- Trang Chủ
- Triết học
- Tiểu luận Triết học: Học thuyết Âm Dương và Văn hóa Trọng Âm của người Việt
Xem mẫu
- TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
---------------
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC
TÊN ĐỀ TÀI: THUYẾT ÂM DƯƠNG VÀ VĂN HÓA
TRỌNG ÂM CỦA NGƯỜI VIỆT
Người thực hiện: Nguyễn Phước Diệu Hằng
MSHV: 202818003
Hệ: Sau Đại học
Nhóm: 14
Giảng viên HD: TS, GVC. Trần Quốc Hoàn
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2021
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài: ...................................................................................... 3
2. Mục tiêu của đề tài: ................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ............................................................ 4
4. Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................... 4
5. Bố cục đề tài: ............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG ................. 5
1.1. Triết lý Âm Dương: Khái niệm, nguồn gốc và bản chất ........................ 5
1.1.1. Khái niệm......................................................................................... 5
1.1.2. Nguồn gốc ........................................................................................ 6
1.1.3. Bản chất ........................................................................................... 7
1.2. Những nội dung cơ bản của học thuyết Âm Dương .............................. 7
1.2.1. Âm Dương đối lập ........................................................................... 7
1.2.2. Âm Dương hỗ căn............................................................................ 8
1.2.3. Âm Dương bình hành – tiêu trưởng ................................................ 8
1.2.4. Hai quy luật cơ bản .......................................................................... 8
1.2.5. So sánh với các quy luật logic học .................................................. 9
1.3. Hai hướng phát triển của học thuyết Âm Dương ................................... 9
1.3.1. Hệ thống Tam Tài, Ngũ Hành ....................................................... 10
1.3.2. Hệ thống Tứ Tượng, Bát Quái ....................................................... 11
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................. 13
CHƯƠNG 2: VĂN HÓA TRỌNG ÂM CỦA NGƯỜI VIỆT ................... 14
2.1. Khái lược về văn hóa người Việt ......................................................... 14
2.1.1. Sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây
.................................................................................................................. 14
2.1.2. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ........................... 15
2.2. Văn hóa Trọng Âm của người Việt ...................................................... 16
2.2.1. Về đời sống vật chất, sinh hoạt ...................................................... 16
2.2.2. Về đời sống tinh thần ..................................................................... 17
2.3. Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của văn hóa Trọng Âm đến đời
sống của người Việt ..................................................................................... 19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.................................................................................. 20
1
- CHƯƠNG 3: PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA THUYẾT ÂM DƯƠNG TRONG ĐỜI
SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY ....................................... 21
3.1. Cơ sở hình thành các nhóm giải pháp .................................................. 21
3.2. Giải pháp phát huy những giá trị tích cực của thuyết Âm Dương ....... 21
3.3. Giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết Âm Dương . 22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3.................................................................................. 23
KẾT LUẬN .................................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 25
2
- MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Lịch sử phát triển của Triết học là lịch sử đấu tranh giữa Thế giới quan
duy vật và Thế giới quan duy tâm, giữa phương pháp biện chứng và phương
pháp siêu hình. Một trong những hình thức biểu hiện sinh động của Chủ nghĩa
duy vật chất phát và biện chứng ngây thơ ở phương Đông cổ đại là học thuyết
Âm Dương.
Học thuyết Âm Dương ra đời đánh dấu bước tiến bộ của tư duy lý tính
nhằm thoát khỏi sự khống chế về mặt tư tưởng do các quan niệm duy tâm thần
bí truyền thống mang lại. Học thuyết này đã ảnh hưởng sâu sắc đến cả phương
diện bản thể luận và nhận thức luận, ảnh hưởng đó không chỉ đến người Trung
Quốc mà còn cả đến các quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn hóa ấy, trong đó
có Việt Nam. Có thể nói, từ khi hình thành và phát triển đến nay, thuyết Âm
Dương đã thấm sâu vào đời sống văn hóa tinh thần người Việt, nó được thể
hiện khá sâu sắc không chỉ trong nhận thức, đánh giá của tư duy logic, mà còn
cả trong đời sống sinh hoạt thường nhật của các cộng đồng dân cư, trong lĩnh
vực đời sống tinh thần và phương thức giao tiếp.
Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân
dân được nâng cao thì yêu cầu thỏa mãn các giá trị về mặt tinh thần càng được
coi trọng, trong đó văn hóa được xem là mục tiêu, động lực cho chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội. Theo dòng thời gian, học thuyết Âm Dương không hề mất
đi giá trị mà chỉ được người Việt tiếp thu có chọn lọc và kế thừa, ứng dụng một
cách linh hoạt phù hợp với điều kiện sống, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
trong từng giai đoạn phát triển của mình. Chính vì vậy, việc tìm hiểu học thuyết
Âm Dương là cần thiết để lý giải vai trò của nó trong đời sống văn hóa người
Việt, biểu hiện cả về nhận thức lẫn trong sinh hoạt hàng ngày.
2. Mục tiêu của đề tài:
Tiểu luận tìm hiểu học thuyết Âm Dương và văn hóa Trọng Âm của người Việt.
3
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Học thuyết Âm Dương, ảnh hưởng của nó đối với
đời sống của người Việt, văn hóa Trọng Âm của người Việt.
Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận chỉ giới hạn tìm hiểu những nội dung cơ
bản của học thuyết Âm Dương và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống
của người Việt cũng như văn hóa Trọng Âm của người Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tiểu
luận sử dụng các phương pháp sau:
Phân tích, tổng hợp
Phương pháp lịch sử và logic
Phương pháp so sánh
5. Bố cục đề tài:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề
tài gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái lược về học thuyết Âm Dương
Chương 2: Văn hóa trọng Trọng Âm của người Việt
Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực
và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của học thuyết Âm Dương trong đời sống của
người Việt hiện nay
4
- CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG
1.1. Triết lý Âm Dương: Khái niệm, nguồn gốc và bản chất
1.1.1. Khái niệm
Theo Kinh Dịch, trời đất vạn vật nói chung là một đại vũ trụ và con người
là một tiểu vũ trụ hàm chứa Âm Dương và Ngũ hành. Khởi đầu là Thái Cực,
chưa có sự biến hóa. Thái Cực này luôn vận động biến thành hai khí Âm và
Dương. Hai khí Âm Dương luôn luôn chuyển hóa làm vũ trụ vận động và vạn
vật sinh tồn. Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ
Tượng sinh Bát Quái. “Thị sinh” ở đây không có nghĩa từ cái “không” mà sinh
cái “có”, mà có nghĩa là đã có sẵn trong đó rồi, và có thể nhận thấy được khi
phân hai (sinh) mà hoạt động. Thái (lớn quá, cao quá, xa quá), Cực (tận cùng,
chỗ chấm dứt, cũng có nghĩa rất, lắm, quá nhiều, quá lớn) là nguyên lý tạo dựng
và chi phối Vũ Trụ. Lý Thái Cực là lý Nhất Nguyên Lưỡng Cực có nghĩa là
một nơi (Nhất Nguyên) khi nói chung có hai phần Âm Dương (Lưỡng Cực) khi
nói riêng. Nói ngược lại, sự hoạt động của Âm Dương là cái lý của Thái Cực.
Toàn bộ Vũ Trụ này sinh tồn là do Lý Thái Cực. Mọi vật đều do Âm Dương
tác tạo nên cũng có một Lý Thái Cực cho riêng mình. Âm Dương là khí vô
hình, có hai phần khác nhau là Âm và Dương để bù đắp cho nhau và từ đó sinh
động lực.
Khái niệm Âm Dương được hình tượng hóa bằng một vòng tròn khép kín,
đường cong chữ “S” chia đường tròn thành hai phần, trong mỗi phần có một
vòng tròn nhỏ. Ở đây, vòng tròn lớn mang ý nghĩa sự thống nhất của một sự
vật, chữ “S” cho phép sự liên hệ tương đối và chuyển hóa Âm Dương, hai vòng
tròn nhỏ biểu thị hai thái cực Âm và Dương (thiếu Âm và thiếu Dương).
Hình 1: Biểu 5tượng Âm Dương
- Âm và Dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không
gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ
cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết.
Âm Dương là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên
toàn bộ vũ trụ, mâu thuẫn thống nhất, trong Dương có mầm mống của Âm và
ngược lại.
Âm thể hiện cho những gì yếu đuối, nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính,
mềm mại. Đối lập với nó là Dương – thể hiện sự mạnh mẽ, ánh sáng, chủ động,
nam tính, cứng rắn.
1.1.2. Nguồn gốc
Âm Dương là hai khái niệm được hình thành từ cách đây rất lâu.
Lý luận về Âm Dương được viết thành văn lần đầu tiên xuất hiện trong
sách “Quốc Ngữ”. Tài liệu này mô tả Âm Dương đại biểu cho hai dạng vật chất
tồn tại phổ biến trong vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng
cỏi và một dạng có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược … Hai thế lực Âm
và Dương tác động lẫn nhau tạo nên tất cả vũ trụ. Sách “Quốc Ngữ” nói rằng
“khí của trời đất thì không sai thứ tự, nếu mà sai thứ tự thì dân sẽ loạn, dương
mà bị đè bên dưới không lên được, âm mà bị bức bách không bốc lên được thì
có động đất.”
Lão Tử (khoảng thế kỉ V-VI TCN) cũng đề cập đến khái niệm Âm Dương.
Ông nói “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương”.
Ông không chỉ tìm hiểu quy luật biến hóa âm dương của trời đất mà còn muốn
khẳng định trong mỗi sự vật đều chứa đựng những mâu thuẫn, đó là Âm Dương.
Khổng An Quốc và Lưu Hâm (Nhà Hán) cho rằng Phục Hy là người có
công sáng tạo. Tương truyền Phục Hy (2852 TCN) đi chơi ở Sông Hoàng Hà
thì nhìn thấy bức đồ bình trên lưng con Long Mã (con vật tưởng tượng mình
ngựa, đầu rồng) mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ. Phục Hy mới đem lẽ đó
vẽ thành vạch nét làm ra Hà Đồ.
Một số tài liệu khác cho rằng công lao đó thuộc về Âm Dương Gia, một
giáo phái của Trung Quốc.
6
- Nhưng Phục Hy là một nhân vật huyền thoại, không có thực còn Âm
Dương Gia chỉ có công áp dụng Âm Dương để giải thích địa lý – lịch sử, và
phái này hình thành vào thế kỉ thứ III nên không có công sáng tạo ra thuyết Âm
Dương. Vì vậy, hai giải thuyết này đều không có cơ sở khoa học.
Các nghiên cứu khoa học liên ngành Trung Quốc và Việt Nam đã kết luận
“khái niệm Âm Dương có nguồn gốc phương Nam (phương Nam ở đây bao
gồm vùng Nam Trung Hoa từ sông Dương Tử trở xuống và vùng Việt Nam).
Trong quá trình phát triển, nước Trung Hoa đã trải qua hai thời kỳ: Thời kỳ
Đông tiến và thời kỳ Nam tiến. Trong quá trình Nam tiến, người Hán đã tiếp
thu triết lý Âm Dương của các cư dân phương Nam, rồi phát triển, hệ thống hóa
triết lý đó bằng khả năng phân tích của người du mục, làm cho triết lý Âm
Dương đạt đến hoàn thiện và mang ảnh hưởng của nó tác động trở lại cư dân
phương Nam.”
Cư dân phương Nam sinh sống bằng Nông nghiệp nên quan tâm số một
của họ là sự sinh sôi nảy nở của hoa màu và con người. Sinh sản của con người
thì do hai yếu tố: cha và mẹ, nam và nữ, còn sự sinh sôi nảy nở của hoa màu thì
do đất và trời, “đất sinh trời dưỡng”. Chính vì thế mà hai cặp “mẹ-cha”, “đất-
trời” là sự khái quát đầu tiên trên con đường dẫn đến triết lý Âm Dương. Chính
từ hai cặp này, người ta mở rộng ra nhiều cặp đối lập phổ biến khác và cứ thế
nhân rộng thành vô số cặp.
1.1.3. Bản chất
Triết lý Âm Dương không phải là triết lý của các cặp đối lập. Tất cả các
dân tộc trên thế giới đều có các phạm trù đối lập nhau, ngôn ngữ của tất cả các
dân tộc đều có từ trái nghĩa. Điều quan trọng của triết lý Âm Dương chính ở
bản chất và quan hệ của hai khái niệm Âm Dương. Đó cũng chính là điều khác
biệt của triết lý Âm Dương với các triết lý khác.
1.2. Những nội dung cơ bản của học thuyết Âm Dương
1.2.1. Âm Dương đối lập
Âm Dương đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt
Âm và Dương. Theo học thuyết Âm Dương, mọi vật đều có hai mặt của nó là
7
- Âm và Dương. Hai mặt này tương tác, kiểm soát lẫn nhau để giữ trạng thái cân
bằng liên tục.
1.2.2. Âm Dương hỗ căn
Âm Dương hỗ căn là sự nương tượng lẫn nhau, bắt rễ lẫn nhau, quan hệ
chặt chẽ với nhau. Âm Dương liên kết với nhau tạo thành một thực thể, chúng
không thể thiếu nhau hoặc đứng một mình. Chúng phụ thuộc vào nhau để có
thể xây dựng nên định nghĩa và chỉ có thể được đo bằng cách so sánh với nhau.
So sánh Âm và Dương còn liên quan đến đối tượng so sánh mang tính chất
tương đối.
1.2.3. Âm Dương bình hành – tiêu trưởng
Âm Dương bình hành – tiêu trưởng là cùng vận động song song với nhau
nhưng theo hướng đối lập, cái này tăng thì cái kia giảm, cái này mất đi thì cái
kia xuất hiện.
Âm và Dương đạt được trạng thái cân bằng bởi sự tương tác và kiểm soát
lẫn nhau. Sự cân bằng không tĩnh và cũng không tuyệt đối, nhưng được duy trì
trong một giới hạn nhất định. Tại thời điểm nào đó, Âm thịnh lên, Dương giảm
đi và ngược lại.
Khi một thuộc tính phát triển đến cùng cực, nó sẽ trải qua một sự biến đổi
ngược lại thành thuộc tính đối diện “Dương cực sinh Âm, Âm cực sinh Dương”.
Sự chuyển đổi đột ngột này thường được diễn ra trong một tình huống cố định.
Sự chuyển đổi này là nguồn gốc của tất cả các thay đổi, cho phép Âm Dương
hoán đổi cho nhau (Âm Dương chuyển hóa).
Tóm lại, Âm Dương tồn tại khách quan, có sẵn trong vạn vật và chỉ mang
tính tương đối. Tất cả các đặc điểm của triết lý Âm Dương đều tuân theo hai
quy luật cơ bản: Quy luật về bản chất của các thành tố và Quy luật về quan hệ
giữa các thành tố.
1.2.4. Hai quy luật cơ bản
Quy luật về bản chất của các thành tố
Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là Âm hay Dương chỉ là tương
đối, trong sự so sánh với một vật khác. Chính vì thế việc xác định tính Âm
8
- Dương của các cặp đối lập có sẵn thường dễ dàng, nhưng đối với các vật đơn
lẻ lại khó khăn. Cho nên, có hai căn cứ giúp so sánh tính Âm Dương của cùng
một đối tượng, đó là: Đối tượng so sánh và cơ sở so sánh.
Quy luật về quan hệ giữa các thành tố
Quy luật này cho thấy Âm Dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và
chuyển hóa cho nhau. Âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành Dương,
Dương phát triển đến cùng cực thì chuyển thành Âm.
1.2.5. So sánh với các quy luật logic học
Trong logic học cũng có hai quy luật tương đương với hai quy luật trên.
Đó là quy luật về bản chất của thành tố. Đó là quy luật về bản chất các thành tố
- luật đồng nhất và quy luật về quan hệ giữa các thành tố - luật lý do đầy đủ mà
hệ quả của nó là luật nhân quả.
Luật đồng nhất (bản chất A = A) chỉ đúng khi sự vật và hiện tượng đứng
yên, mà điều này thì không biện chứng vì sự vật và hiện tượng luôn luôn vận
động (đổi mới), mà nếu vận động thì nó không thể nào là chính nó nữa. Trong
khi đó quy luật về bản chất triết lý Âm Dương là trong Âm có Dương, trong
Dương có Âm, tức là trong A đã có B rồi.
Luật lý do đầy đủ xác lập nên luật nhân quả cũng chỉ xem xét sự vật, hiện
tượng trong sự cô lập, không liên hệ với môi trường xung quanh, trong khi trên
thực tế, sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong không gian và có liên hệ với các sự
vật hiện tượng khác. Cái này là nhân của cái kia nhưng là quả của cái khác.
Không có nhân tuyệt đối và quả tuyệt đối rất phù hợp với quy luật chuyển hóa
âm dương bất tận, vô thủy (không có bắt đầu) và vô chung (không có kết thúc).
Hai quy luật của logic là sản phẩm của lối tư duy phân tích, chú trọng đến
các yếu tố biệt lập của văn hóa du mục, trong khi quy luật của triết lý Âm
Dương là điển hình của tư duy tổng hợp, chú trọng đến các quan hệ của văn
hóa nông nghiệp.
1.3. Hai hướng phát triển của học thuyết Âm Dương
Học thuyết Âm Dương là cơ sở để xây dựng nên hai hệ thống học thuyết
khác đó là hệ thống Tam Tài, Ngũ Hành và Tứ Tượng, Bát Quái. Đó cũng chính
9
- là hai hướng phát triển khác nhau trong quá trình phát triển của học thuyết này,
tạo nên tính dân tộc của học thuyết.
1.3.1. Hệ thống Tam Tài, Ngũ Hành
1.3.1.1. Tam Tài
Tam Tài là một khái niệm bộ ba gồm “Thiên – Địa – Nhân”. Với lối tư
duy tổng hợp và biện chứng quen thuộc, người xưa sớm nhận ra các cặp Âm
Dương tưởng chừng như riêng rẽ như Trời – Đất, Trời – Người, Đất – Người
thực ra có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một loại mô hình hệ thống
gồm ba thành tố. Đây có lẽ là con đường dẫn đến Tam Tài từ triết lý Âm Dương.
Trong Tam Tài, Trời là Dương, Đất là Âm, Người ở giữa.
Hình 2: Minh họa mô hình Tam Tài
1.3.1.2. Ngũ Hành
Thuyết Ngũ Hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã
giới thiệu trong thuyết Âm Dương, nhưng bổ sung và làm cho thuyết Âm
Dương hoàn chỉnh hơn, để xem xét mối tương tác và quan hệ của vạn vật. Ngũ
Hành xây dựng mô hình 5 yếu tố về cấu trúc không gian vũ trụ.
Học thuyết Ngũ Hành diễn giải sự sinh hoá của vạn vật qua hai nguyên lý
cơ bản còn gọi là tương sinh và tương khắc trong mối tương tác và quan hệ của
chúng. Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh
Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc
10
- Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Như vậy
tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ kết hợp thành hệ chế hoá, biểu
thị mọi sự biến hóa phức tạp của sự vật.
Hình 3: Hình Ngũ Hành
1.3.2. Hệ thống Tứ Tượng, Bát Quái
1.3.2.1. Tứ Tượng
Âm Dương gọi là Lưỡng Nghi, là 2 nguyên lý. Từ Lưỡng nghi sẽ sinh ra
Tứ Tượng là 4 thể trạng, theo nguyên tắc chồng hai vạch lên nhau. Xét vạch từ
dưới lên, sẽ có Tứ Tượng lần lượt là
Hai vạch Dương, gọi là Thái Dương
Dương – Âm gọi là Thiếu Dương
Âm – Dương gọi là Thiếu Âm
Hai vạch Âm, gọi là Thái Âm
Trong thiên văn tương ứng:
Thái Dương : Mặt trời (Nhật): rất nóng, bầu trời sáng
Thái Âm : Mặt trăng (Nguyệt): lạnh, bầu trời tối đen
Thiếu Âm : Định tinh (Tinh): không chuyển động, lạnh
Thiếu Dương – Hành tinh (Thần): chuyển động trên bầu trời
Vì vậy còn gọi Nhật Nguyệt tinh thần là Tứ Tượng, và vị trí của chúng
cũng gọi là Tượng Trời.
11
- Thái Dương là Dương cực thịnh, Thiếu Dương là Dương đã suy bớt,
nhưng vẫn mạnh hơn Âm. Thiếu Âm là Âm đã mạnh hơn Dương, Thái Âm là
Âm cực thịnh.
Bốn Tượng này cũng là bốn giai đoạn của một chu trình khép kín. Trong
năm, mùa xuân là Thiếu Dương, khí ấm áp tăng dần; Mùa hạ là Thái Dương,
nóng đến cực đại; Mùa thu là Thiếu Âm, khí lạnh đang về, Mùa đông là Thái
Âm, lạnh cực đại.
Trong chu kỳ của một con người hay sinh vật: giai đoạn đầu tăng trưởng
từ từ, là Thiếu Dương, đến thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ (dậy thì ở con người)
là Thái Dương, đến cực đại khi trưởng thành toàn vẹn, rồi suy dần dần là Thiếu
Âm, cuối cùng là suy sụp nhanh chóng, là Thái Âm.
Nhưng trong Âm có Dương và ngược lại. Trong mùa hè, khi nóng nực
nhất vẫn có khí lạnh, trong mùa đông, khi lạnh nhất vẫn có hơi ấm. Khi con
người phát triển mạnh mẽ nhất, thì hàng ngày vẫn có hàng triệu tế bào bị suy
thoái và chết đi, có điều sự tăng trưởng mạnh hơn rất nhiều sự suy thoái; tương
tự, trong thời kỳ già ốm, vẫn có những tế bào được sinh ra, nhưng không thắng
được sự triệt tiêu. Có chăng chỉ là làm giảm quá trình suy sụp.
Trong một con người, có đặc tính Dương và đặc tính âm. Nếu xét theo
quan niệm hiện đại, thì mỗi con người đều được kết hợp từ nhiễm sắc thể của
mẹ và của cha, đó là cái khởi nguồn Âm Dương, nhưng với sự nổi trội hơn của
nhiễm sắc thể X hay Y, mà đứa trẻ sinh ra là trai hay gái. Tuy vậy trong cơ thể
sẽ không bao giờ thiếu yếu tố của cả nam và nữ.
Khi tiếp nhận Phật giáo, bốn giai đoạn này với con người có thể được hiểu
là Sinh Lão Bệnh Tử, với sự vật là Sinh Trụ Dị Diệt, với Vũ trụ là Thành Trụ
Hoại Không. Tuy vậy cũng không hoàn toàn đồng nhất, vì đây là hai tư tưởng
triết học của hai nền văn minh khác nhau.
Như vậy Vận động là có tính khép kín, vòng tròn. Vì thế người phương
Tây cho rằng triết học phương Đông có dạng vòng tròn.
12
- 1.3.2.2. Bát Quái
Bát Quái là 8 quẻ được sử dụng trong vũ trụ học của Đạo gia, đại diện cho
các yếu tố cơ bản của vũ trụ, được xem như là một chuỗi tám khái niệm có liên
quan với nhau. Mỗi quẻ gồm ba hàng, mỗi hàng là nét rời (được gọi là Hào âm)
hoặc nét liền (được gọi là Hào dương), tương ứng đại diện cho âm hoặc dương,
bao gồm: Quẻ Càn (☰), quẻ Khôn (☷), quẻ Đoài (☱), quẻ Ly (☲), quẻ Chấn
(☳), quẻ Tốn (☴), quẻ Khảm (☵), quẻ Cấn (☶).
Hình 4: Hình Bát Quái
Bát Quái có liên quan đến triết học Thái Cực và Ngũ Hành. Thời cổ đại,
nó được ứng dụng rộng rãi trong thiên văn học, chiêm tinh học, phong thủy, y
học cổ truyền và rất nhiều lĩnh vực khác. Các quẻ bát quái được sắp xếp theo
thứ tự nhất định để tạo nên vòng tròn bát quái đồ. Trong mỗi quẻ bát quái đều
có những hình vẽ riêng, tên gọi riêng và mang đặc trưng của từng hiện tượng
thiên nhiên, đời sống của con người.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương 1 tìm hiểu những nét cơ bản về khái niệm, quá trình hình thành,
những nội dung và quy luật cơ bản cũng như hai hướng phát triển của học
thuyết Âm Dương. Có thể thấy học thuyết Âm Dương là một học thuyết duy
vật, có cơ sở chứ không phải là học thuyết duy tâm. Hiểu được những nội dung,
những quy luật cơ bản của học thuyết Âm Dương sẽ giúp ích trong việc vận
dụng học thuyết này một cách có hiệu quả ở các lĩnh vực trong đời sống.
13
- CHƯƠNG 2: VĂN HÓA TRỌNG ÂM CỦA NGƯỜI VIỆT
2.1. Khái lược về văn hóa người Việt
2.1.1. Những nét khác biệt giữa văn hóa phương Đông với văn hóa
phương Tây
Do sự hình thành và kiến tạo các mảng đất mà thế giới hình thành nên hai
lục địa chính thuở sơ khai có người sinh sống đó chính là Châu Âu và Châu Á.
Những phần lục địa còn lại thường là nơi ở của nhiều bộ lạc, dân tộc thiểu số…
và chỉ được biết đến từ sau thế kỉ thứ X khi được các nhà thám hiểm phát hiện
ra. Chính vì điều này mà thế giới dần hình thành nên hai luồng văn hóa chính
là phương Đông và phương Tây. Hai nền văn hóa có những đặc điểm cơ bản
được phân biệt theo những tiêu chí cơ bản dưới đây.
Tiêu chí Văn hóa phương Đông Văn hóa phương Tây
Địa hình, khí hậu đồng bằng, nóng, ẩm, thảo nguyên, lạnh, khô,
thấp cao
Nghề nghiệp chính trồng lúa nước chăn nuôi du mục
Cách sống (nơi ở) định cư, nhà ở ổn định du cư, cắm trại, lều tạm
bợ
Quan hệ với tự nhiên gắn bó, hòa hợp chiếm đoạt, khai thác
Ăn uống đồ ăn thực vật đồ ăn động vật
Quan hệ xã hội trọng tình, trọng đức, trọng lý (nguyên tắc),
trọng văn, dân chủ, trọng trọng tài, trọng võ, trọng
tập thể cá nhân
Giao lưu đối ngoại hiếu hòa, dung hợp, hiếu chiến, độc tôn, cứng
mềm dẻo khi đối phó rắn bằng bạo lực
Đặc điểm tư duy chủ quan, cảm tính, kinh khách quan, lý tính, thực
nghiệm, tổng hợp và nghiệm, phân tích và siêu
biện chứng hình
Văn học nghệ thuật thiên về thơ, nhạc trữ thiên về truyện, kịch, múa
tình sôi động
14
- Xu hướng khoa học thiên văn, triết học tâm khoa học tự nhiên, kỹ
linh, tôn giáo thuật
Khuynh hướng chung thiên về văn hóa nông thiên về văn minh thành
thôn thị
2.1.2. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam có những nét phổ biến mang tính đặc trưng của văn
hóa phương Đông nói chung và có những nét riêng biệt, đặc thù. Những đặc
trưng cơ bản riêng biệt này được hình thành, đúc kết, bảo lưu, phát triển từ điều
kiện địa lý tự nhiên, lịch sự, chính trị - kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nhiều
học giải, nhà nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học, Văn hóa học, Văn hóa
Việt Nam đã có nhiều ý kiến đa chiều về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tạo nên
bức tranh phong phú, nhiều màu sắc, đôi khi là tương phản, nhưng tổng hợp
lại, văn hóa Việt Nam có những nét đặc trưng tương đối khái quát, thể hiện ở
năm đặc điểm1 sau:
Một là, tính cộng đồng làng xã, thể hiện rõ ở sáu phẩm chất: Tính đoàn
kết, giúp đỡ; Tính tập thể thương người; Tính dân chủ, làng xã; Tính trọng thể
diện; Tình yêu quê hương, làng xóm; Lòng biết ơn. Bên cạnh những phẩm chất
tốt, tính cộng đồng làng xã cũng để lại nhiều tật xấu trong văn hóa: Thói dựa
dẫm; Thói cào bằng, chụp mũ; Bệnh sĩ diện, háo danh; Bệnh thành tích; Bệnh
phong trào; Bệnh hình thức ...
Hai là, tính trọng âm. Bảy phẩm chất tốt được biểu hiện trong tính trọng
âm là: Tính ưa ổn định; Tính hiền hòa, bao dung; Tính trọng tình, đa cảm; Thiên
hướng thơ ca; Tính trọng nữ; Sức chịu đựng, nhẫn nhịn; Lòng hiếu khách. Bên
cạnh đó, tính trọng âm cũng là mảnh đất hình thành những bệnh xấu như: Bệnh
thụ động, khép kín; Bệnh lề mề, chậm chạp; Bệnh tủn mủn, thiếu tầm nhìn;
Bệnh sùng ngoại ...
1
Theo GS.TS. Trần Ngọc Thêm
15
- Ba là, tính ưa hài hòa, thể hiện ở bốn phẩm chất: Tính mực thước; Tính
ung dung; Tính vui vẻ, lạc quan; Tính thực tế. Tuy nhiên, tính ưa hài hòa cũng
gây mặt hạn chế, như: Bệnh đại khái, xuề xòa; Bệnh dĩ hòa vi quý; Bệnh trung
bình chủ nghĩa; Bệnh nước đôi, thiếu quyết đoán...
Bốn là, tính kết hợp, thể hiện ở hai khả năng: Khả năng bao quát tốt; Khả
năng quan hệ tốt. Mặt trái của tính kết hợp này cũng tạo ra những hậu quả xấu
như: Thói hời hợt, thiếu sâu sắc; Bệnh sống bằng quan hệ…
Năm là, tính linh hoạt. Biểu hiện của tính linh hoạt được thể hiện ở 2 phẩm
chất tốt: Khả năng thích nghi cao; Tính sáng tạo. Tính linh hoạt nhiều khi cũng
dẫn đến hậu quả xấu như: Thói tùy tiện, cẩu thả; Bệnh thiếu ý thức pháp luật…
Tổng hợp 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam ta thấy phẩm chất, giá
trị cốt lõi tốt nhất là lòng yêu nước; tinh thần dân tộc; lòng nhân ái, thương
người; tính cộng đồng làng xã; tính tinh tế.
2.2. Văn hóa Trọng Âm của người Việt
Như đã đề cập ở trên, một trong số những đặc trưng cơ bản của văn hóa
Việt Nam là tính Trọng Âm (thiên nhiều về tính Âm hơn tính Dương). Trong
khuôn khổ bài tiểu luận này, tính Trọng Âm sẽ được tìm hiểu qua hai khía cạnh:
Đời sống vật chất và Đời sống tinh thần của người Việt.
2.2.1. Về đời sống vật chất, sinh hoạt
Trong đời sống vật chất, sinh hoạt hằng ngày, tính Trọng Âm được thể
hiện ở một số khía cạnh cụ thể sau đây.
Thứ nhất, ở Việt Nam, hầu hết đàn ông đi xe máy nữ. Chúng ta sử dụng
nó một cách vô cùng tự nhiên vì nó hợp với bản chất của chúng ta. Điều này
hiếm thấy ở các nước phương Tây vì họ cho rằng, xe máy nữa chỉ giành cho
phụ nữ - phái yếu. Còn nam giới thì phải sử dụng mô tô để thể hiện sự nam tính
và nét đặc trưng của mình.
Thứ hai, người Việt Nam hay có sở thích ăn uống. Đó là lý do vì sao
chúng ta thường thấy quán xá đủ kiểu lớn nhỏ mọc lên khắp nơi. Thường thì
đặc điểm hay la cà ăn uống là đặc điểm của phụ nữ. Tuy nhiên, ở đây các hàng
16
- quán ăn vặt xuất hiện các vị khách cả nam lẫn nữ. Đấy cũng là một biểu hiện
thiên về âm tính của người Việt.
Thứ ba, những công trình, sản phẩm của người Việt làm ra thường có xu
hướng nhỏ, tinh xảo, tỉ mỉ, hiếm khi chuộng cái to lớn, khổng lồ. Điều này khác
với những nét văn hóa Trọng Dương khi những sản phẩm được làm ra thường
có khuynh hướng to lớn, khổng lồ, vĩ đại, cao ngất. Chính sự thiên về âm tính
này làm cho người Việt thường kinh doanh buôn bán nhỏ, suy nghĩ nhỏ, ước
muốn nhỏ, cất nhà nhỏ và làm những kế hoạch nhỏ.
Thứ tư, trong đời sống hằng ngày, trước khi khởi sự, người Việt thường
có thói quen xem lịch để biết ngày giờ hoàng đạo vì họ tin rằng, công việc được
tiến hành vào giờ hoàng đạo sẽ có kết quả mỹ mãn hơn. Đây là một nét truyền
thống có từ lâu đời và cho đến nay, nó vẫn còn được duy trì.
2.2.2. Về đời sống tinh thần
Trong đời sống tinh thần người Việt, tính Trọng Âm được thể hiện ở nhiều
góc nhìn khác nhau.
Một là, người Việt thích sự ổn định. Điều này đúc kết trong những câu tục
ngữ còn lưu lại đến nay như “An cư lạc nghiệp”, “Yên bề gia thất”. Tức là trong
hệ tư tưởng của họ, hai yếu tố “an” và “yên” rất quan trọng. Điều này khác với
lối suy nghĩ Trọng Dương ở phương Tây vì người phương Tây họ ưa sự di
chuyển, tìm tòi, trải nghiệm, không thích sự bó buộc.
Hai là, người Việt tính hiền hòa, bao dung. Điều đó thể hiện bằng lối suy
nghĩ “Dĩ hòa vi quý”, hay tư tưởng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí
nhân để thay cường bạo.”2 Người Việt – với bản chất hiền hòa – luôn chủ trương
đối nhân xử thế dựa trên sự bao dung, rộng lượng.
Ba là, người Việt trọng tình, đa cảm. Đối với người Việt, mỗi khi xử lý
các vấn đề gì, họ luôn cân nhắc giữa hai bên tình và lý, ít khi nào chỉ xử lý công
việc hoàn toàn bằng lý trí. Thậm chí, trong một số tình huống nhất định, họ có
khuynh hướng đặt yếu tố tình cảm lên trên. Đó là lý do vì sao, chúng ta thường
2
Theo Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi
17
- nghe những câu ca dao như: “Một trăm cái lý cũng không bằng một tý cái tình”,
“Đưa nhau đi đến cửa quan. Bên ngoài là lý, bên trong là tình”, hay “Của tiền
có có không không. Có tình có nghĩa còn mong hơn tiền.”
Bốn là, người Việt có tính trọng nữ. Từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn
được xem là người tay hòm chìa khóa trong gia đình, họ là người có trách nhiệm
quản lý kinh tế và nuôi dạy con cái trong gia đình. Tục ngữ Việt Nam có không
ít những câu như thế này, như “Nhất vợ nhì trời”, “Ruộng sâu trâu nái không
bằng con gái đầu lòng” hay “Phúc đức tại mẫu”, “Con dại cái mang”… Vì tầm
quan trọng của phụ nữ, trong tiếng Việt, từ “cái” vốn nghĩa gốc là “mẹ” đã được
hiểu thành “lớn, quan trọng, chủ yếu” như: sông cái, đường cái, đũa cái, cột cái,
ngón tay cái...
Năm là, người Việt có thiên hướng thơ ca. Kurt Stern3 trong lời tựa một
tập thơ Việt Nam dịch ra tiếng Đức có nhận xét rằng “Việt Nam là đất nước
của thơ ca và chiến tranh”. Người Việt Nam, hầu như ai cũng biết làm thơ. Văn
hóa gốc nông nghiệp trọng âm, trọng tình cảm tất yếu sẽ có khuynh hướng thiên
về thơ. Đồng thời, văn hóa nông nghiệp với bản tính tĩnh tất thiên về trình bày
các nội dung tâm lý, tình cảm với bút pháp biểu trưng và lối diễn đạt cân xứng
nhịp nhàng – tất cả những đặc trưng đó chỉ có thể tìm thấy sự biểu hiện tập
trung trong thơ.
Sáu là, người Việt có sức chịu đựng, nhẫn nhịn. Lịch sử dân tộc Việt Nam
qua các thời kỳ đã chứng minh điều đó hết sức rõ ràng. Trong những cuộc đấu
tranh chống xâm lược phương Bắc, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, người Việt đã
thể hiện tinh thần bền bỉ, nhẫn nại. Dù cho kẻ thù có mạnh đến đâu, người Việt
vẫn đấu tranh với tinh thần “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” 4.
Trong cuộc sống thường ngày, người Việt Nam cũng đặc biệt đến giá trị của sự
kiên trì, nhẫn nại và kinh nghiệm ấy được đúc kết qua các câu ca dao, tục ngữ
như “Có chí thì nên”, “Mưu cao chẳng bằng chí dày”, “Thua keo này bày keo
khác” hay “Có công mài sắt có ngày nên kim”…
3
Là một nhà văn người Đức
4
Theo Thơ chúc Tết của Bác Hồ, năm 1947
18
- Bảy là, người Việt có lòng hiếu khách. Có khách đến nhà, dù quen hay lạ,
thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu, cũng cố gắng tiếp đón chu đáo
và tiếp đãi thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt nhất, đồ ăn ngon nhất:
“Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi”, bởi lẽ “Đói năm, không ai đói bữa”. Tính
hiếu khách này càng tăng lên khi ta và những miền quê hẻo lánh, những miền
rừng núi xa xôi.
2.3. Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của văn hóa Trọng Âm
đến đời sống của người Việt
Văn hóa Trọng Âm của người Việt ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và cái xấu,
giá trị và phản giá trị.
Nói về những giá trị tích cực, có thể thấy văn hóa Trọng Âm tạo cho người
Việt có tính cách hài hòa, mềm dẻo, linh hoạt, trọng tình trọng nghĩa, tinh thần
đoàn kết và hướng tới cộng đồng. Có thể thấy trong cuộc sống hàng ngày, người
Việt khá mềm dẻo và linh hoạt, luôn biết cách thích nghi tốt với điều kiện sống
xung quanh. Người Việt hiền hòa, bao dung nên cách đối nhân xử thế của họ
cũng được đánh giá rất cao. Người Việt nhận thức rõ vai trò của người phụ nữ
và trân trọng người phụ nữ bởi những hy sinh cũng như vai trò của họ. Người
Việt nhìn chung có tinh thần bền bỉ, nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh. Điều đó dễ
dẫn đến thành công trong cuộc sống. Người Việt có lòng hiếu khách, từ đó dễ
xây dựng được những mối quan hệ hữu nghị, hợp tác và tạo được sự gắn bó
trong cộng đồng. Ngoài ra, với khuynh hướng thiên về thơ ca, người Việt sẽ có
cái nhìn lạc quan hơn về cuộc sống, từ đó có được nguồn năng lượng tích cực,
yêu đời.
Tuy nhiên, văn hóa Trọng Âm cũng có hạn chế nhất định. Người Việt hay
căn cứ vào lịch vạn sự để triển khai các công việc hàng ngày là không sai. Tuy
nhiên, nếu lạm dụng quá mức sẽ dẫn đến tình trạng mê tín, làm việc gì cũng
phải bị phụ thuộc vào lịch. Tính trọng tình nhiều khi dẫn đến nguy cơ nhìn nhận
và xử lý công việc một cách cảm tính, thiếu khách quan, không hiệu quả. Thêm
nữa, việc người Việt thích sự ổn định có thể dẫn đến suy nghĩ sợ thay đổi, chỉ
biết hài lòng với những gì mình đang có, thiếu tinh thần cầu tiến. Ngoài ra tính
19
nguon tai.lieu . vn