- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và vận dụng trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
Xem mẫu
- TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(PLT06A)
ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
vận dụng trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Nhóm Lớp:
Cán bộ chấm thi Điểm
1.
2.
Hà Nội, ngày 05 tháng 04 năm 2022
- MỤC LỤC
- MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam là một nước anh hùng trong suốt mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước. Trong quá trình dựng nước và giữ nước dân
tộc ta đã đấu tranh anh dũng chống giặc ngoại xâm và lập nên nhiều chiến
công hiển hách như: đánh đuổi thực dân Pháp rút quân về nước,... Do vậy,
độc lập dân tộc không chỉ là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân
loại, mà còn là khát vọng độc lập, tự do của toàn dân tộc Việt Nam. Độc
lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo, chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đó là tất cả
những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Trong bản Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người đã đanh thép
khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển các cuộc xung đột kinh tế, chính
trị, văn hóa diễn ra ngày càng gay gắt của các nước trên thế giới. Đồng
thời, đất nước ta cũng đã và đang phải đối phó với những căng thẳng, xung
đột tranh chấp có liên quan đến vấn đề dân tộc cũng như chủ quyền hợp
pháp của dân tộc ta. Ngoài ra, các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách
phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, gây chia
rẽ, ly khai dân tộc, ảnh hưởng tới sự toàn vẹn và thống nhất của đất nước.
Do đó, độc lập dân tộc là một yếu tố cấp thiết và đòi hỏi toàn thể dân tộc
Việt Nam giữ gìn và xây dựng Tổ quốc. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, được Đảng ta, chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng vào tình hình thực
tiễn đất nước vào việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc, thực hiện xây
- dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta trong suốt bề dày lịch
sử, việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nhận thức về vấn đề độc lập dân
tộc trong bối cảnh tình hình hiện nay là rất cần thiết. Với ý nghĩa đó, em
xin chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và vận dụng
trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc
lập dân tộc. Đánh giá tình hình thế giới và đất nước hiện nay và vận dụng
tư tưởng đó trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục đích
nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm vụ: Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc; Giá trị lý luận và thực tiễn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập
dân tộc; Giá trị thực tiễn và lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
độc lập dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phạm vi của tiểu luận: nghiên cứu một số nột dung chủ yếu về độc
lập dân tộc, cũng như đi sâu vào phân tích và vận dụng nó trong đấu tranh
bảo vệ Tổ quốc.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam,...
- Phương pháp nghiên cứu: bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ
thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kế, khảo sát và tổng kết thực tiễn,...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đê tai
̀ ̀
Ý nghĩa lý luận: đề tài góp phần làm rõ nội dung, giá trị tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc. Nêu lên giá trị to lớn của Tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với độc lập dân tộc Việt Nam nói riêng và độc lập dân
tộc thế giới nói chung.
Ý nghĩa thực tiễn: những thành tựu mà Đảng và Nhà nước ta đã đạt
được trong việc đề ra những chính sách về độc lập dân tộc, từ đó rút ra bài
học thực tiễn cho bản thân.
NỘI DUNG
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc phải là độc lập với đầy đủ chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ, chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng. Quyền độc lập
dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm và thể hiện ở tự do, hạnh
phúc của dân.
Như bao nhiêu người dân Việt Nam yêu nước khác sống kiếp nô lệ
dưới thời thuộc Pháp, khát vọng và mong muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh
là quyết tâm giành độc lập, tự do cho dân tộc. Độc lập dân tộc là khát vọng
lớn nhất của các dân tộc thuộc địa, đây là khát vọng mang tính phổ biến
của các dân tộc bị mất quyền dân tộc, chịu sự đè nén, thống trị của ngoại
bang. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh
- xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, thực hiện áp bức về chính trị,
bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa đối với các dân tộc thuộc địa từ đó,
đã tạo ra sự bất bình đẳng lớn trong lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh phê
phán và lên án chủ nghĩa thực dân đã chà đạp và thủ tiêu quyền dân tộc,
kìm hãm sự phát triển của các dân tộc thuộc địa.
Cách tiếp cận độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh xuất phát từ quyền
con người. Quyền con người là một giá trị được thừa nhận và đề cao trong
các bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân
quyền của Pháp. Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ: “Tất cả mọi
người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền
và Dân quyền năm 1791 của Pháp: “Người ta sinh ra có quyền tự do và bình
đẳng về quyền lợi và luôn luôn phải được tự do và bình đẳng về quyền
lợi” và khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong hai bản
Tuyên ngôn bất hủ đó và phát triển thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân
tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”. Với việc tiếp cận vấn đề độc lập dân
tộc từ quyền con người tức quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng cho một pháp lý quốc tế mới
về quyền dân tộc và sự bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
2.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của
các dân tộc
- Ý trí quyết tâm đấu tranh giành và bảo vệ độc lập tự do được thể
hiện xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Năm 1919, nhân dịp các nước
thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị Vécxây
(Pháp), thay mặt nhóm những yêu nước Việt Nam ở Pháp, Người đã gửi
tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm tám điểm với
hai nội dung chính: Đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản
xứ Đông Dương xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế vào đó
bằng đạo luật; Đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân (tự do ngôn
luận, báo chí, hội họp, cư trú). Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của
Người sử dụng pháp lý tư sản, đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Bản
yêu sách không mang tính chất cải lương, vì nó gắn chặt mục tiêu đấu
tranh giành quyền dân tộc tự quyết với yêu sách cụ thể đòi quyền tự do dân
chủ.
Vào đầu năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên Người cũng xác
định mục tiêu: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”;
“Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”; “Dựng ra chính phủ công
nông binh...”. Phải đấu tranh, phải đánh đổ thực dân, đế quốc để giành độc
lập cho dân tộc, theo Người, đó phải là mục tiêu đầu tiên của cách mạng
nước ta. Cách mạng Tháng Tám thành công, Người khẳng định “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và đọc lập ấy”.
Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người thể hiện
lòng quyết tâm với trái tim sắt đá, bảo vệ cho rằng nền độc lập dân tộc mà
nhân dân mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, Người đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên
- ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới
“Không có gì quý hơn Độc lập tự do”. Với chân lý đó nhân dân Việt Nam
đã đồng lòng, anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi vẻ vang, buộc Mỹ
phải ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản
của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước. Tư tưởng của Bác, độc lập
dân tộc là một mệnh đề hành động gắn với cuộc đấu tranh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giai cấp, con người.
Quan điểm trên của Người vừa có giá trị lý luận, thực tiễn to lớn, vừa
có ý nghĩa bổ sung, phát triển chủ nghĩa MácLênin về quyền dân tộc, cụ
thể là quyền độc lập, tự do.
2.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, hạnh phúc của nhân dân
Độc lập phải gắn liền với tự do, đó là lẽ đương nhiên trong đấu tranh
cách mạng của các dân tộc. Hồ Chí Minh tiếp thu và đánh giá cao học
thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và
dân sinh hạnh phúc. Người cũng từng viện dẫn Tuyên ngôn nhân quyên và
Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định dân tộc Việt
Nam cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi “Đó là lẽ phải không
ai chối cãi được”.
Độc lập cũng phải gắn với sự tự do, hạnh phúc của nhân dân. Là một
dân tộc thuộc địa bị đế quốc thực dân thống trị, bóc lột, nhân dân phải sống
trong cảnh lầm than, cơ cực, đói rét,... nên mong muốn, khát khao lớn nhất
của dân tộc Việt Nam là làm sao nước nhà được độc lập, ai ai cũng tự do,
hạnh phúc, cơm no, áo ấm. Xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng tha thiết,
chính đáng trên, sau khi giành độc lập dân tộc, Người tiếp tục đấu tranh vì
mục đích cơm no, áo ấm,... cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Nước được độc
- lập, mà dân không được hưởng ấm no, hạnh phúc thì độc lập chẳng có
nghĩa lý gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do khi được ăn no, mặc đủ”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền
với tự do, hạnh phúc cho nhân dân, như Bác đã từng bộc bạch tâm huyết:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Sự ham muốn đầy tính nhân văn
và thắm đượm tình thương yêu dân tộc của Người và đó cũng là mục tiêu
tối thượng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
2.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và
triệt để, gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Độc lập của dân tộc Việt Nam trước đây là độc lập dưới chế độ
phong kiến. Mọi quyền hành đều do giai cấp phong kiến thống trị chi phối
còn tuyệt đại đa số nhân dân không có quyền tự do, dân chủ, sống dưới
thân phận những người nô bộc.
Chủ nghĩa thực dân cũ và mới đều gieo ảo tưởng về “độc lập tự do”
trong nhân dân, nhưng Hồ Chí Minh chỉ cho rằng đó chỉ là “cái bánh vẽ”,
chỉ là “độc lập hình thức”, “độc lập giả hiệu”, thực chất mọi quyền hành
về chính trị, kinh tế đều nằm trong tay bọn thực dân, đế quốc. Vì vậy, theo
Hồ Chí Minh phải đấu tranh giành cho được nền độc lập thật sự.
Nền độc lập thật sự, tức là dân tộc đó phải được độc lập về tất cả
các mặt chính trị, kinh tế, toàn vẹn lãnh thổ. Độc lập phải gắn liền với
quyền tự quyết dân tộc. Mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia phải do
nhân dân của dân tộc đó tự quyết định, không có sự can thiệp của nước
ngoài.
- Nền độc lập thực sự, hoàn toàn phải được thực hiện triệt để theo
nguyên tắc thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc là một nguyên tắc
không thể nhân nhượng. “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một”, “Miền nam Việt Nam là máu của máu Việt Nam, thịt của thị Việt
Nam”, “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có
thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
2.4. Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời độc lập cho các dân tộc
khác
Quyền độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Chúng ta không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu
tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Hồ Chí Minh luôn gắn
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Tư tưởng
độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc, triệt để gắn với
cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giai cấp, con người. Tư
tưởng đó khẳng định những căn cứ pháp lý về quyền con người, quyền dân
tộc, có ý nghĩa thời đại sâu sắc và mang tính nhân văn cao cả.
Là một chiến sĩ yêu nước, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc Việt Nam, mà đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc
bị áp bức. Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về
quyền dân tộc tự quyết, nhưng Bác cũng không quên nghĩa vụ quốc tế
trong việc ủng hộ các cuộc đấu giải phóng dân tộc trên thế giới. Người
nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc
các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ xâm lược của nhân dân
Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình".
II. Giá trị và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay
- 1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Giá trị lý luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đã bổ sung
và phát triển sáng tạo làm phong phú học thuyết chủ nghĩa MácLênin xuất
phát từ tình hình thực tiễn bối cảnh đất nước ta. Ngoài ra, nó cũng đã làm
chuyển hóa phong trào yêu nước, tạo điều kiện cho sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam và cũng là cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối chủ
trương đối với vấn đề dân tộc trong tình hình hiện nay. Và Đảng ta tiếp
tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là một vấn đề mang tính chiến
lược cách mạng trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều phức tạp như
vậy, thì phải giữ vững được độc lập dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ
nghĩa xã hội phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược đó là xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và trên cơ sở đó nhà nước đề ra các chính sách
và các cơ chế để chúng ta có thể phát triển đúng theo các định hướng xã
hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, nó còn đặt cơ sở để xây dựng nên đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng, soi đường thắng lợi cho cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự
giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường. Nhờ đó mà cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng
thời nó cũng góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước khác trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một
số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là một
tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.
2. Vận dụng tư tưởng HCM về độc lập dân tộc trong xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay
- 2.1. Thực trạng
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
những năm qua, nước ta đã giành được nhiều thắng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một là, xác định con đường đúng đắn, phù hợp
với thực trạng tình hình của đất nước về mọi mặt.
Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất
xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân và đã đạt được
những thành tựu nổi bật: quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm
2020, đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong
ASEAN,...
Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân
chủ, khối quần chúng côngnôngtrí thức và các giai tầng xã hội khác đã có
ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những
nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của
chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về chính trị, xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân
tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp, nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách
đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Hai là, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững
chắc độc lập dân tộc. Nước ta trở thành một quốc gia có chế độ chính trị
độc lậptừng bước hoàn thiện và có bước phát triển. Bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh
quốc gia, ổn định chính trịxã hội, trật tự an toàn xã hội và môi trường hòa
bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước. Xây dựng toàn diện nền
- quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, hợp tác quốc tế về quốc phòng,
an ninh đạt nhiều kết quả.
Ba là, thành lập một bộ máy nhà nước đơn nhất, có một Đảng duy
nhất, thống nhất, vững chắc. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc cũng có nhiều khuyết điểm và hạn chế: Kinh tế phát triển chưa bền
vững, chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực được huy động. Trong
10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy
giảm, phục hồi chậm. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và sự chi
phối của họ đối với các nước nhỏ, tạo nên sự xung đột về lợi ích, dẫn đến
bất ổn về an ninh đối với nhiều quốc gia, nhất là những nước có vị trí
chiến lược quan trọng như Việt Nam. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao
động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển
thiếu bền vững về mọi mặt. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các
vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải
quyết có hiệu quả, tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội.
Năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa cao. Trong đó,
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có thể dẫn tới tiếp tay
hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, đồng thời cũng có nhiều thế
lực phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay,Việt Nam cũng gặp phải không ít các vấn đề đe
doạ đến độc lập chủ quyền quốc gia, nhất là những vấn đề về ngoại giao.
Đơn cử như các vấn đề về tranh chấp biên giới, vùng biển đảo.
2.2. Nguyên Nhân
- Những hạn chế chủ yếu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay:
Về khách quan: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là một sự
nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp. Tình hình thế giới
và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi, sự chống phá quyết
liệt của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.
Về chủ quan: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa
được quan tâm đúng mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh
mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn.
Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn còn hạn chế. Phương
pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường
lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa
chặt chẽ. Quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không được quy
định rõ ràng, thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị
quyết đúng không được tích cực triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp.
Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm sửa đổi, bổ sung. Việc
quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, chưa tạo
được sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong
Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng, bố
trí cán bộ còn thiếu ý thức, chưa quan tâm việc xây dựng cơ chế, chính sách
để trọng dụng người có đức, có tài.
2.3. Giải Pháp
Trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay, tình hình thế giới luôn
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định bất trắc. Do
- vậy, Đảng và nhà nước ta cần có những giải pháp cụ thể trong xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Đó là:
Nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, nâng cao năng lực
cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu
quả. Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng. Kiên quyết đấu tranh những thế
lực thù địch chống phá Đảng và nhà nước.
Phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thắt chặt mối
quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Sức mạnh của Đảng là sức mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Do đó, việc phát huy dân chủ phải đi đôi
với tăng cường kỷ luật của Đảng. Thực hiện nghiêm túc, thành nề nếp chế
độ tự phê bình và phê bình. Mọi biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật, gây chia
rẽ, bè phái làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của Đảng phải được
xử lý kỷ luật nghiêm minh; luôn đảm bảo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách”.
Phải tăng cường xây dựng củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự.
Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ
chức, hướng dẫn cho quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Chấn chỉnh, củng cố các cơ
sở yếu kém, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở, chú ý bố
trí đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Phát huy vai trò của mỗi tổ chức cơ sở
đảng trong tổ chức, quy tụ sức mạnh của quần chúng hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính trị.
Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mỗi cán
bộ, đảng viên là một phần tử cấu thành tổ chức Đảng. Do đó, các tổ chức
đảng cần quản lý chặt chẽ, đánh giá đúng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bồi
- dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho họ. Phân công,
giao nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc và đưa cán bộ,
đảng viên vào hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng rèn luyện. Thường
xuyên kiểm tra, sàng lọc, kiên quyết, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những
người không còn đủ tư cách đảng viên.
Tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân, cần chú ý xác định mục tiêu, phương hướng và nội dung hoạt
động từng thời kỳ, phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân trong đổi mới tổ chức và hoạt động. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối làm
việc thực sự dân chủ, thiết thực, nói và làm thống nhất, khắc phục bệnh
quan liêu, tuỳ tiện, chủ quan, hình thức.
3. Liên hệ bản thân sinh viên
Là sinh viên đang ngồi trên giảng đường đại học thì bản thân em luôn
tự ý thức trách nhiệm trong việc góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Trước hết là ra sức học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, sống, học tập và
làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, học tập để mai sau xây
dựng đất nước, luôn hiểu rõ học tập tốt là yêu nước. Ngoài ra, sinh viên
cũng cần phải quan tâm đến đời sống chính trịxã hội của địa phương cũng
như đất nước, đồng thời thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, luôn tin tưởng và đi theo đường lối của
Đảng và nhà nước, cũng như vận động mọi người xung quanh cùng thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật, tránh những suy nghĩ sai lệch của
dân về đường lối của Đảng. Luôn thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý,
cũng như rèn luyện tác phong và lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa
các tệ nạn xã hội đặc biệt là các thế lực thù địch chống phá Đảng và Nhà
- nước, phải biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại với lợi
ích quốc gia, dân tộc và lối sống suy đồi đạo đức, thực dụng, xa rời các giá
trị văn hoáđạo đức truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, sinh viên cũng
nên tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm
thiết thực, phù hợp khả năng của bản thân như: tham gia các hoạt động
bảo vệ môi trường, những hoạt động mang tính xã hội nhân văn như hiến
máu tình nguyện, làm tình nguyện viên,...
- KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc có những luận
điểm sáng tạo, đặc sắc, mang tính tính khoa học, có giá trị lý luận và thực
tiễn lớn. Đồng thời, nó cũng đã khái quát hóa được toàn bộ những vấn đề
bức thiết trong đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc. Qua quá trình
nghiên cứu về những cuộc giải phóng dân tộc trên toàn thế giới cũng như
nghiên cứu qua những luận điểm của chủ nghĩa MácLênin, Người đã phát
hiện những quan điểm đúng đắn và sáng tạo ấy: nhấn mạnh sự kết hợp
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh độc lập của dân tộc
mình đồng thời tôn trọng dộc lập của các dân tộc khác. Tư tưởng của
Người không theo một khuôn mẫu mà được hình thành và phát triển gắn
liền với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm xoá bỏ ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Đối
với dân tộc Việt Nam, thì sự phát triển đó theo phương hướng xã hội chủ
nghĩa, với mong muốn của Người là: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là
thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”. Đảng ta đã lấy chủ nghĩa
MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc làm kim
chỉ nam cho hành động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không ngừng xây
dựng và phát triển đất nước đi đôi với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đảng
và nhân dân ta cần phải bình tĩnh, sáng suốt trong phân tích, đánh giá bản
chất vấn đề Biển Đông trên các khía cạnh địa chính trị và chủ quyền quốc
gia, đánh giá bản chất mối quan hệ Việt Nam Trung Quốc, để có những
đối sách hợp lý bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và xây dựng một
- mối quan hệ đúng đắn giữa hai quốc gia quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng
có lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khoa lý luận chính trị, Tài liệu học tập môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh, trang 8386, Học viện Ngân hàng, năm 2021.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, trang
5863, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, năm 2021.
3. PGS, TS Hoàng Phúc Lâm, Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới, Đảng ủy khối các cơ quan trung
ương,
http://dukcqtw.dcs.vn/kiendinhmuctieudoclapdantocvachunghia
xahoitrongtinhhinhmoiduk15344.aspx
4. Thu Hằng, Những giải pháp hiệu quả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, Tạp chí của ban tuyên giáo trung ương,
https://tuyengiao.vn/thoisu/nhunggiaiphaphieuquaxaydungvabao
vetoquoctrongtinhhinhmoi84430
5. Phạm Kinh Oanh, Trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay?,
https://luathoangphi.vn/trachnhiemcuabanthantrongsunghiepxay
dungvabaovetoquochiennay/
- 6. https://loigiaihay.com/giatrilyluanvathuctiencuatutuongho
chiminhvevandedantocvacachmanggiaiphongdantoc
c124a20117.html
7. Đức Bình, Nhìn lại 30 năm đổi mới, Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh
Thừa Thiên Huế,
https://skhdt.thuathienhue.gov.vn/?gd=28&cn=56&tc=5072
nguon tai.lieu . vn