ quan quân đội nhân dân đang tại ngũ; thân nhân sĩ quan nghiệp vụ
đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân.
- Các đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hằng tháng.
- Người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên và người cao tuổi được ưu đãi theo Pháp lệnh
Người cao tuổi.
- Người nghèo theo quy định của Chính phủ.
- Cựu chiến binh thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ.
- Lưu học sinh nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam
cấp học bổng.
- Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đã nêu trên làm
việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn HĐLĐ mà người lao động
vẫn tiếp tục làm việc hoặc giao kết HĐLĐ mới đối với doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân đó thì phải tham gia BHYT bắt buộc.
BHYT tự nguyện được áp dụng đối với mọi đối tượng có nhu cầu tự nguyện
tham gia BHYT, kể cả đối tượng tham gia BHYT bắt buộc nhưng muốn tham gia
BHYT tự nguyện để hưởng mức dịch vụ BHYT cao hơn đối với người tham gia
BHYT bắt buộc.
c Phạm vi BHYT:
- Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính
phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã
hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm;
- Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi
phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế;
- Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ
theo quy định; cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này.
1.2.2 Vai trò của BHYT:
- BHYT giúp ổn định cuộc sống cho người lao động lúc ốm đau,tại nạn…sớm
khỏe trở lại và cũng như sớm có việc làm.
- BHYT là 1 công cụ đắc lực của Nhà nước góp phần vào việc phân phối lại thu
nhập quốc dân 1 cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời
giảm ngân sách Nhà nước bảo đảm ASXH bền vững.
1.3. Bảo hiểm thất nghiệp:
1.3.1,Vài nét về bảo hiểm thất nghiệp:
a, Sự ra đời và phát triển của BHTN:
- Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và bước vào hội nhập với kinh tế thế
giới, bên cạnh những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội, thì tình trạng thất
nghiệp đang là một trong những vấn đề nan giải và hết sức bức xúc.
Hàng năm có từ 1,1 đến 1,2 triệu người bước vào tuổi lao động, nhưng khả năng
thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn. Bên cạnh đó, trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đổi mới, sắp xếp doanh
nghiệp nhà nước, một bộ phận không nhỏ lao động do nhiều nguyên nhân khác
nhau bị mất việc làm, đời sống rất khó khăn, ảnh hưởng đến trật tự an sinh xã
hội. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho
người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc.
Bên cạnh đó bảo hiểm thất nghiệp còn giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước
và doanh nghiệp. Có thể khẳng định, bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ
trợ người lao động trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một
khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian
mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt
động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất
nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định.
b, Đối tượng của BHTN:
Theo dự thảo Nghị định bảo hiểm thất nghiệp, người lao động là công dân Việt
Nam làm việc trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp,
hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể; làm việc cho cơ quan, tổ chức, cho cá nhân
nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ và sử dụng lao động Việt Nam..., có hợp
đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ
12-36 tháng, đều thuộc diện tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Theo dự thảo, loại
hình bảo hiểm thất nghiệp này có sự tham gia của 3 bên là Nhà nước, doanh
nghiệp và người lao động.
c, Phạm vi bảo hiểm của BHTN (ĐK hưởng trợ cấp thất nghiệp)
Người thất nghiệp được hưởng các chế độ Bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ 3
điều kiện sau:
+ Đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc
làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Pháp luật lao động
hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Pháp luật về cán bộ, công
chức ;
+ Đã đăng ký với Trung tâm GTVL thuộc Sở LĐ TBXH khi bị mất việc làm,
chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc ;
+ Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp với Trung
tâm GTVL thuộc Sở LĐ TBXH theo quy định.
d, Nguồn quỹ và mức trợ cấp thất nghiệp:
* Nguồn quỹ:
- Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp.
- Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng
bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
- - Hàng tháng, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công
tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm
thất nghiệp và mỗi năm chuyển một lần.
- Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ.
- Các nguồn thu hợp pháp khác
* Mức trợ cấp: Mức trợ cấp thất nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị
định số 127/2008/NĐ-CP được hướng dẫn thực hiện như sau:
- Mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền
công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi bị mất việc
làm hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức.
- Trưòng hợp những tháng cuối cùng trước khi thất nghiệp, người lao động có
thời gian gián đoạn đóng bảo hiểm thất nghiệp do không thuộc đối tượng đóng
bảo hiểm thất nghiệp theo quy định thì 6 tháng liền kề để tính mức trợ cấp thất
nghiệp là bình quân của 6 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trước khi người lao
động mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp
luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức.
* Thời gian hưởng trợ cấp BHTN:
- Ba tháng, nếu có từ đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng bảo
hiểm thất nghiệp;
- Sáu tháng, nếu có từ đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng
đóng bảo hiểm thất nghiệp;
- Chín tháng, nếu có từ đủ bảy mươi hai tháng đến dưới một trăm bốn mươi
bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
- Mười hai tháng, nếu có từ đủ một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp trở lên.
1.3.2. Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam và sự cần thiết của BHTN:
a, Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam.
Tỷ lệ thất nghiệp tính chung cho lực lượng lao động ở nước ta trong thời gian
qua là thấp.Tỷ lệ thất nghiệp năm 2003 là 2,25%, 3 năm tiếp theo có xu hướng
giảm đi nhưng không dáng kể, và đến năm 2007 tăng lên 2,52%.Tại cuộc họp báo
ngày 31/12/2010, Tổng cục thống kê cho biết, lực lượng lao động trong độ tuổi
của nước ta năm 2010 khoảng 46,21 triệu người, tăng 2,12% so với năm 2009.
Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 là 2,88%
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2010 là 4,43%, giảm 0,17%. Tỷ lệ thất
nghiệp khu vực nông thôn là 2,27%, tăng 0,02% so với năm ngoái.
Bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2010 của lao động trong độ
tuổi là 4,5%, giảm 1,11% so với 2009.
Trong đó, khu vực thành thị là 2,04%, giảm 1,29%, khu vực nông thôn là 5,47%,
giảm 1,04% so với 2009.
Sở dĩ tỷ lệ thất nghiệp chung của lực lượng lao động thấp, là do nước ta có tới
khoảng 76% lực lượng lao động làm việc ở nông thôn. Phần lớn họ là nông dân
- và các hộ lao động cá thể nhỏ, nên hầu như ít có khả năng xảy ra thất nghiệp.
Còn lại chỉ có khoảng 17% lao động làm việc trong khu vực làm công ăn lương là
có khả năng xảy ra thất nghiệp. Chính vì vậy, xét về tỷ lệ thất nghiệp tính riêng
cho khu vực thành thị và nông thôn,tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao hơn nhiều so
với tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn.
Thất nghiệp không chỉ là sự lãng phí mà còn làm cho thu nhập, sức mua có khả
năng thanh toán của dân cư thấp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế trong
nước, cũng như việc “gọi” các nhà đầu tư nước ngoài. Thất nghiệp làm cho tỉ lệ
nghèo cao và sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục gia tăng. Thất nghiệp cũng làm phát
sinh nhiều tệ nạn xã hội do “nhàn cư vi bất thiện”, trở thành vấn đề bức bối mà
nhiều gia đình cũng như cộng đồng phải tốn nhiều tiền của, công sức để khắc
phục.
b, Sự cần thiết của BHTN:
Khi người lao động bị mất việc làm thì họ bị mất nguồn thu nhập từ lao động.
Vì vậy, một trong những giải pháp tích cực là đầu tư để tạo ra chỗ làm việc
mới. Tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng có thể làm được mà nhiều khi
bơm thêm tiền vào nền kinh tế vốn đang không mạnh có thể lại dẫn đến lạm
phát và khủng hoảng kinh tế, càng làm trầm trọng hơn tình trạng thất nghiệp. Có
một giải pháp khác để bảo vệ người lao động tránh được những hụt hẫng khi bị
mất việc làm là xã hội cần tạo cho họ một khoản thu nhập bù đắp khoản thu
nhập bị mất thông qua bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ giúp góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho
người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc.
Chỉ riêng trong năm 2010, ở Việt Nam mức thu bảo hiểm thất nghiệp đạt 4.800
tỷ đồng. Tổng số người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 6,6
triệu người. Ngoài ra, đang có tới 190.000 người tiếp tục đăng ký tham gia bảo
hiểm thất nghiệp và 156.000 người đã có quyết định được hưởng bảo hiểm thất
nghiệp.
1.4. Bảo hiểm thương mại:
1.4.1. Bảo hiểm tài sản:
a,Khái niệm: Bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm mà đối tượng là giá trị tài
sản. Bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm ra đời từ lâu, với mục đích bảo vệ
tình hình tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi không may tài sản
của họ bị tổn thất, mất mát vì nhiều lý do khác nhau.
b,Các sản phẩm bảo hiểm tài sản:
(1) Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt:
Là nghiệp vụ bảo hiểm những thiệt hại do cháy và các rủi ro tương tự khác hay
các rủi ro đặc biệt như: động đất,sóng thần,núi lửa…gây ra cho các đối tượng bảo
hiểm.
* Đối tượng áp dụng: Bất động sản: Nhà cửa,máy móc,thiết bị…thuộc loại hình
sản xuất kinh doanh hay công trình xây dựng. Các động sản : tài sản liên quan đến
người được bảo hiểm và các tài sản,hàng hoá khác.
- (2) Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản: áp dụng với tài sản có trên và trong phạm vi
thuộc quyền sở hữu, quản lý, trông nom,, kiểm soát của người được bảo hiểm
(3) Bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp: Áp dụng với tài sản, thời gian gián đoạn
kinh doanh do các thiệt hại về tài sản
(4) Bảo hiểm hoả hoạn nhà tư nhân: Áp dụng với nhà ở tư nhân và mọi tài sản
thuộc quyền sở hữu, sử dụng, trông coi, kiểm soát của Người được Bảo hiểm.
(5) Bảo hiểm tiền:
* Đối tượng áp dụng
Tiền mặt, ngân phiếu, các loại tiền tệ, giấy tờ có giá, séc, phiếu chuyển tiền, các
loại tem thư hiện hành, thẻ tín dụng, hóa đơn bán hàng, tem thu nhập, công trái,
hối phiếu, giấy hẹn trả tiền, tem và phiếu miễn thuế hoặc các chứng từ đền bù
hoặc các công cụ có thể đổi thành tiền, tất cả thuộc sở hữu của Người được
bảo hiểm hoặc được Người được bảo hiểm thừa nhận trách nhiệm.
(6) Bảo hiểm trộm cướp:
* Đối tượng áp dụng:Tài sản để trong nhà hoặc phần ngôi nhà.
(7) Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau mọi rủi ro tài sản:
* Đối tượng áp dụng: Các đơn vị sản xuất kinh doanh
(8) Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau hoả hoạn và rủi ro đặc biệt: áp dụng với
các đơn vị sản xuất kinh doanh
(9) Bảo hiểm mọi rủi ro văn phòng:
* Đối tượng áp dụng: Toà nhà và tài sản bên trong toà nhà
1.4.2. Bảo hiểm con người:
a, Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm con người:
Con người là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội, nhưng trong quá trình
lao động sản xuất do tiến bộ khoa học hiện đại và tác động của môi trường làm
việc, con người không tránh khỏi những rủi ro tai nạn ốm đau già yếu, mất việc
làm … vẫn luôn tồn tại và tác động đến đời sống con người. Để khắc phục hậu
quả của rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống con người, đă có nhiều biện pháp
được áp dụng như: phòng tránh cứu trợ tiết kiệm … nhưng bảo hiểm luôn được
đánh giá là một trong những biện pháp hiệu quả kịp thời giúp người lao động có
thể góp phần đảm bảo cuộc sống của họ khi những rủi ro đó xảy ra.
BHYT,BHXH thực chất cũng là bảo hiểm con người và đã xuất hiện từ lâu, song
phạm vi đảm bảo cho các rủi ro vẫn còn quá hẹp.Con người vẫn luôn quan tâm
đến những vấn đề khác nảy sinh trong cuộc sống. Chẳng hạn như :Xã hội ngày
càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì người ta càng có
điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Ngoài BHYT BHXH các dịch vụ
bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại ra đời là hết sức cần thiết
nhằm đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Bảo hiểm con người là một trong ba loại hình của BHTM, là hình thức bổ sung
cho BHXH BHYT nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho mọi thành viên trong xã
hội những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với than thển, tính mang, sự giảm sút hoặc
mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia
.b) Tác dụng của bảo hiểm con người:
- Thứ nhất, góp phần ổn định đời sống nhân dân, là chỗ dựa tinh thần cho người
được bảo hiểm.Tham gia bảo hiểm con người sẽ phần nào giải quyết được
những khó khăn do rủi ro gây ra. Công ty bảo hiểm sử dụng quỹ bảo hiểm để trợ
cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để
họ ổn định tài chính và đời sống từ đó góp phần ổn định và phát triển sản xuất
kinh doanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ hai, góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các doanh
nghiệp, tạo lập mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Tùy theo đặc điểm ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh các chủ
doanh nghiệp thường mua bảo hiểm sinh mạng bảo hiểm tai nạn… cho người
làm công và những người chủ chốt trong doanh nghiệp nhằm đảm bảo cuộc
sống và tạo ra sự lôi cuốn gắn bó ngay cả trong những lúc doanh nghiệp gặp khó
khăn. Tránh cho doanh nghiệp sự bất ổn về kinh tế khi mất người làm công chủ
chốt.
Thứ ba, bảo hiểm con người còn là một công cụ hữu hiệu để huy động những
nguồn vốn tiền mặt nhàn rỗi ở các tầng lớp dân cư trong xã hội. Quỹ bảo hiểm
được hình thành từ sự đóng góp dưới hình thức phí bảo hiểm của ngưới tham gia
bảo hiểm. Mỗi người tham gia chỉ phải đóng một khoản tiền nhỏ,số tiền này
được công ty tập hợp lại trong quỹ bảo hiểm khi có càng nhiều người tham gia
bảo hiểm thì quy mô của quỹ ngày càng tăng lên. Điều này tạo điều kiện quan
trọng để công ty bảo hiểm tạo nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế.
Thứ tư, góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: tạo thêm công
ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo
ra một nếp sống đẹp…
Thứ năm, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước.Hoạt động đầu tư của các
công ty bảo hiểm tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát triển làm tăng
them giá trị sản lượng cho các ngành, từ đó tăng nguồn đóng góp cho ngân sách
nhà nước.Mặt khác cũng nhờ có bảo hiểm mà ngân sách không phải trợ cấp khắc
phục hậu qủa của những rủi ro bất ngờ(trừ những trường hợp rủi ro có tính
thảm họa và xã hội rộng lớn), do đó ngân sách nhà nước càng có thêm điều kiện
để phát triển kinh tế xã hội.
c, Bảo hiểm nhân thọ:
- Khái niệm: Bảo hiểm nhân thọ là một hợp đồng giữa một cá nhân và một
công ty bảo hiểm nhân thọ để bảo hiểm cho bản thân mình hoặc người thân,
hoặc giữa một tổ chức với công ty bảo hiểm nhân thọ để bảo hiểm cho nhân
viên của mình với mục đích là đảm bảo an toàn tài chính cho người tham gia bảo
hiểm.
- Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:
+ Bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp tử vong
Bảo Hiểm Tử Kỳ: Bảo kiểm tử kỳ là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho
trường hợp Người được bảo hiểm tử vong trong một thời hạn nhất định, theo đó
Công ty bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho Người thụ hưởng, nếu Người
được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được thỏa thuận trong Hợp đồng. Trên cơ
- sở Số tiền bảo hiểm trên một đồng phí bảo hiểm phải trả, để hướng tới Quyền
lợi bảo hiểm tử vong cao thì mua bảo hiểm tử kỳ là cách cho phép phải trả phí
bảo hiểm thấp nhất.
Bảo Hiểm Trọn Đời : Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho
trường hợp Người được bảo hiểm tử vong vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt
cuộc đời của người đó. Loại hình này đem lại sự bảo đảm trọn đời cho người
được bảo hiểm trên phí bảo hiểm định kỳ cố định.
+ Bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp sống:
Bảo Hiểm Sinh Kỳ : Bảo hiểm sinh kỳ chỉ trả quyền lợi bảo hiểm vào ngày đáo
hạn nếu Người được bảo hiểm còn sống.
Bảo Hiểm Niên Kim: Bảo hiểm niên kim là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho
trường hợp Người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời
hạn đó Công ty bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho Người thụ hưởng
theo thỏa thuận trong Hợp đồng bảo hiểm. Có hai thời kỳ: thời kỳ tích lũy (khi
phí bảo hiểm được phân bổ vào tài khoản) và thời kỳ niên kim (khi Công ty bảo
hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm).
+ Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: Bảo hiểm hỗn hợp là loại hình bảo hiểm nhân
thọ có quyền lợi bảo hiểm được chi trả một lần vào cuối thời hạn hợp đồng
(ngày đáo hạn) hoặc khi Người được bảo hiểm tử vong. Thời gian đáo hạn điển
hình thường là 10, 15, 20 năm hoặc đến một giới hạn tuổi nhất định.
d, Bảo hiểm con người phi nhân thọ:
- Đặc điểm chủ yếu: Hậu quả của rủi ro mang tính chất thiệt hại, thường quy
định độ tuổi cho người được BH, thời hạn BH ngắn và thường triển khai kết
hợp với nghiệp vụ BH khác trong cùng một hợp đồng BH
- Một số nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ :
+ Bảo hiểm tai nạn con người 24/24
Mục đích: Góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân người bị tai nạn và gia đình
.Tạo điều kiện thuận lợi cho những người làm ở những ngành nghề thường xảy
ra tai nạn được BH như khai thác, xây dựng…
Đối tượng tham gia: Người từ 18 đến 60 tuổi, thể chất và tinh thần bình thường
Phạm vi BH: Tai nạn chết người hoặc gây thương tật
Trường hợp loại trừ: Người được BH vi phạm pháp luật, hành động cố ý gây tai
nạn, ảnh hưởng của chất kích thích, ngộ độc, trúng gió, động đất, núi lửa, nhiễm
phóng xạ và chiến tranh.
Thời hạn BH: thường là 1 năm
+ Bảo hiểm tai nạn hành khách :
Mục đích : Góp phần ổn định cuộc sống của hành khách và gia đình họ. Tạo điều
kiện cho chính quyền địa phương khắc phục hậu quả kịp thời
Đối tượng BH: tính mạng và tình trạng sức khoẻ của hành khách trên phương
tiện giao thông kinh doanh chuyên chở hành khách
Phạm vi BH: rủi ro, thiên tai, tai nạn bất ngờ
Thời hạn hiệu lực: thời gian hợp lý để thực hiện hành trình
- Phí BH tính vào giá vé :Phí BH tính trên 1km/ hành khách.Hoặc phí BH tính theo
tỷ lệ trên giá cước vận tải.
1.4.3. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
* Khái niệm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một loại chính sách mà là mua để
cung cấp bảo hiểm cho dân sự quy định theo pháp luật . Chính sách bảo hiểm
trách nhiệm dân sự có sẵn trong nước như Anh và được mua bởi các câu lạc bộ
khác nhau, thể thao các đội và các chuyên gia.. Một chính sách sẽ phải trả cho
thiệt hại là kết quả của việc thực hiện các yêu cầu bảo hiểm và thực hiện
chống lại một bảo hiểm, trong khi chính sách có hiệu lực. Điều này bao gồm yêu
cầu trách nhiệm dân sự xảy ra như là kết quả của bất kỳ hoạt động nghề
nghiệp.
* Bảo hiểm trách nhiệm (Liability Coverage): Có bảo hiểm trách nhiệm dân sự
bảo vệ từ nhiều loại trách nhiệm như trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản
phẩm và trách nhiệm nghề nghiệp. Công trách nhiệm bao gồm thiệt hại về tài
sản phát sinh trong hoạt động của một nhóm hoặc tổ chức. Sản phẩm trách
nhiệm bao gồm thương tích hay thiệt hại mà các kết quả từ sản phẩm đã được
bán ra. Chuyên nghiệp bồi thường bao gồm các lỗi và thiếu sót như đưa ra lời
khuyên xấu hoặc không hành động khi thích hợp.
* Các loại Khiếu nại (Types of Claims): Bảo hiểm cho nhiều loại yêu cầu được
cung cấp bởi bảo hiểm trách nhiệm dân sự mà đã được mua bởi một doanh
nghiệp hoặc nhóm. Một loại bao gồm các yêu cầu bồi thường thương tích duy trì
bởi một bên thứ ba, là kết quả của thiết bị bị lỗi. Một loại yêu cầu bồi thường là
khi một cá nhân đã bị thương khi theo hướng dẫn hoặc tư vấn. Khiếu nại cũng
có thể xảy ra khi gia súc thoát và gây thương tích khi cửa của một địa chủ đã
được mở lại.
* Cung cấp phạm vi bảo hiểm (Coverage Provided): Các chi phí thanh được cung
cấp bởi một chính sách bảo hiểm trách nhiệm dân sự được chứa trong phần trách
nhiệm dân sự của chính sách. Điều này bao gồm các loại hình trách nhiệm pháp
lý đã được bảo hiểm và những gì loại thiệt hại được trả bởi chính sách. Thiệt
hại bao gồm tuyên bố rằng kết quả từ hoạt động kinh doanh, bảo hiểm và tuyên
bố rằng được thực hiện theo pháp luật dân sự trừ trường hợp loại trừ về chính
sách. Bảo hiểm này cũng cung cấp cho bất kỳ chi phí pháp lý xảy ra.
* Các loại trách nhiệm pháp lý (Types of Liability): Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
bao gồm trách nhiệm có thể xảy ra cho một bên thứ ba hoặc là kết quả của một
hành động của bảo hiểm. Trách nhiệm pháp lý có thể xảy ra như là kết quả của
thương tích đã được duy trì bởi bất kỳ người nào hoặc bên thứ ba và tài sản của
mình. sự cố khác liên quan đến trách nhiệm xâm phạm và phiền toái. Hành động
của người được bảo hiểm có thể bao gồm vu khống hoặc phỉ báng đó không
phải là cố ý và xảy ra từ những lời khuyên hoặc hướng dẫn được cung cấp bởi
một chuyên nghiệp.
* Loại trừ (Exclusions): Doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp bảo hiểm trách nhiệm
dân sự thường có nhiều loại trừ được bao gồm về chính sách một. Loại trừ một
chính sách có thể bao gồm bất kỳ kiến thức trước khi có thể dẫn đến một yêu
- cầu bồi thường và bất kỳ khiếu nại được thực hiện bởi các nhân viên của một
doanh nghiệp loại trừ các hành vi khác bao gồm cam kết cố ý của người được
bảo hiểm và tuyên bố từ một tổ chức được kiểm soát bởi đồng bảo hiểm này.
2, Vai trò chung của các loại hình bảo hiểm:
2.1, Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế:
- Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất: Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất là
tác dụng chủ yếu của bảo hiểm và cũng xuất phát chính từ nhu cầu này mà bảo
hiểm đã ra đời. Nói đến bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có tổn
thất xảy ra, và vai trò của các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc
biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro,
hoặc bồi thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Khi
có tổn thất xảy đến với đối tượng được bảo hiểm thì nhiệm vụ cơ bản của bảo
hiểm là khắc phục những hậu quả đó, ổn định đời sống và quá trình sản xuất –
kinh doanh. Theo số liệu mới nhất của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, toàn thị
trường bảo hiểm đã giải quyết bồi thường 3.540 tỉ đồng, chiếm 35,9% doanh
thu, trong đó, các doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao gồm: AIG 70,4%, Bảo
Minh 57,8%, QBE 49%.
Ví dụ: Ngày 10/03/2011, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội (MIC) đã tiến
hành chi trả tiền bảo hiểm cho Công ty TNHH Dược phẩm Dược Đông Á, với
tổng số tiền gần 27 tỷ đồng, giúp khách hàng nhanh chóng ổn định sản xuất kinh
doanh. Ngày 20/04/2009, MIC đã ký hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro
đặc biệt cho kho dược phẩm của Công ty TNHH Thương mại Dược phẩm Đông
Á, địa chỉ tại Số 13, Lô 13 Trung yên, Trung Hòa, Nhân chính, Hà Nội với tổng số
tiền bảo hiểm là 40 tỷ đồng. Ngày 28/05/2009, Kho của Công ty Dược Phẩm
Đông Á bị cháy, Cán bộ giám định của MIC đã có mặt tại hiện trường trong vòng
24 giờ ngay sau khi đám cháy xảy ra hướng dẫn khách hàng cung cấp các thông
tin để việc hoàn thiện hồ sơ bồi thường được thực hiện trong thời gian ngắn
nhất. Ngay sau khi Công ty Dược Phẩm Đông Á cung cấp đầy đủ hồ sơ bồi
thường, MIC đã tiến hành chi trả bồi thường đầy đủ, đúng lúc và kịp thời cho
khách hàng theo đúng qui định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, đồng thời, trong
thời gian chờ hòan thiện hồ sơ bồi thường, MIC cũng đã nhiều lần tạm ứng bồi
thường với số tiền rất lớn để giúp khách hàng ổn định được công việc sản xuất
và kinh doanh.
- Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất: Dựa trên cơ sở các rủi ro
xảy ra hàng năm, các tổ chức kinh doanh bảo hiểm tiến hành nghiên cứu các rủi
ro, thống kê các tai nạn, tổn thất, từ đó xác định các nguyên nhân chủ quan và
khách quan dẫn đến thiệt hại. Những nghiên cứu này giúp các công ty bảo hiểm
có thể đề ra được các biện pháp kiểm soát ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu nhất nhằm
giảm đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra. Các công ty bảo hiểm cũng luôn
đôn đốc các cá nhân, tổ chức tham gia mua bảo hiểm tăng cường các biện pháp
bảo vệ tài sản của chính mình. Đồng thời, họ cũng tuyên truyền, giáo dục mọi
tầng lớp nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ an toàn giao thông, an toàn lao
động… Do bảo hiểm không có nghĩa là đổ hết trách nhiệm cho người bảo hiểm
- nên ở các cơ quan, xí nghiệp thường có các qui tắc, qui định cho an toàn lao động,
các qui định về phòng cháy chữa cháy, các thiết bị chống trộm, báo cháy…
- Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu
tư vào những lĩnh vực khác: Việc tự khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ
chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập quỹ dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng
các quỹ dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có khả năng sinh lợi lớn nếu
đem đầu tư. Do vậy, người ta có thể đóng cho các công ty bảo hiểm một khoản
nhỏ hơn thay vì bỏ một khoản tiền lớn lập quỹ, và có thể dùng tiền đó nâng cao
đời sống hoặc đầu tư kinh doanh. Bảo hiểm đã trở thành lựa chọn tối ưu trong
môi trường đầy rủi ro hiện nay, đảm bảo mức độ an toàn tương đối về khả năng
tài chính khi xảy ra rủi ro mà vẫn không gây đọng vốn. Ngày nay, các công ty bảo
hiểm là một kênh huy động vốn không thể thiếu của nền kinh tế và đang ngày
càng được khai thác một cách hiệu quả, do phạm vi hoạt động rộng, các loại
hình bảo hiểm phong phú. Thông qua các hợp đồng bảo hiểm, các công ty bảo
hiểm đã tập trung lượng tiền phân tán rải rác thành những quĩ tiền tệ khá lớn.
Quĩ bảo hiểm đã trở thành một định chế tài chính trung gian quan trọng trên thị
trường vốn. Đặc biệt, thông qua loại hình bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm đã
khuyến khích các tầng lớp nhân dân tăng cường tiết kiệm và qua đó đã thu hút
được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi để đầu tư.
=> Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, đến cuối năm 2008, ngành bảo hiểm
đã đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 57.000 tỷ đồng, tăng hơn 10.000 tỷ đồng so
với năm 2007. Năm 2009, thị trường bảo hiểm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn
định và đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế với tỷ trọng doanh
thu/GDP khoảng 2,3%. Ngành bảo hiểm cũng đã huy động đầu tư trở lại nền
kinh tế khoảng 69.000 tỷ đồng, tăng xấp xỉ 12.000 tỷ đồng so với năm 2008.
Năm 2010, tổng doanh thu bảo hiểm đạt 30.844 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu bảo
hiểm phi nhân thọ đạt 17.052 tỷ đồng, bảo hiểm nhân thọ 13.792 tỷ đồng. Các
DNBH đã đầu tư trở lại nền kinh tế hơn 92.000 tỷ đồng.
Nguồn vốn đầu tư này không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, mà còn
giúp nguồn bảo tức của khách hàng mua bảo hiểm được cao hơn.
- Tăng thu cho ngân sách nhà nước: Qua quá trình phát triển lâu dài, bảo hiểm tự
thân nó đã trở thành một ngành kinh doanh độc lập, có hạch toán thu chi, lỗ lãi rõ
ràng. Vì vậy, các công ty bảo hiểm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà
nước như mọi doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế. Hàng năm, thông
qua việc nộp thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách
Nhà nước. Bên cạnh đó, bảo hiểm cũng góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông
qua việc thực hiện tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo vệ tối đa
tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc. Điều này
giúp Nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp cho những tổn thất
như phải xây dựng lại đường xá, cầu cống, nhà xưởng, công trình… Ngoài ra,
một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân
và tổ chức mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước, góp phần tiết
kiệm một lượng ngoại tệ lớn cho ngân sách Nhà nước.
- - Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống: Khi kinh doanh ngày càng
phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta càng có nhu cầu
được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi trường kinh doanh cũng như môi
trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Những rủi ro do thiên nhiên
như bão lũ, hạn hán, sóng thần, cháy rừng tự nhiên… đang trở nên hết sức phức
tạp, khó dự đoán do môi trường thế giới đang thay đổi theo chiều hướng xấu.
Chiến tranh, xung đột, khủng bố, đình công… không những không giảm bớt mà
lại ngày càng diễn biến phức tạp ở nhiều nơi trên thế giới. Trong tình hình như
vậy, bảo hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm lý
an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống cho con người.
2.2,Vai trò của bảo hiểm cho việc an sinh xã hội:
2.2.1. Tìm hiểu chung về an sinh xã hội
An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội (XH) cung cấp cho những thành viên
trong cộng đồng qua các biện pháp phân phối thu nhập và bảo vệ XH cho các
thành viên lâm vào hoàn cảnh yếu thế trong XH, thông qua các biện pháp thu
nhập và dịch vụ XH.
2.2.1.1. Bản chất của An sinh xã hội:
ASXH là một chính sách xã hội có mục tiêu cụ thể và nó thường được cụ thể
hóa bằng pháp luật, chương trình quốc gia, đặc biệt nó còn tồn tại ngay trong
tiềm thức của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc. ASXH là một cơ chế công
cụ để phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng XH. ASXH là
sự che chắn, bảo vệ cho các thành viên trong XH trước các rủi ro và biến cố bất
lợi xảy ra thông qua các lưới ASXH. ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo và nhân
văn cao đẹp của con người trong mọi thời đại.
2.2.1.2. Vai trò của An sinh xã hội:
ASXH góp phần đảm bảo công bằng XH. Vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố
động lực cho sự phát triển kinh tế XH. Khơi dậy tinh thần đoàn kết và giúp đờ
lẫn nhau trong cộng đồng XH. Là chất xúc tác giúp các nước các dân tộc tìm hiểu
và xích lạ gần nhau, không phân biệt các thể chế chính trị, màu da, văn hóa.
2.2.1.3.Hệ thống an sinh xã hội:
Bao gồm hệ thống ưu đãi xã hội ,hệ thống bảo trợ xã hội và hệ thống bảo hiểm
xã hội.
Hệ thống bảo hiểm xã hội: Hệ thống bảo hiểm xã hội sẽ bảo đảm quyền lợi
cho người lao động trên cơ sở đóng góp của người lao động và người sử dụng
lao động. Theo phương thức đó, người lao động phải có đóng góp vào quỹ
BHXH mới được quyền lợi BHXH. Còn mối quan hệ giữa mức đóng và quyền
lợi được hưởng lại chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc như: nguyên tắc đoàn
kết tương trợ chia sẻ rủi ro (thể hiện ở chính sách BHYT, chế độ ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp...), nguyên tắc tương quan giữa đóng
và hưởng có sự can thiệp nhờ cách thức phân phối lại mang tính xã hội (chế độ
hưu trí, tử tuất). Còn thực chất của BHYT là chế độ khám chữa bệnh nằm trong
chính sách BHXH, nhưng do lịch sử hình thành và phát triển ở nước ta có sự khác
biệt và theo thói quen nên chúng ta thường gọi là chính sách BHYT.
- 2.2.2. Vai trò của các chính sách bảo hiểm cho việc an sinh xã hội:
- Thứ nhất, thực hiện chính sách BHXH, BHYT nhằm ổn định cuộc sống người
lao động, trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro: ốm đau, tai nạn lao động -
bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp... sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng
như sớm có việc làm....
Theo phương thức BHXH, BHYT, người lao động khi có việc làm và khỏe mạnh
sẽ đóng góp một phần tiền lương, thu nhập vào quỹ dự phòng. Quỹ này hỗ trợ
người lao động khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ và chăm sóc con cái, khi không
làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định cuộc sống của người lao động và gia
đình họ. Do vậy, hoạt động BHXH, BHYT, một mặt, đòi hỏi tính trách nhiệm
cao của từng người lao động đối với bản thân mình, với gia đình và đối với cộng
đồng, xã hội theo phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông
qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các
thành viên trong xã hội, giữa các thế hệ kế tiếp nhau trong một quốc gia, tạo
thành một khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong một thể chế chính trị - xã
hội bền vững.
Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng góp BHXH, BHYT cho
người lao động. Nếu theo nhìn nhận ban đầu, việc đóng góp BHXH, BHYT cho
người lao động có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận của doanh
nghiệp. Nhưng thực chất, về lâu dài, phương thức BHXH, BHYT đã chuyển giao
trách nhiệm bảo vệ người lao động khi gặp rủi ro về phía xã hội, rủi ro được
điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ sử dụng lao động bớt những khó
khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất,
kinh doanh. Đối với nước ta, nguồn lao động với trình độ chuyên môn cao, người
lao động có mức thu nhập ở mức bình quân chung toàn xã hội là chủ yếu thì biện
pháp điều tiết thu nhập mang tính cộng đồng là rất cần thiết. Thực tế cho thấy,
nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy sản, hải sản; da
giày; dệt may... sử dụng nhiều lao động, nhất là doanh nghiệp có nhiều lao động
nữ đều rất coi trọng chính sách BHXH, BHYT để bảo vệ và duy trì nguồn lao
động của doanh nghiệp mình.
Trong hoạt động BHXH, BHYT, Nhà nước tiến hành xây dựng chính sách, chế
độ, tổ chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt quyền
và nghĩa vụ của người tham gia BHXH, BHYT. Như vậy nhà nước giữ vai trò
quản lý về BHXH, BHYT, bảo hộ cho quỹ BHXH mà không phải chi từ ngân
sách nhà nước cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách BHXH, BHYT là một bộ
phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối quan hệ
giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh
tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong
suốt quá trình.
Chính sách BHYT với mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân đã tạo điều kiện cho
mọi người dân giảm bớt gánh nặng chi phí khi khám chữa bệnh do ốm đau, tai
nạn, tạo sự bình đẳng trong khám chữa bệnh BHYT.
- - Thứ hai, thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT, nhất là chế độ hưu trí, góp
phần ổn định cuộc sống của người lao động khi hết tuổi lao động hoặc không
còn khả năng lao động.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, người lao động tham gia đóng BHXH
từ 20 năm trở lên khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì được hưởng
lương hưu hoặc trợ cấp hằng tháng. Với nguồn lương hưu và trợ cấp BHXH,
người cao tuổi có thu nhập ổn định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày.
Hiện nay, cả nước đã có khoảng 2,5 triệu người hết tuổi lao động đang hưởng
lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng với số tiền chi trả từ quỹ BHXH hàng
nghìn tỉ đồng mỗi tháng.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi chính sách BHXH được thực hiện, cùng với sự
phát triển kinh tế, mức lương hưu cũng không ngừng được điều chỉnh cho phù
hợp với mức sống chung của toàn xã hội. Vào các thời điểm tăng mức lương tối
thiểu chung cũng như việc xem xét chỉ số giả cả, Nhà nước đều có sự điều chỉnh
lương hưu một cách hợp lý. Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh cho
phù hợp với mức sống chung toàn xã hội tại thời điểm hưởng lương hưu đã bảo
đảm cuộc sống của người nghỉ hưu, tạo sự an tâm, tin tưởng của người về hưu
sau cả cuộc đời lao động. Tương tự như vậy, các quyền lợi về BHYT, về chế
độ ốm đau, chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; mức trợ cấp tuất một
lần... cũng được cải thiện rõ rệt.
- Thứ ba, thực hiện chính sách BHXH, BHYT góp phần ổn định và nâng cao chất
lượng lao động, bảo đảm sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động
trong các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Chính sách BHXH, BHYT hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng”
đã tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của người lao động về chính
sách BHXH, BHYT. Khi đó, mọi người lao động làm việc ở các thành phần kinh
tế, các ngành nghề, địa bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được
tham gia thực hiện các chính sách BHXH, BHYT. Phạm vi đối tượng tham gia
BHXH, BHYT không ngừng được mở rộng đã thu hút hàng triệu người lao động
làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác thực
hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, BHYT, tạo sự an tâm, tin tưởng và yên tâm
lao động, sản xuất, kinh doanh.
Người lao động tham gia BHXH, BHYT khi ốm đau sẽ được khám chữa bệnh và
được quỹ BHYT chi trả phần lớn chi phí; được nhận tiền trợ cấp khi ốm đau
không đi làm được, được nghỉ chăm con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai,
được nghỉ khi sinh đẻ và nuôi con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai
sản; khi bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp
do giảm khả năng lao động do tai nạn, bệnh nghề nghiệp gây ra. Ngoài ra, người
lao động còn được nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ
hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực. Khi người lao động mất việc làm
sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và được giới thiệu việc làm hoặc gửi đi học
nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm mới.
- Với những quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH, BHYT đã góp
phần thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể
lực cho người lao động trong suốt quá trình lao động, sản xuất. Việc được tham
gia BHXH, BHYT khi đang làm việc và được hưởng lương hưu sau này đã tạo ra
cho người lao động sự phấn khởi, tâm lý ổn định, an tâm vào việc làm mà họ
đang thực hiện. Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi tuyên truyền quảng cáo
tuyển dụng lao động, thì tiêu thức được tham gia BHXH, BHYT cũng là một
quyền lợi quan trọng thu hút được nhiều lao động.
Sự an tâm của người lao động cũng như việc bảo vệ sức lao động của họ thông
qua chính sách BHXH, BHYT đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động
vào nền sản xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Thứ tư, BHXH, BHYT là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc
phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp
dân cư, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội bền
vững.
Trên thị trường lao động, “tiền lương là giá cả sức lao động” được hình thành tự
phát căn cứ vào quan hệ cung cầu, vào chất lượng lao động cũng như các điều
kiện khung mà trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý thông qua những quy
định về mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động cần thiết. Quá trình
hình thành tiền lương theo thỏa thuận giữa chủ sử dụng lao động và người lao
động là sự phân phối lần đầu và phân phối trực tiếp cho từng người lao động.
Do vậy, người lao động có tay nghề cao, có nghề nghiệp thích ứng với nhu cầu
của xã hội sẽ có thu nhập cao. Đó là sự hợp lý và khuyến khích làm giàu chính
đáng.
Sau khi đã thực hiện thuế thu nhập, Nhà nước sẽ tiến hành phân phối lại thông
qua chính sách BHXH, BHYT. Khi đó, người có năng lực hơn, nhận được tiền
lương cao hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp những người “yếu
thế” hơn trong xã hội. Một bộ phận lao động khác do gặp phải rủi ro trong cuộc
sống như về sức khỏe, về năng lực, về hoàn cảnh gia đình... có việc làm và thu
nhập thấp hơn sẽ nhận được các quyền lợi BHXH, BHYT để duy trì cuộc sống.
Bên cạnh đó, chế độ hưu trí, tử tuất với nguyên tắc tương đồng giữa mức đóng
và mức hưởng đã khuyến khích người lao động khi làm việc có thu nhập cao và
đóng góp ở mức cao, với thời gian dài thì sau này sẽ được hưởng tiền lương hưu
với mức cao, an tâm nghỉ ngơi khi tuổi già.
Bảo hiểm xã hội, BHYT đều được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, có
nghĩa là người tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, BHYT thì người đó mới được
hưởng quyền lợi về BHXH, BHYT. Như vậy, nguồn để thực hiện chính sách là
do người lao động đóng góp, Nhà nước không phải bỏ ngân sách ra nhưng vẫn
thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài.
3, Thực trạng phát triển và giải pháp cho bảo hiểm Việt Nam:
3.1. Thực trạng phát triển:
- Tính đến hết tháng 6/2010, có
50 Doanh nghiệp Bảo hiểm
hoạt động trên thị trường
trong đó bao gồm 27 Doanh
nghiệp Bảo hiểm phi nhân
thọ, 11Doanh nghiệp Bảo
hiểm nhân thọ, 10 Doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm và
1 Doanh nghiệp tái bảo hiểm.
Hiện tại Bộ Tài chính đã chấp
nhận về nguyên tắc việc cấp
giấy phép thành lập và hoạt
động cho 01 Doanh nghiệp Bảo hiểm phi nhân thọ -Công ty Bảo hiểm Cathay
Việt Nam và 01 Doanh nghiệp Bảo hiểm nhân thọ - Công ty Bảo hiểm nhân thọ
Fubon Việt Nam.
Tổng doanh thu Phí bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt14.427 tỷ đồng, tăng
21% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó doanh thu phí bảohiểm phi nhân thọ ước
đạt 7.940 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2009, doanh thu phí bảo hiểm
nhân thọ ước đạt 6.487 tỷ đồng, tăng 14,39% so với cùng kỳ năm 2009. Đến cuối
năm 2010 doanh thu phí bảo hiểm toàn ngành đạt 30844 tỷ đồng,trong đó bảo
hiểm nhân thọ là 17052 tỷ,bảo hiểm nhân thọ 13792 tỷ đồng.
Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc đáo trên
cơ sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm - đầu tư bảo vệ, được công luận đánh
giá cao như sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người sử dụng thẻ ATM,
bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn nuôi và sản xuất thức ăn gia
cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo… Tốc độ tăng doanh thu phí của bảo hiểm
Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và khu vực.
Tốc độ tăng doanh thu bảo hiểm nhân thọ
Tốc độ tăng doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ
Một số công ty bảo hiểm tuy mới đi vào hoạt động nhưng cũng đã đạt được tốc
độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO… Vốn đầu tư cho hoạt
- động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả năng giữ lại phí bảo hiểm
trong nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui định của nhà nước về tái bảo
hiểm bắt buộc qua VINARE đã giúp mức phí giữ lại của toàn thị trường tăng
đều qua các năm. Tổng mức phí giữ lại chiếm khoảng 70% tổng phí bảo hiểm
gốc, giảm được một lượng không nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Theo
đánh giá của HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt
mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8-
10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển của các
DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn.
-Bảo hiểm nhân thọ: Tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ 6 tháng đầu năm
2010 ước đạt khoảng 6.487 tỷ đồng tăng 14,39%so với cùng kỳ năm 2009 (trong
đó tổng doanh thu phí của các sản phẩm bảo hiểm chính đạt 6.268 tỷ đồng tăng
14,4% so với cùng kỳ năm 2009).
Thị phần tổng doanh thu phí bảo hiểm của các doanhnghiệp về cơ bản không
khác biệt nhiều so với năm 2009: Prudential 38,9%, BảoViệt Nhân thọ 31,4%,
Manulife 10,5%, AIA 6,6%, Dai-ichi 6,3%, ACE 4,5%, KoreaLife 0,9%, Cathay
0,5%, Prevoir 0,3% và Great Eastern 0,1%. Đến nay sản phẩm chủ yếu của thị
trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vẫn là các sản phẩm hỗn hợp truyền thống
với 73% doanh thu khai khác mới và 87% số lượng hợp đồng chính có hiệu lực
tại cuối năm 2007. Về kênh phân phối,kênh phân phối qua đại lý đến nay đây
vẫn là kênh phân phối chính, đóng góp khoảng 99% doanh thu khai thác mới.
Bảo hiểm phi nhân
thọ:Doanh thu phí
bảo hiểm gốc trong
6 tháng đầu năm
2010 ước đạt 7.940
tỷ đồng, tăng 25%
so với cùng kỳ năm
trước. Trong đó có
25 DNBH tăng
trưởng về doanh
thu phí bảo hiểm
gốc;
3 DNBH giảm doanh thu phí bảo hiểm gốc là UIC, Bảo Tín và VIA.Các DNBH
lớn như Bảo Việt, PVI, Bảo Minh vẫn dẫn đầu thị trường:
Bảo Việt ước đạt1.871 tỷ đồng, chiếm 23,57% thị phần, giảm gần 2%; Bảo
Minh đạt 1.095 tỷ đồng chiếm 13,79%, tăng 0,18%. Một số nghiệp vụ chiến tỉ
trọng doanh thu lớn: dẫn đầu là nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, chiếm tỉ trọng
31,35%, doanh thu phí đạt 2.489 tỉ đồng, tăng gần 21% so với cùng kỳ năm
trước.Đứng thứ hai là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và thiệt hại, chiếm 25,57%,
doanh thu phí đạt 2.030 tỷ đồng, tăng 21,51% so với cùng kỳ năm trước.Thứ ba là
nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu và tách nhiện chủ tàu chiến tỉ trọng 12,19%, ước
nguon tai.lieu . vn