Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA SINH HỌC
TIỂU LUẬN
Môn: HIỆN TƯỢNG HỌC THỰC VẬT
Đề tài:
ỨNG DỤNG HIỆN TƯỢNG HỌC THỰC
VẬT VỚI NGHỀ NUÔI ONG MẬT
G iáo viên hướng dẫn Học viên thực hiện:
Lê Thị Hiền
Tiến sĩ : Lê Thị Trễ
Lê Tân Phú
Võ Quang Trung
Lớp: TVk20
Tháng 05 năm 2012
1
- Mục Lục
Phần I: Mở đầu ................................................................ ................................ 3
Phần II: Nội dung ............................................................................................. 4
1. Hiện tượng học thực vật là gì ? .................................................................... 4
1.1. Hiện tượng học thực vật ................................................................ ............ 4
1.2. Hiện tượng ra hoa ở thực vật .................................................................... 4
2. Ứng dụng hiện tượng học trong nghề nuôi ong mật ................................... 5
2.1. Một số hiểu biết về loài ong: ..................................................................... 5
2.2 Quá trình tạo mật ong: ............................................................................... 6
2.3 Thực vậ t cho mật hoa và phấn hoa: ........................................................... 7
2.4. Lịch nở hoa (loral calendars): .................................................................... 9
3. Quy trình và kỹ thuật nuôi ong mật ............................................................ 10
3.1. Phương thức nuôi ong : ............................................................................ 10
3.2. Kỹ thuật nuôi ong. ................................................................ .................... 11
3.2.1. Quy trình và kỹ thuật nuôi ong: ............................................................ 12
3.3. Kỹ thuật khai thác ................................................................................... 18
4.Thực trạng nghề nuôi ong mật ở Việt Nam: ................................................ 18
Phần III: Kết luận ......................................................................................... 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 24
2
- Phần I: Mở đầu
Nuôi ong là nghề truyền thống có từ lâu đời ở nước ta. Các sản phẩm từ
ong như mật ong, sữa ong chúa, phấn hoa... có giá trị dược liệu và kinh tế cao.
Ưu điểm của nghề nuôi ong là không tốn nhiều diện tích, vốn đầu tư ban đ ầu
không lớn và không tốn nhiều nhân lực. Khai thác lợi thế từ thiên nhiên, kết hợp
kinh nghiệm dân gian với khoa học kỹ thuật hiện đại, nhiều nông dân đã vươn
lên làm giàu bằng hình thức nuôi ong lấy, trong đó không ít người đã trở thành
tỷ phú sinh ra từ làng.
Ở nước ta nuôi ong đã xuất hiện từ lâu đời với nhiều hình thức khác nhau
như: nuôi ong trong hốc cây hoặc hốc đá tự nhiên, nuôi trong thùng... Song, mọi
phương thức nuôi ong kể trên đều mang tính chất thô sơ, năng suất thấp. Ngày
nay, việc áp dụng kỹ thuật nuôi trong thùng cải tiến có khung cầu di động là một
bước tiến nhảy vọt, đưa năng suất mật tăng gấp 5 - 10 lần. Với phương pháp này
có thể di chuyển đàn ong theo những mùa hoa nhằm tận dụng nguồn thức ăn từ
hoa của các rừng keo, tràm,cà phê, cây ăn quả, cây ngắn ngày... qua đó, đã tiết
kiệm được một khoản chi phí rất lớn..
Để có thể di chuyển đ àn ong như vậy người nuôi ong phải nắm bắt đ ược
những mùa hoa nở ở các vùng miền khác nhau, từ đó di chuyển đàn ong để lấy
được phấn hoa và mật hoa tốt nhất, đem lại năng suất chất lượng mật.
Chính vì vậy các chu kỳ hiện tượng và hiện tượng nở hoa ở thực vật được
xem là một trong những vấn đề chính rất được quan tâm và ứng dụng trong quá
trình nuôi ong. V à để có cái nhìn sâu hơn về việc vận dụng hiện tượng học trong
quá trình nuôi ong mật, chúng tôi chọn đề tài:
“Ứng dụng của hiện tượng học thực vật với nghề nuôi ong mật ”
3
- Phần II: Nội dung
1 . Hiện tượng học thực vật là gì ?
1 .1. Hiện tượng học thực vật
Là khoa học nghiên cứu sự sinh trưởng, sinh sản của thực vật trước sự
thay đổi khí hậu theo chu kì như: Sự ra lá, rụng lá, sự hình thành và phát triển nụ
hoa, quả, quả chín, phát tán hạt giống, thay đổi màu sắc lá ....và những hiện
tượng khác trong sự hình thành và biến đổi khí hậu theo mùa.
1 .2. Hiện tượng ra hoa ở thực vật
Trong thực tế mùa nào cũng có hoa. Mỗi lo ài thực vật nở hoa vào
những thời điểm khác nhau, tùy vào tập tính và đặc tính sinh học của mỗi loài.
Hoa chính là cơ quan sinh sản của thực vật có hoa. Khi bắt đầu chuyển sang
giai đoạn phát triển, cây tạo khối sơ khởi, rồi tạo nụ hoa, sau một thời gian hoa
nở báo hiệu hạt phấn chín và quá trình thụ phấn thụ tinh xảy ra.
Hoa nở thường không cùng một lúc, có cái trước, có cái sau, trải dài một
vài tuần, có nhiều loài kéo dài vài tháng, hay có loài hoa nở thành 2-3 mùa một
năm, để bảo đảm khi hạt chín sẽ đúng vào mùa mưa nhiều, nếu mùa mưa đến trể
hay sớm. Thông thường các cây công nghiệp, cây ăn trái có mùa hoa nở tập
trung.Thời gian ra hoa còn phụ thuộc vào sự nảy mầm của hạt. Cây phải ra hoa
vào mùa nào thì hạt mới có thể nảy mầm tốt và cây con đ ủ sức sống sót trong
mùa hạn.
Sự ra hoa của thực vật còn tùy vào thời tiết của mỗi vùng khác nhau, như
vùng ôn đới khác vùng nhiệt đới. Đặc biệt là các loài thực vật vùng nhiệt đới ở
miền Nam Việt Nam. Mỗi lo ài cây có mùa ra hoa và tạo quả khác nhau. Cây ăn
trái bản địa như xoài, mít, nhãn, chôm chôm, v.v. mà hạt không sống lâu đ ược
đều trổ hoa trong mùa Xuân đ ể trái chín vào đầu tới giữa mùa mưa.
H iện tượng ra hoa và hoa nở mang ý nghĩa quan trọng trong đời sống của
thực vật và hiện tượng hoa nở đã hình thành nên mối quan hệ không thể thiếu
giữa côn trùng hút mật và cây.
4
- 2. Ứng dụng hiện tượng học trong nghề nuôi ong mật
Nuôi ong được xem là một nghề đòi hỏi sự khéo léo, dày công chăm b ẵm
như trẻ nhỏ nhưng cũng không phải là quá khó khăn nếu người làm nghề thực sự
ham thích học hỏi và cần nhất là sự cần mẫn như chính loài ong. Không chỉ am
hiểu đặc tính của lo ài ong, người nuôi ong cũng cần phải có sự am hiểu về các
loài hoa, mùa hoa nở, mùa con ong đi lấy mật, biết cách luân chuyển đàn ong
tìm kiếm những nơi có nguồn mật hoa dồi dào.
2 .1. Một số hiểu biết về loài ong:
Loài ong mật
Ong là loài côn trùng có tổ chức x ã hội cao. Ong sống theo đàn, mỗi đ àn
đều có ong chúa, ong thợ, ong non,... và có sự phân công công việc rõ ràng. Ong
có nhiều loài khác nhau, các loài được con người nuôi để khai thác sản phẩm
như m ật ong, sáp ong, sữa ong chúa...
- Trong đàn ong:
+ O ng chúa là con ong cái duy nhất trong đàn ong, dài và to hơn các ong
đực, ong thợ, cánh ngắn hơn thân, có nhiệm vụ đẻ trứng nhưng không làm ra
mật. Ong chúa chuyên đẻ trứng, ấu trùng do trứng nở ra được nuôi bởi ong thợ
(các con ong thợ này là các con cái); những ấu trùng này sẽ lớn lên thành ong
non và cuối cùng, trong đàn ong còn có ong đực, có số lượng rất ít trong tổ,
chúng chết đi sau khi giao phối với ong chúa.
5
- + Ong thợ đông nhất, làm đủ mọi việc: lấy mật, nuôi ấu trùng, bảo vệ tổ ,
thường sống 2 - 6 tháng.
+ O ng đực to hơn ong thợ, làm nhiệm vụ giao phối với ong chúa mỗi khi
ong chúa bay ra. Ong đực thường xuất hiện vào mùa hè và chỉ sống 1-2 tháng,
sang mùa thu thì bị đuổi ra khỏi tổ mà chết.
Trong đề tài này chúng ta đề cập đến loài ong mật: Con ong cho mật thuộc
giống Apis (Apis mellifca, Apis cerana Fabr, Apis ligustica, Apis sinensis,...)
hoặc các giống Maligona, Trigona,... đ ều thuộc họ ong (Apidae). Ong mật còn
gọi là ong khoái, to con hơn, đốt đau, tổ thường ở các hốc cây, hốc đá...
* Nguồn thức ăn:
N guồn thức ăn chủ yếu của ong là mật hoa và hạt phấn. Chính vì vậy thực
vật cung cấp hạt phấn và mật hoa là một trong những đối tượng được chú ý và
nghiên cứu đối với các nhà nuôi ong về : Thời điểm nở hoa, khoảng thời gian
hoa nở nhiều nhất…Từ đó để đưa lại hiệu quả trong việc thu hạt phấn và mật
hoa, mang lại năng suất cao trong việc nuôi ong.
* Mật ong – sản phẩm tạo thành của ong: Mật ong được tạo thành từ chất
ngọt do ong thu thập được trong các bông hoa. Mật ong là hỗn hợp của các loại
đường và một số thành phần khác. Dựa vào nguồn mật người ta chia làm 3 loại
mật ong: mật ong đ ơn hoa, mật ong hỗn hợp và mật ong dịch lá. Trong đó mật
ong đơn hoa có chất lượng tốt nhất.
2 .2 Q uá trình tạo mật ong:
O ng mật tìm những cây có hoa có chứa mật hoa, hạt phấn đây chính là
nguồn thức ăn cho ong mật.
Phấn hoa là nguồn protein quý giá đối với đời sống đàn ong. Đàn ong phát
triển mạnh hay yếu, nhanh hay chậm chủ yếu dựa vào phấn hoa; phấn hoa là loại
thức ăn khó thay thế của ong. Tuy rằng nhiều nước nuôi ong đã sản xuất thức ăn
nhân tạo (phấn) nhưng đàn ong phát triển vẫn không bằng phấn hoa tự nhiên.
Ong thu phấn hoa có chọn lọc. Phần lớn đàn ong chỉ thu những hạt phấn tốt trên
hoa có phấn ngon.
6
- Ở nhiều lo ài thực vật ở bên trong hoa nơi gần gốc của cánh hoa có tuyến tiết
mật. Tuyến mật của hoa sâu hoặc nông có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu
mật. Ở một số loài tuyến mật không nằm trong hoa mà nó nằm bên ngoài của
hoa và gọi là những tuyến mật ngoài hoa (extrafloral nectaries). Đây là dịch ngọt
tiết ra từ tuyến mật ở lá, thân của cây. Ví dụ: đay có đầu ở gân lá, cao su ở gần
cuống lá, thông ở kẽ nụ v.v..
Mật ong lấy từ mật hoa thường có hương vị đặc trưng và trong. Mật lá có
hàm lượng chất khoáng (nhất là kali) thường cao hơn mật hoa do đó mật lá vẫn
được khách hàng nhiều nước ưa thích vì kali có khả năng chống nhiễm xạ. Màu
sắc, hương vị của mật hoa kích thích đàn ong mạnh hơn so với mật lá. Tuy nhiên
không phải tất cả các loài cây có hoa đ ều có tuyến mật để hấp dẫn côn trùng.
Mật hoa (nectar) sau khi ong thu thập về được ong chế biến lại thành mật
ong (honey). Mật ong đ ược dự trữ trong kho chứa mật và người nuôi ong khai
thác nguồn mật tại đây. Tuy nhiên, ong cũng sử dụng nguồn mật m à nó chế tạo
được do đó người nuôi ong cần phải lấy hết lượng mật này, thay đó bổ sung thay
thế bằng lượng nước đường cho đàn ong sử dụng vì đ àn ong luôn đòi hỏi nguồn
thức ăn để nâng cao sản lượng và chất lượng mật.
V iệc nuôi ong cố định ở một nơi (stationary) hay nuôi di trú (migratory),
người nuôi ong cần phải tìm hiểu về địa điểm bố trí đ àn ong ở bên trong hay gần
nơi có nhiều cây cho mật (honey plants). Những loài cây cho mật có thể là cây
trồng hay cây dại, cây cỏ hay cây bụi, cây trong rừng hay cây ven đường... thời
kỳ có nguồn thức ăn cho ong vào những mùa nhất định hay xuyên suốt trong
năm.
2 .3 Thực vật cho mật hoa và phấn hoa:
Một số loài cây cung cấp lượng mật và phấn hoa nhiều khi hoa nở và những
loài thực vật này người ta gọi là cây cho m ật (honey plants). Bởi vì những loài
cây này cung cấp nguồn thức ăn cho ong để quá trình tạo mật ong tốt nhất.
Nhiều thực vật sản sinh ra nguồn mật hoa nhưng rất ít hay không có phấn hoa
cũng được xem là những loài cây nguồn mật.
N hững cây khác cho phấn hoa nhiều với chất lượng tốt nhưng có rất ít hay
7
- không có mật hoa gọi là những cây cho phấn hoa (pollen plant), những loài cây
này đóng vai trò quan trọng cho việc nuôi ong nhất là vào lúc mới xây dựng đ àn
ong, khi ong cần một lượng lớn protein chứa trong hạt phấn để nuôi sống chúng.
N ghề nuôi ong phát triển ở những vùng có những loài cây cho mật và cây
cho phấn phát triển mạnh và có mùa nở hoa kéo d ài. Nhưng những vùng này
không phải luôn dễ dàng tìm thấy. Bởi vậy người nuôi ong cần phải kết hợp
những kinh nghiệm của mình trong việc quản lý đàn ong với việc thực hiện di
cư đ ến nơi có nguồn phấn hoa và m ật hoa nhiều để cung cấp đầy đủ lượng thức
ăn cho ong. Do đó người nuôi ong cần phải biết ngày và khoảng thời gian mùa
hoa nở của những loài cây cho mật, những nhân tố môi trường ảnh hưởng đến
chúng và có những đánh giá tác động hợp lý với tiềm năng ở từng vùng, ví dụ:
số lượng đàn ong cần đặt để sản xuất ở mỗi vùng, khả năng cung cấp mật hoa và
phấn hoa của đ àn ong.
H iện tượng học ra hoa của những loài này thường thay đổi theo mùa và theo
từng vùng.
Theo Crane (1990), chỉ có khoảng 16% lo ài cây trên thế giới làm nguồn
thức ăn cho ong mật, tuy nhiên cũng có đến 4000 loài hoa khác nhau cho mật.
Những hoa không có mật thường cho lượng phấn hoa khá lớn (theo Luciana
Porter Bolland, 2001).
Tầm quan trọng của những loài cho mật và phấn hoa khác nhau phụ thuộc
sự phong phú của nó trong vùng. Chất lượng mật, phấn hoa và hiện tượng ra hoa
của ảnh hưởng đến chu trình nuôi ong.
Cây cho m ật hoa và phấn hoa ở nước ta khá phong phú. Ở miền Nam cây
Cao su là cây có sản lượng mật hoa lớn, sau đó là cây Tràm, Chôm chôm, Nhãn,
Cà phê và Dừa, hoa Cúc quỳ, Bông trắng, các cây trong rừng ngập mặn như cây
họ mắm Avicennia. Đối với miền Bắc, cây nguồn cho mật hoa và phấn hoa có
rải rác trong năm: Vải chua, Vải thiều, Nhãn, Đay, Bạch đàn, Vẹt, Táo, Cỏ lào,
Chân chim, Bạc hà v.v... Các cây cho m ật hoa ở miền Bắc cho chất lượng mật
tốt, mật trong và thơm (trừ Đay) nhưng số lượng cây lại không nhiều và thời tiết
không ổn định, địa bàn phân tán cho nên chỉ thích hợp với nuôi ong gia đình có
8
- quy mô nhỏ (giống ong nội Apis cerena).
2 .4. Lịch nở hoa (loral calendars):
N guồn hoa cung cấp thức ăn tự nhiên cho ong rất dồi dào lại phân bố tại
nhiều vùng khác nhau, mỗi lo ài hoa nở vào một mùa nhất định nào đó. Do đó
người nuôi ong cần phải biết được thứ tự thời gian nở hoa, hoa tàn; thời gian và
kết thúc vụ mật của các loài cây nguồn mật này ở từng vùng trong năm; nắm
chắc lịch nở hoa sẽ bố trí đàn ong mật khớp đúng những mùa mật cao điểm sẽ
mang lại năng suất mật ong khá cao.
Lịch nở hoa (loral calendars) hay bản đồ nở hoa (flowering – chart) cho
nghề nuôi ong là một bảng thời gian cho người nuôi ong biết được ngày gần
đúng nhất và khoảng thời gian giai đoạn hoa nở của những cây cho mật và cây
cho phấn hoa quan trọng trong vùng. Những người nuôi ong có kinh nghiệm sẽ
thu thập được nhiều thông tin qua qua nhiều năm và ghi chép lại làm kinh
nghiệm cho những sau.
Lịch nở hoa là một trong những công cụ hữu hiệu để mở rộng nghề nuôi
ong. Nó có thể giúp cho người nuôi ong biết được nguồn thức ăn mà ong mật
cần cung cấp ở đâu, nhờ đó người nuôi có thể quản lý đàn ong của mình theo
cách hợp lý nhất. Việc nuôi ong ở bất kỳ một vùng nào đó sẽ không thể phát
triển được nếu không hiểu biết về lịch nở hoa và việc di cư khi nuôi ong. Lịch
nở hoa đặc biệt cung cấp cho ta biết những vùng miền khác nhau có nguồn thức
ăn cho ong, dựa vào đó mà bố trí lộ trình di cư mà đàn ong cho thích hợp nhất.
V iệc thu thập thông tin để xây dựng lịch nở hoa cho bất kỳ một vùng nào
thì không phải khó khăn nhưng tốn khá nhiều thời gian. Nó đòi hỏi phải có một
sự quan sát thật kỹ lưỡng và đầy đủ về sự thay đổi theo mùa của hệ sinh thái
trong vùng đó, ho ạt động kiếm nguồn thức ăn của ong mật, và cả những tập tính
trong đàn ong mật.
XÂY DỰNG LỊCH NỞ HOA
* Khái niệm: Là b ảng chỉ ngày và khoảng thời gian hoa nở của các loài cho
mật hoa và hạt phấn.
9
- * Các bước xây dựng lịch hoa:
- N ghiên cứu thành phần loài thực vật cung cấp mật hoa và hạt phấn trong
vùng. Xác định mật độ cây ra hoa /dt/cây.
- X ác định số lượng tập đoàn ong trong vùng. Theo dõi lượng thức ăn trong
tổ thừa hay thiếu.
- Theo dõi sự viếng thăm của ong và tần suất viếng thăm của ong.
- Theo dõi diễn biến mùa hoa.
* Vai trò:
-Trên cơ sở xây dụng được lịch hoa, người nuôi ong sẽ biết được thời gian
thích hợp để thu mật hoa và phấn hoa. Khi đó họ có thể di chuyển đàn ong tới
nơi có nguồn mật dồi dào đúng thời điểm mới đạt đ ược nằn suất cao.
-Lịch hoa còn là cơ sở của các ứng dụng khác như thống kê lưu lượng mật
của các loài thực vật.
3. Quy trình và kỹ thuật nuôi ong mật
3 .1. Phương thức nuôi ong:
N ước ta, ong nội (Apis cerana) đ ã được nuôi từ lâu đời với nhiều hình thức
khác nhau.
* Nuôi ong theo phương thức cố định: Ong đ ược nuôi trong hốc cây hoặc
hốc đá tự nhiên, nuôi trong thùng hoặc trong đó đã có bánh tổ cố định và được
đặt theo nhiều tư thế khác nhau. Đây là phương thức nuôi còn thô sơ và năng
suất thấp.
* Nuôi ong theo phương thức di chuyển: Là phương thức nuôi trong đó các
thùng cải tiến có khung cầu di động. Đây là một bước tiến nhảy vọt, đưa năng
suất mật tăng gấp 5 - 10 lần.
Đ ể nuôi ong thành công và thu được nhiều sản phẩm, cần phải nắm vững và
kết hợp hài hoà giữa nhiều yếu tố như : kỹ thuật tạo chúa có chất lượng cao, kỹ
thuật nuôi và sử lý đàn ong, các bước đi hoa, phương pháp phòng và trị bệnh...
10
- 3 .2. Kỹ thuật nuôi ong.
Trong quy trình, kỹ thuật nuôi ong, hai vấn đề cần đặc biệt quan tâm là
chọn giống ong và kỹ thuật chăm sóc, phòng chữa các loại bệnh cho ong.
* Chọn giống ong
V iệc chọn giống ong ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất mật: giống tốt, con
chúa đẻ khỏe thì cho năng suất mật cao. Người tạo giống phải có kỹ năng chọn
những đàn ong có các đặc tính mong muốn. Sau đó, để đạt được kết quả cao
nhất, họ phải cho ong đực chọn từ đ àn b ố giao phối với ong chúa tơ tạo từ đ àn
mẹ. Theo kinh nghiệm và nghiên cứu của các chuyên gia, việc lựa chọn ong làm
giống dựa trên 5 đặc tính cơ bản:
- Đặc tính hung dữ
- Sản lượng mật
- Tình trạng ấu trùng
- Dịch bệnh
- Khả năng dọn vệ sinh trong tổ
* Chuẩn bị dụng cụ:
- Thùng nuôi ong: để nuôi ong người ta dùng các kiểu thùng gỗ thông dụng tự
chế theo cách riêng, nhưng hiện nay là kiểu thùng langtros, có hai cửa sổ để
đóng mở, phía trên có nắp đậy để chống mưa nắng. Cửa ra vào của ong phải to
và rộng để không ảnh hưởng đến quá trình tạo bầy đàn của ong.
Thùng nuôi ong được xem như ngôi nhà chung của đàn ong. Có thùng nuôi
ong tốt thì việc nuôi ong sẽ hiệu quả. Tùy vào điều kiện của từng vùng có thể
xây dựng thùng nuôi ong phù hợp. Ở miền núi người ta dùng thân cây tròn rỗng
ruột để làm thùng nuôi ong, gọi là bộng ong. Cách làm bộng để nuôi ong có mặt
tốt là duy trì được sự thân thiện của đàn ong với môi trường tự nhiên, nhưng lại
gặp khó khăn nếu tổ chức sản xuất lớn. Tốt nhất là nuôi ong trong thùng cải tiến
với khung cầu di động, tiện dụng cho người nuôi ong và cho năng suất mật cao.
- Khung cầu: phía bên trong thùng ong là các cầu ong hay gọi là khung cầu
(kèo) có thể tháo ra mở vào để lấy mật, trên khung cầu này ta sẽ đặt vào bánh tổ
để cho ong xây tổ. Nuôi ong bằng khung cầu di động là dụng cụ để khai thác
11
- mật thuận tiện nhất, cho năng suất mật cao.
- Các dụng cụ khác: dụng cụ để khai thác mật thuận tiện nhất, cho năng suất
mật cao.
3 .2.1. Quy trình và kỹ thuật nuôi ong:
1 . Chọn địa điểm đặt đ àn ong
N guồn thức ăn chính của ong là mật của các loài hoa. Bởi vậy việc lựa chọn
địa điểm đặt đàn ong cần phải dựa trên đặc điểm này.
Theo kinh nghiệm, địa điểm đặt đàn ong cần:
- G ần nguồn mật phấn hoa
- K hông phun thuốc sâu, hóa chất.
- K hông có dịch bệnh, ít hoặc không có ong rừng, chim thú hại.
- Địa hình thoáng mát, yên tĩnh, không gần đường giao thông, nhà máy
đường, nhà máy hóa chất, nhà máy chế biến hoa quả và không có hồ lớn bao
quanh...
V ề cách đặt thùng ong, nên kê cao 25 - 30cm so với mặt đất, cách nhau ít
nhất 1m, cửa ra vào đặt các hướng khác nhau, chọn nơi khô ráo, thoáng mát như
dưới hiên nhà, cạnh gốc cây. Không nên đặt đàn ong trên sân gạch, nền xi măng,
nơi qúa ẩm ướt hoặc gần chuồng gia súc, gia cầm.
12
- 2. Kỹ thuật chia đàn tự nhiên:
Do gần nguồn phấn hoa dồi dào, đàn ong phát triển mạnh. Ngôi nhà của đàn
ong trở nên đông đúc, chật chội thì đàn ong sẽ chia đàn tự nhiên làm mất ong và
giảm năng suất mật. Vì vậy khi đàn ong phát triển mạnh, người nuôi ong nên
chủ động chia và nhân đàn.
Ở miền Bắc, ong thường chia đ àn vào tháng 3 - 4 , một số ít chia vào tháng
10 - 11. Ở miền Nam, ong thường chia đ àn vào tháng 10 - 11 và tháng 2 - 4 (đầu
và giữa vụ mật).
Cách x ử lý chia đàn tự nhiên:
- Trong trường hợp đ àn ong ít quân: khắc phục việc chia đàn bằng cách thay
ong chúa cũ bằng ong chúa mới vào lúc nguồn hoa phong phú, cho thêm tầng
chân, quay mật hoặc chuyển cầu mật cho đàn khác, nới rộng khoảng cách cầu và
bỏ vật chống rét ra ngoài, vặt các mũ chúa và cắt bỏ lỗ tổ ong đực.
- Trong trường hợp đàn ong mạnh thì ch ủ động chia đàn: cần cho ăn đủ,
chọn những mũ chúa thẳng dài ở vị trí trống như ở 2 góc và dưới bánh tổ để sử
dụng sau khi ong chia đàn mới.
- Đàn ong chia đàn tự nhiên thường ăn no mật và phần đông ong thợ trẻ
đang độ tuổi tiết sáp, xây tầng nhanh, nên ngay sau khi ổ n định có thể cho đ àn
ong đó xây tầng chân. Đàn ong gốc chỉ giữ lại 1 mũ ong chúa tốt nhất để thay
chúa còn lại cắt bỏ tất cả các mũ chúa đi.
Thường xuyên kiểm tra đàn ong
13
- K ỹ thuật chia đàn đòi hỏi sự quan sát, chăm sóc cẩn thận để tạo đàn ong
hợp lý về tổ chức và số lượng đàn ong.
3 . Phương pháp nhập đàn ong, cầu ong:
N hập ong thợ từ đàn này sang đàn khác nhằm :
- Điều chỉnh thế ong cho đồng đều.
- Xử lý các trường hợp: bốc bay, mất chúa, tăng lực lượng xây bánh tổ.
Thao tác nhập đàn ong cần nhẹ nhàng để tránh ong đánh nhau gây tình trạng
mất ổn định trong đàn ong và những đàn xung quanh.
a. Các nguyên tắc nhập đàn ong, cầu ong
- N hập vào buổi tối
- N hập đàn ong không có chúa vào đàn ong có chúa
- N hập đàn ong yếu vào đàn ong mạnh
b. Các cách nhập ong
Nhập gián tiếp (ngoài ván ngăn):
- K hử hoặc tách chúa ở đàn bị nhập trước 6 giờ.
- Đ ến tối nhấc các cầu định nhập đặt ngoài ván ngăn của đàn ong được
nhập.
- Sáng hôm sau nhấc ván ngăn ra ngoài và ổ n định cầu mới nhập vào.
Nhập trực tiếp (trong ván ngăn): buổi chiều, tách ván ngăn ra xa, đến tối đặt
nhẹ cầu nhập vào hoặc thổi nhẹ cho ong già bay khỏi tổ, còn lại toàn ong non.
4 . Phương pháp chia đàn ong
Chia đàn nhân tạo nhằm giảm sự chia đàn tự nhiên và tăng số đ àn. Có mấy
phương pháp chia như sau:
a. Chia đàn song song
- Sau khi chuẩn bị được ong chúa, mũ chúa, dùng một thùng mới có m àu
sơn giống với màu thùng cũ của đàn ong định chia.
- Chia đều số cầu, quân nhộng, ấu trùng và thức ăn ra làm đôi, đ ặt 2 đàn liền
nhau.
14
- - Đ ể 2 đàn cách đều vị trí đàn cũ 20 - 30cm. Nếu đ àn ong vào nhiều hơn thì
nhích xa vị trí cũ, đàn nào vào ít thì nhích gần lại. Dần dần tách 2 đàn ra xa
nhau, quay cửa tổ ra 2 hướng.
N uôi ong cũng như chăm sóc trẻ nhỏ cần có sự cẩn thận và tỉ mỉ
Cách chia này có ưu điểm là hai đàn được chia đều, phát triển nhanh, không
phải mang ong đi, tiện kiểm tra, chăm sóc.
b. Chia dời chỗ
Mang thùng mới đến gần đ àn cơ bản, tách ra 2 - 3 cầu, chèn lại, rồi chuyển
đi cách đó 1km, thường mang ong chúa đã đẻ đi. Nên tiến hành trước vụ mật 40
ngày.
c. Tách cầu ghép thành đàn mới
Khi sắp tới vụ mật, có một số đàn ong m ạnh muốn chia đàn tự nhiên, nếu
không chia ong sẽ tự chia đàn hoặc đi làm kém. Cần lấy từ các đàn mạnh, mỗi
đàn một cầu nhộng và quân để tách ra hình thành đàn mới, vừa chống chia đàn,
vừa tăng sản lượng mật, tăng được số lượng đ àn. Ngày đ ầu chỉ nên lấy 1 cầu,
ngày sau lấy 1 cầu của đ àn khác và hôm sau lấy thêm 1 cầu của đàn thứ 3. Nếu
ong chúa đẻ, đàn ghép sẽ phát triển nhanh.
15
- 5. Phòng chữa bệnh cho ong
Các loại bệnh trên ong phổ biến nhất là: bệnh thối ấu trùng, ấu trùng túi và
bệnh ỉa chảy. Trong quá trình chăm sóc, phát hiện và chữa trị kịp thời các loại
bệnh cho ong rất quan trọng, ảnh hưởng đến năng suất lấy mật.
Đàn ong khỏe, điều kiện chăm sóc chu đáo, không để nó đói kém, thưa cầu
thì sẽ ít bệnh tật. Ong cũng giống như con người nếu không được chăm sóc,
nuôi dưỡng tốt dễ mắc các loại bệnh tật. Khi mắc bệnh thối ấu trùng nặng thì
không nên để đông cầu quân và kết hợp dùng các loại thuốc chứ không nên dùng
duy nhất kháng sinh. Khi chữa bằng kháng sinh thì cho thêm thuốc bổ để hỗ trợ
những con khỏe phục vụ cho đàn ong. Và phương pháp hiệu quả hơn là thay
chúa trong thời kỳ ong bệnh sẽ khắc phục nhanh chóng. Mình làm chúa chủ định
trước sau đó thay cho mỗi đ àn ong mắc bệnh.
6 . Phương pháp chống nóng, chống rét cho ong
Yêu cầu nhiệt độ trong đàn ong từ 33 - 35 độ C, độ ẩm từ 60 - 80%.
Chống nóng cho ong:
- K hông để đàn ong ở ngoài nắng, không đặt cửa về hướng tây, không để
đàn ong chật chội.
- Đ ặt máng có nước trong thùng ong vào những ngày nóng bức. Thời tiết
nắng thì chọn những nơi bóng râm mát đ ặt đàn ong, Khi nhiệt độ ngo ài trời cao
(tháng 5, 6) thì có thể dùng vải ướt để lên thùng hoặc đổ nước lạnh d ưới đáy
thùng.
Chống rét, khô hanh cho ong:
- Đ iều chỉnh đàn ong trước mùa rét để có thế đàn đông đều, nên kết thúc
nhân giống trước 30/11 để có thời gian nâng thế đàn tốt qua mùa đông.
- Cho ăn đầy đủ đến khi có mật vít nắp, nếu thiếu phấn kéo dài phải cho ăn
bổ sung.
16
- Đặt đàn ong nơi râm mát, gốc cây để tránh nắng
- Dùng rơm, lá chuối khô... làm vật chống rét để ở ngoài ván ngăn hoặc b ên
trên xà cầu.
- Bịt kín các khe hở của thùng ong, không để cửa tổ quay về hướng bắc.
- N ếu khô hanh quá cho uống nước pha ít muối với tỷ lệ 9/1000.
7 . Các vấn đề cần chuẩn bị cho đàn ong vào vụ mật:
Mùa hoa nở, cây trái đơm chồi, nảy lộc là mùa con ong đi lấy mật, mùa cho
năng suất hiệu quả cao nhất của những người nuôi ong. Bởi vậy việc chuẩn bị
đàn ong trước vụ mật là rất cần thiết.
Kết hợp giữa phương pháp dân gian và kỹ thuật khoa học, kinh nghiệm
từng vùng, mỗi hộ nuôi ong có những bí quyết riêng đ ể chuẩn bị nguồn lực, điều
kiện cho vụ mật. Nghề nuôi ong có những điểm khá đặc biệt. Các hộ nuôi ong
không có sự cạnh tranh mà trái lại luôn tương trợ, giúp đỡ nhau. Đặc biệt vào vụ
mật, họ có thể lập hội di chuyển đàn ong tới những vùng nhiều hoa để cùng khai
thác mật. Đây cũng là nét độc đáo thể hiện thú chơi tao nhã, tinh thần đoàn kết
của các hộ nuôi ong.
17
- 3.3. Kỹ thuật khai thác
- K hai thác phấn hoa: Vào mùa bông chè, cà phê, mắc cỡ ..vv.., nếu nguồn
phấn dồi dào ta có thể tổ chức khai thác phấn hoa:
- Dùng một tấm lưới có các lỗ có đường kính 5,7mm chận trước cửa tổ, b ên
dưới dùng một máng để hứng phấn. Ong đi làm về mang hai hạt phấn ở hai chân
sau khi chui vào lỗ của lưới thoái phấn sẽ đễ lại hai hạt phấn ở bên ngoài. Hai
hạt phấn này sẽ rơi xuống màng hứng phấn. Trưa hoặc chiều người nuôi ong sẽ
gom số phấn này lại.
- K hai thác sữa ong chúa: Tổ chức những đàn ong giống như đàn tạo chúa
theo phương pháp đàn có chúa.
+ Di con ấu trùng 1 ngày tuổi vào các nụ (mỗi nụ một con).
+ Đến ngày thứ 3 lấy các thanh nụ này ra, dùng kẹp gắp bỏ các ấu trùng,
sau đó dùng một thanh nhựa dẹt múc sữa chúa trong các nụ này vào 1 túi nylon
có túi lọc bằng vải nylon mịn, lọc lấy sữa chúa, cột chặt túi sau khi vuốt hết
không khí ra.
+ Lại di con ấu trùng khác vào các nụ này, sau đó bỏ vào thùng và bắt dầu
chu kỳ tiếp theo.
+ Bảo quản sữa chúa ở -180 C và không có ánh sáng.
- K hai thác mật ong: Vào những mùa hoa nở rộ như: Cà phê, cao su, chôm
chôm, nhãn .v.v.
Người ta đem những đàn ong mạnh (tức những đ àn đã đạt đến 10 cầu
quân thật đông) đến những vùng có hoa nở rộ để khai thác mật ong.
4 .Thực trạng nghề nuôi ong mật ở Việt Nam:
* Ứng dụng của hiện tượng học nở hoa ở thực vật trong nghề nuôi ong mật
Ở nước ta việc ứng dụng hiện tượng hoa nở để di chuyển đàn ong theo mùa
là một trong những phương pháp đang được sử dụng rất phổ biến.
Lo ại mật tốt nhất đó là mật ong đơn hoa: Mật ong thuần túy của một loại
hoa nào đó, như: hoa nhãn, chôm chôm, vải thiều,... Thông thường, các cây công
nghiệp, cây ăn trái,... có mùa hoa nở tập trung thì người nuôi ong di chuyển đ àn
18
- ong đến vùng đó vào đúng thời điểm có hoa nở rộ, việc chuyển trại ong đến
điểm lấy mật gọi là “di chuyển theo bước hoa”.
Tuy nhiên, cái khó nhất gặp phải là kỹ thuật nuôi ong vì nước ta nghề này
cũng hiếm. Mỗi lần di chuyển ong phải thực hiện trong đêm, vì thời gian này là
đàn ong về tổ ngủ, có như thế ong mới không bị phân tán đàn và b ị chết do thay
đổi khí hậu đột ngột.
Các loài thực vật cung cấp mật và phấn hoa cho việc nuôi ong mật ở nước
ta chủ yếu là các cây ăn quả. Các hộ nông dân đã biết cách ứng dụng cá hiện
tượng nở hoa của các loài cây ăn quả để tạo ra năng suất cao trong quá trình
nuôi ong.
Đ iển hình đó là anh Vũ Đ ình Năm xã Đức Hạnh, huyện Đức Linh (Bình
Thuận), là một trong những hộ nuôi ong thành công nhất ở vùng này, với mô
hình nuôi ong lây mật hàng năm gia đình anh cho thu lãi hàng trăm triệu đồng.
Hiện nay, gia đình anh đang nuôi 1.000 đàn ong, mỗi đàn ong là 1 thùng, mỗi
thùng kho ảng 10 cầu ong, mỗi cầu ong có thể thu từ 4 - 8 kg mật ong. Uớc tính
trong năm nay, anh có thể thu được khoảng 50 tấn mật với thu nhập khoảng trên
600 triệu đồng, trong đó lãi ròng khoảng 300 triệu đồng. Với giống, có kỹ thuật
và vườn cây ăn quả, cây cô ng nghiệp là đàn ong phát triển mạnh. Mùa con ong
phát triển cao điểm là từ tháng 9 âm lịch đến Tết, từ Tết cho đến tháng 4 âm lịch
là mùa mật. Do đó, để nâng cao sản lượng và chất lượng mật ong, mỗi năm phải
di chuyển đàn ong đến những vườn cây khác có nhiều hương hoa từ 5-6 lần.
- V ùng Tây Nguyên chỉ trừ 3 tháng giữa mùa mưa, còn lại gần như quanh
năm suốt tháng, hàng chục vạn đàn ong đã thực hiện nhiều cuộc thiên di ào ạt
với chiều dài hàng trăm km theo những mùa hoa trên khắp vùng miền đất nước,
thậm chí sang cả các nước láng giềng. Người ta gọi đó là những mùa đi ong…
Theo những mùa hoa cà phê nở rộ vào cuối tháng 2 và đầu tháng 3. Từ đầu
tháng Hai, hơn 200 đàn ong của ông Diễm đã được đưa lên ô tô để dời đến
những vườn cà phê ở xã Ia Châm, cách Pleiku- G ia Lai chừng 30 km về phía
nam.
19
- Hoa cà phê
Tất cả những người nuôi ong chuyên nghiệp đều thường xuyên liên lạc với
nhau, vừa để thông tin giá cả thị trường, vừa dễ sắp xếp các vùng chuyển ong,
tránh trùng lặp đ ưa nhiều đàn ong đến cùng một chỗ.
Các tỉnh Tây Nguyên có các hội nuôi ong cấp tỉnh, cấp huyện, không chỉ
vậy những người nuôi ong H ưng Yên lại lập ra một bang hội nuôi ong di động.
Bang ong đến đâu đều làm đăng kí tạm trú hẳn hoi cho cả ong lẫn người. Người
đứng đầu “bang hội” nuôi ong sẽ chịu trách nhiệm thu mua mật ong của các
thành viên, thông báo thời điểm di dời đàn ong từ vùng hoa này đến vùng hoa
khác, thông báo về diễn biến thời tiết, tình trạng sức khỏe của đàn ong...
Sau khi hết mùa hoa cà phê, những người nuôi ong lại tiếp tục lên đường
tìm những vùng hoa khác để khai thác mật và phấn hoa. V ào giữa mùa hè họ có
thể chuyển ong ra Bắc để lấy mật hoa nhãn, hoa vải ở H ưng Yên, Bắc
Giang...rồi sau đó xuống Quảng Ninh để đặt ong trong rừng vẹt, rừng sú ven
biển...
N hững đàn ong tại Tây Nguyên thì có phần thuận lợi hơn vì sau khi hết vụ
khai thác mật cà phê, cao su thì họ chỉ thường đi ong xuống vùng thấp hơn như
xứ dừa Tam Quan- Bình Định, hay các vùng ở phía đông Tây Nguyên...
20
nguon tai.lieu . vn