Xem mẫu
- Tiểu luận
Tình hình khai thác than
ở Quảng Ninh
- Môc lôc
Lời mở đầu 2
I. nhìn chung khai thác than ở Q uảng Ninh 3
II. thực trạng ô nhiễm môi trường do khai thác than đá 6
II.1 ô nhiễm không khí vì b ụi than 6
II.2 nước thải mỏ_ô nhiễm nguồn nước 7
II.3 Ô nhiễm đất 8
II.4 tác động đến địa hình, cảnh quan 9
III. Quản lí của cơ quan nhà nước trong khai thác than Quảng Ninh 10
III.1 Tích cực 10
III.2 H ạn chế 11
IV. K ết Luận, kiến nghị 12
Tài liệu tham khảo 14
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 2
- Lời mở đầu
Trong những năm qua “gần đây” nhờ đ ường lối đổi mới kinh tế của Đảng
và Nhà nước đ ã, đang tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển nhanh
chóng, vững chắc và mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển kinh tế thì kéo theo nó các
vấn đề môi trường diễn ra ngày càng phức tạp. Nguy cơ môi trường đang ở tình
trạng báo động ở những quốc gia đang phát triển, nơi nhu cầu cuộc sống ngày càng
xung đột mạnh mẽ với sự cần thiết phải b ảo vệ tài nguyên nhiên và môi trường.
Nhưng do môi trường là một khái niệm có nội hàm vô cùng rộng lớn và phức tạp
nó chứa đựng rất nhiều vấn đề như: Ô nhiễm không khí, nước, đất, tiếng ồn…..
Bất kỳ hoạt động kinh tế xã hội cũng như trong đời sống sinh hoạt con người
đều phải sử dụng các nguồn năng lượng khác nhau. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ về
khoa học kỹ thuật trong việc tìm kiếm nguồn năng lượng mới, song chúng chưa thể
thay thế cho nhiên liệu hoá thạch và có khả năng cạn kiệt bất cứ lúc nào như than
đá d ầu mỏ. Quá trình khai thác và đốt cháy các nhiên liệu hoá thạch có ảnh hưởng
rất lớn đến môi trường đặc biệt. N ếu như quá trình đốt cháy than tạo ra các khí nhà
kính thì quá trình khai thác than lại gây ô nhiễm, suy thoái, và có những sự cố môi
trường diễn ra ngày càng phức tạp đặt con người trước sự trả thù ghê gớm của
thiên nhiên đã ảnh hưởng trở lại tới phát triển kinh tế của con người.
Hoạt động khai thác than có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp
CNH- HĐH đất nước, xong việc khai thác thiếu quy hoạch tổng thể không quan
tâm đ ến cảnh quan môi trường đ ã và đ ang làm biến động nguồn tài nguyên thiên
nhiên như mất dần đất canh tác, giảm diện tích rừng gây ô nhiểm nguồn nước bao
gồm nước mặt, nước ngầm và cả ô nhiểm biển ảnh hưởng tới tài nguyên sinh vật
và sức khoẻ cộng đồng. Vì vậy,việc chống ô nhiễm môi trường là một bài toán vô
cùng phức tạp và khó khăn đồi hỏi mọi người cùng tham gia thì mới hy vọng giảm
thiểu ô nhiễm.
Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường do khai thác không chỉ là trách nhiệm
của doanh nghiệp mà dó còn là trách nhiệm của toàn xã hội và toàn cộng đồng
trong đó yếu tố quyết định là ý thức của cộng đồng và sự quản lý, hướng dẫn của
cơ quan quản lý nhà nước. Q ua việc khảo sát nghiên cứu thưc trạng ô nhiễm môi
trường do khai thác than đá tại Quảng Ninh cùng với đó là cách xử lí bằng các
chính sách, chiến lược, quyết định của cơ quan quản lý nhà nước giúp tôi học và
hiểu sâu hơn về bộ môn quan trọng là quản lí môi trường đã được đào tạo.
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 3
- I. nh×n chung « nhiÔm khai th¸c than qu¶ng
ninh:
Quảng Ninh có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng, có nhiều
loại đặc thù, trữ lượng lớn, chất lượng cao mà nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước
không có được như: than, cao lanh, đất sét, cát thủy tinh, đá vôi… 90% trữ lượng
than của cả nước thuộc về tỉnh Quảng Ninh. Đây chính là đ ặc điểm hình thành
vùng công nghiệp khai thác than từ rất sớm. Vùng khai thác than, chế biến, tiêu thụ
than có phạm vi rất lớn, trải dài từ Đông Triều, Uông Bí, Hoành Bồ, Hạ Long và
Cẩm Phả.Tuy nhiên, ho ạt động khai thác than luôn có những diễn biến phức tạp,
gây tác động xấu đến nhiều lĩnh vực.
Một điểm khai thác than "thổ
M ột lò than thổ phỉ mới phát
phỉ" (Quảng Ninh )
h iện tại phường Cao Xanh - TP Hạ
Long
Khai thác than trái phép ở KM6, Tiêu thụ than tại cảng Cẩm Phả
thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh)
D o tốc độ khai thác than tăng nhanh nhưng các doanh nghiệp thuộc Tập
đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) lại không đầu tư thiết bị
sản xuất tương xứng và hoàn nguyên môi trường sau khai thác. Đ iều đó, đã làm
cho môi trường ở Quảng Ninh bị huỷ hoại, tàn phá nặng nề, và người dân nơi đây
đang từng ngày phải đương đ ầu, gánh chịu hậu quả.
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 4
- V iệc khai thác than trong nhiều năm qua, đã gây ra những biến động xấu
về môi trường. Tại các vùng khai thác than đã xuất hiện những núi đất, đá thải cao
gần 200m, những moong khai thác sâu khoảng 100m. Để sản xuất 1 tấn than, cần
bóc đi từ 8 đến 10 m3 đất phủ, thải từ 1 đến 3m3 nước thải mỏ. Khối lượng chất
thải rắn và nước thải mỏ gây ô nhiễm nặng cho vùng mỏ. Một vài vùng ô
nhiễm đã đến mức báo động như Mạo Khê, Uông Bí, Cẩm Phả...
V iệc khai thác than ở Quảng Ninh đã phá huỷ hàng trăm km2 rừng, tạo ra
xói mòn, bồi lấp ở các sông suối và làm ô nhiễm Vịnh Hạ Long. Một số mỏ than
còn sử dụng công nghệ khai thác lạc hậu, thiếu chương trình khoa học tổng thể để
xác định sự cần thiết về tăng trưởng công suất cho phù hợp với các yêu cầu bảo vệ
môi trường. Do đó, môi trường đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tác động
xấu, nước bị ô nhiễm nặng bởi chất thải rắn lơ lửng, vi trùng và bụi trong không
khí v.v...
Để có sản lượng nhảy vọt, vượt công suất thiết kế, nhiều đơn vị đã chạy
đua lộ thiên hoá dù đ ã được quy hoạch là khai thác theo công nghệ hầm lò. Trong
khi đó, công nghệ khai thác lộ thiên được đánh giá là gây tác hại rất lớn về ô nhiễm
môi trường, hạn chế độ sâu khai thác. Đến thời điểm này, nhiều mỏ lộ thiên đ ã âm
quá giới hạn cho phép là -300m (so với mặt biển), nhưng vẫn tiếp tục khoan thăm
dò khai thác, bất chấp những tác hại về cấu tạo địa chất, làm tiền đề cho những
thảm họa khác như lở đất, nhiễm mặn và biến đổi sinh thái.
H iện nay trong khu vực Hòn Gai - Cẩm Phả có khoảng 30 mỏ than lớn
nhỏ đang hoạt động, bình quân khoảng 2.000ha, có 1 mỏ với tổng diện tích là
175km2, chiếm 28,7% tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố Hạ Long và thị xã
Cẩm Phả. Trong giai đoạn 1970 - 1 997, các hoạt động khai thác than ở Hòn Gai,
Cẩm Phả đã làm mất khoảng 2.900ha đất rừng các loại (trung bình mỗi năm mất
100 - 110ha) , trong đó khoảng 2.000ha bị mất do mở vỉa, đổ đất đá thải. Độ che
phủ rừng tự nhiên từ 33 ,7% năm 1970 giảm xuống 6,7% (1985) và 4,7% (1997)
Bảng 3. Biến động độ che phủ rừng khu vực Hòn Gai - Cẩm Phả
Đ ơn vị: %
Nguồn: Trần Yêm, Luận án Tiến sĩ, 2000
Tại khu vực Cẩm Phả, trước năm 1975 việc khai trường được mở rộng chủ
yếu về phía tây - nam (khoảng 100ha) và phía tây (25ha). Sau 1975 việc khai
trường và bãi thải phát triển về phía bắc khoảng 435ha, phía tây - bắc 265ha và
phía đông 75ha.
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 5
- Bảng 4. Diện tích khai trường, bãi thải và diện tích đổ thải ra vùng biển
Cẩm Phả
Đơn vị:
ha
Nguồn: Nguyễn Địch Dĩ, 2003
Một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nhất, đó là huyện
Đông Triều, vùng trọng điểm lúa của tỉnh:gần 7.000 ha lúa và hoa màu ở Đông
Triều (Quảng Ninh) đang đối mặt với nạn hạn hán và thiếu nước nghiêm trọng
trong khi nhiều hồ thủy lợi lớn bị ô nhiễm, tài nguyên rừng bị suy thoái , gây cạn
kiệt d òng sinh thuỷ, gây ngập úng và hạn hán cục bộ, làm bồi lắng lòng hồ, ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống dân sinh các khu vực lân cận. Trong tổng số 25 hồ
chứa nước ở huyện Đông Triều đã có gần một nửa bị bồi lấp, nguồn nước bị chua
hoá từ quá trình sản xuất than gây ra, trong đó có nhiều hồ bị chua hoá nặng, độ
PH đ ều ở mức d ưới 3,5 (PH tiêu chuẩn từ 5 – 5,5).Tình trạng ô nhiễm nguồn nước
đang âm thầm huy hoại năng suất cây trồng, vật nuôi và nguy cơ bị cắt đứt to àn bộ
nguồn thuỷ sản trong tương lai gần.
Coi thường luật pháp
Đặc điểm của ngành khai thác than đòi hỏi chiếm dụng một quỹ đất rất lớn để làm
khai trường và làm nơi tập kết chất thải. Trong khi đó, khu vực sản xuất than hầu
hết đều rất gần với đô thị, khu dân cư và các vùng sản xuất khác, nghĩa là đất đai
không chỉ dành riêng cho ngành Than. Thế nhưng, qua cuộc thanh tra thí điểm do
Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện tại một số đ ơn vị ngành Than dạo trước
Tết Nguyên đán, cho thấy tình hình sử dụng đất rất tuỳ tiện. Điển hình: Công ty
Than Hà Tu vượt 113ha, Xí nghiệp Than Tân Lập (Công ty Than Hòn Gai) chỉ
thuê 1,4ha nhưng sử dụng đến 10 ha, vỉa 14 Công ty Than Hà Lầm cũng vượt
10ha.
Cũng tại cuộc thanh tra này cho thấy hầu hết các đơn vị đều không có giấy phép
khai thác than, không ký quỹ phục hồi môi trường và đ ất đai sau khai thác và khi
đóng cửa mỏ, xâm phạm nghiêm trọng Luật Khoáng sản, Luật Môi trường. Đó là
các trường hợp như: Xí nghiệp Khai thác than 148 (Tổng Công ty Đông Bắc), Xí
nghiệp Than Giáp Khẩu (Công ty Than Hòn Gai), Công ty TNHH m ột thành viên
Than Hồng Thái (Công ty Than Uông Bí), Công ty Cổ phần đầu tư Thương mại và
Dịch vụ, Công ty TNHH một thành viên Nước khoáng Công đoàn Quanh Hanh.
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 6
- Cá biệt Công ty TNHH một thành viên Than Hồng Thái thu gom, quản lý chất thải
rắn tại mặt bằng cửa lò +250 vỉa 46 đã không thực hiện đúng nội dung báo cáo
đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt.
Cần ghi nhận ngành Than có những đóng góp rất quan trọng trong chỉ số tăng
trưởng GDP ngành Công nghiệp Quảng Ninh. Nhưng cũng phải nói thêm rằng, nếu
ngành Than đóng góp 1 đồng cho kinh tế địa phương thì địa phương phải bỏ ra
nhiều đồng nếu muốn tái tạo hoàn nguyên, khắc phục ô nhiễm môi trường. V à nếu
việc khai thác chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt, sản lượng tăng không giới hạn thì
chỉ nay mai thôi, nguồn "vàng đen" sẽ cạn kiệt, nước ta sẽ phải... nhập khẩu than.
Vì lẽ trên, giữa tỉnh và ngành Than cần xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ trong
lĩnh vực đưa hoạt động khai thác khoáng sản vào khuôn khổ quản lý theo pháp luật
Nhà nước. Đã đ ến lúc cần đặt mục tiêu phát triển bền vững lên hàng chính yếu.
Ii. thùc tr¹ng « nhiÔm m«i trêng do khai
th¸c than ®¸:
Các mỏ than đang hoạt động phần lớn phân bố trên các dãy núi phía Bắc
đường quốc lộ 18A từ Mạo Khê đến Mông Dương. Hoạt động sản xuất (khai thác,
vận chuyển, chế biến, kho bãi, bến xuất) xen lẫn các khu dân cư, lân cận với các đô
thị, các khu kinh tế trọng điểm, thượng nguồn sông suối, các hệ sinh thái nhạy cảm
cửa sông ven biển và nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa, lịch sử quan
trọng (Di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, Di tích lịch sử văn hóa Yên Tử).
Hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ than đ ã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường tỉnh Quảng Ninh trong suốt thời gian qua, đặc biệt là
giai đoạn 2003 đến nay do việc tăng nhanh sản lượng khai thác trong khi đó hạ
tầng kỹ thuật và các công trình bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đầu tư thích
đáng, gây b ức xúc trong nhân dân.
II.1. ô nhiễm không khí vì bụi than:
Môi trường không khí các khu vực khai thác khoáng sản và lân cận thường
xuyên bị ô nhiễm do bụi, khí độc, khí nổ và tiếng ồn phát sinh ở hầu hết các khâu
sản xuất. Đặc biệt khu vực Cẩm Phả, Uông Bí, Mạo Khê và các phường Hà Khánh,
Hà Lầm, Hà Trung, Hà Tu, Hà Phong - TP H ạ Long.
Nguồn phát sinh bụi lớn nhất là từ các khâu sàng, chế biến, vận chuyển than.
Ngoài ra b ụi còn sinh ra từ các bãi thải chưa dừng đổ thải hoặc những bãi thải đã
dừng đổ thải nhưng chưa được cải tạo, phủ thảm thực vật.
Nhìn chung, hàm lượng bụi tại các khu vực khai thác than, chế biến than đều
vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) từ 1,2 - 5,2 lần (trung b ình trong 24 giờ); hàm
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 7
- lượng bụi tại các khu dân cư lân cận các khu vực sản xuất, chế biến than tại Quảng
Ninh vượt TCCP 3,3 lần (trung bình 24 giờ).
Hiện nay, mặc dù tỉnh Quảng Ninh đ ã triển khai nhiều giải pháp quản lý
BVMT, đặc biệt là việc cấm vận chuyển than trên quốc lộ 18A, các phương tiện
vận chuyển theo đường chuyên dụng, quy hoạch, sắp xếp lại các cảng, bến cảng đã
hạn chế được ô nhiễm môi trường trong vận chuyển than đến khu dân cư tập trung.
Tuy nhiên, theo kết quả quan trắc môi trường tỉnh Quảng Ninh năm 2009, tình
trạng ô nhiễm bụi do hoạt động khai thác, chế biến, vận chuyển than vẫn còn tồn
tại.
Chuyện bụi đen đất mỏ, mấy năm gần đây ghi nhận có nhiều chuyển biến
như không vận chuyển than trên quốc lộ, không chuyền tải than trên vịnh Hạ Long.
Tuy nhiên, có nhiều điểm giao lộ với đường dân sinh làm chưa triệt để, đi qua
vùng Mạo Khê, Cẩm Phả bụi than vẫn ngập đường. Điều này cũng chưa phải hoàn
toàn do lỗi của Tập đoàn Than - khoáng sản VN (TKV) vì hiện tượng vận chuyển
than trái phép vẫn còn và chính quyền chưa triệt đ ược tận gốc nên vẫn gây ra bụi.
II.2 Nước thải mỏ_ô nhiễm nguồn nước :
Tại vùng than, theo số liệu kê khai, nộp phí BVMT đối với nước thải công
nghiệp của các đơn vị thuộc ngành than thì tổng lượng nước thải mỏ năm 2009 đã
kê khai là 38.914.075 m3. Tuy nhiên, lượng nước thải này chưa tính đến nước rửa
trôi từ các bãi thải mỏ. Hai thông số điển hình tác động đến môi trường là tính axit
và cặn lơ lửng, bên cạnh đó là hàm lượng Fe và Mn. Độ pH của nước thải mỏ dao
động từ 3,1 - 6,5, hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS) vượt tiêu chuẩn cho phép từ
1,7 - 2,4 lần, cá biệt có nơi vượt đến 8,09 lần. Nước thải mỏ gây nhiều ảnh hưởng
đến hệ thống sông, suối, hồ, vùng ven biển như gây bồi lấp, làm mất nguồn sinh
thủy, suy giảm chất lượng nước... Do tác động lâu ngày, trong đó có tác động của
khai thác than trái phép trong một thời gian dài, một số hồ thủy lợi vùng Đông
Triều đó bị chua hóa, làm ảnh hưởng đến chất lượng nước phục vụ nông nghiệp.
Trước năm 2009, chỉ có 1 đ ơn vị thuộc Tập đoàn Than khoáng sản Việt
Nam (TKV) có hệ thống xử lý nước thải mỏ. Hiện nay, TKV đang đầu tư 32 dự án
xây dựng trạm xử lý nước thải mỏ đảm bảo đạt TCCP (kế hoạch năm 2009 - 2010),
trong đó hiện nay mới có 10 dự án đã xây d ựng xong với tổng lưu lượng xử lý lớn
nhất là 2.370 m 3/giờ, các mỏ còn lại mới chỉ lắng sơ bộ và xả trực tiếp ra môi
trường.
Hồ thuỷ lợi thành bãi thải !
Kết quả quan trắc chất lượng nước các hồ thủy lợi đã ở mức báo động. Cụ
thể, kết quả pH đo được tại 9 hồ ô nhiễm đều dưới 5. Nghiêm trọng nhất là hồ Bến
Châu 3,75, hồ Cầu Cuốn 3,21, Nội Ho àng 3,02… Trong khi độ pH để các sinh vật,
thực vật phát triển bình thường phải đạt mức 5,5 - 6.
Điều này lý giải vì sao hồ không có nhiều các loài sinh vật sinh sống. Có hồ
không thấy sự xuất hiện của cá.
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 8
- Theo phản ánh của người dân, việc lấy nước từ các hồ nuôi cá khiến cá chết
hàng loạt, bị nổ mắt và nếu không chết thì năng suất giảm rõ rệt. Có nơi người dân
đã không dám lấy nước vào ruộng và ao của mình…
Ông Đoàn Văn Chiến - Giám đốc Cty Khai thác công trình thủy lợi Đông
Triều – Sở NN & PTNT Quảng Ninh cho biết: “Từ nhiều năm nay các Cty than
Mạo Khê, Xí nghiệp khai thác than Hồng Thái thuộc Cty Than Uông Bí (TKV)
liên tục đẩy mạnh việc bóc đất đá khai thác các mỏ than gần các hồ thủy lợi khiến
hàng loạt hồ bị bồi lắng, nhiễm chua và nguy hiểm hơn cả là bị lấp và cắt mất
nguồn sinh thủy của các hồ khiến việc điều tiết nước của phần lớn hồ thủy lợi bị
suy giảm đáng kể”.
Tình trạng khai thác than đầu nguồn lấp
mất nguồn sinh thủy các hồ thủy lợi
Nghiêm trọng hơn cả, theo ông Chiến là có nhiều hồ đã bị lấp và hoàn toàn
thành bãi thải. Hệ thống các hồ nhỏ bị chia cắt khiến cho nước tập trung tại hồ
chính dẫn tới xả tràn ngay trong mùa khô, điều chưa từng xảy ra với hệ thống hồ
thủy lợi tại đây trong khi nhu cầu nước tưới ngày càng lớn…
Hiện đã có 9/15 hồ đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng gồm Nội Hoàng, Cầu
Cuốn, Cổ Lễ, Khe Ư ơn 1, 2, Rộc Chày, Yên Dưỡng, Tân Y ên, Bến Châu từ hoạt
động khai thác than của Xí nghiệp Than Hồng Thái - Cty Than Uông Bí, Cty Than
Mạo Khê và cả các chủ khai thác than trái phép. Tất cả các khai trường đều thuộc
lưu vực hướng nước đổ về các hồ thuỷ lợi nói trên.
Trong khi đó, phạm vi khai trường san gạt lộ thiên lại gần kề các hồ thủy lợi
nên đã đổ san gạt đất, đá xít lấp hồ và lấp cả suối đầu nguồn của hồ Nội Hoàng, hồ
Cầu Cuốn. Bảy hồ còn lại đất đá được san gạt lấp mất nguồn sinh thủy.
Thậm chí các đơn vị khai thác than tự ý lấp hồ tạo các đường vận tải, đã chia
cắt phần lớn lưu vực hướng nước của các hồ Khe Ươn 1, 2 nên nước đã tập trung
vào các hồ Nội Hoàng, Cổ Lễ và nguy cơ vỡ đập là rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới
cây trồng vật nuôi và đời sống nhân dân 9 xã trong huyện là các xã Đông Hồng
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 9
- Thái, Tây H ồng Thái, Hoàng Quế, Mạo Khê, Kim Sơn, Xuân Bình, Xuân Sơn,
Tràng An, Bình Khê.
II.3 Ô nhiễm đất :
Các bãi thải của những mỏ khai thác than lộ thiên đáng lẽ ra phải đổ theo
phân tầng, kiểu như ruộng bậc thang thì sẽ rất ổn khi xử lý trồng cây, thậm chí
canh tác. Nhưng các mỏ khai thác than lộ thiên hiện nay sau khi bóc lớp đất, đá lại
cứ đổ tràn từ trên xuống, bên dưới có thể xây kè chắn. Mưa to kè nào chịu nổi một
lượng nước và đất đá khổng lồ dồn xuống như thế. Vì vậy những năm qua đã xảy
ra nhiều hiện tượng kè chắn, đập ở Quảng Ninh bị vỡ, dân cư lâm vào cảnh lụt lội,
ô nhiễm.
Hoàn thổ các mỏ đã khai thác đ ể phục hồi nguyên trạng là việc làm rất khó.
Trước kia, người Pháp khai thác than ở Quảng Ninh rất “khôn”, những mong than
có độ sâu chừng vài chục mét ở Cẩm Phả là họ biến thành hồ chứa nước phục vụ
cho sinh ho ạt, bên b ờ moong họ trồng cây xanh và lấy nước đó tưới luôn. Với
những khu bãi thải, họ tạo một mặt bằng mới và đưa phu m ỏ (người lao động làm
thuê) đến ở. Hiện nay, ở Q uảng Ninh, chúng ta đã khai thác những mong than lộ
thiên có độ sâu 100-300m, các bãi thải bao gồm đất, đá đổ lan tràn vùng mỏ Quảng
Ninh.
Chỉ tính riêng vùng Cẩm Phả, Đèo Nai, có hơn 100 triệu m3 chất thải gồm
đất, đá, sít đang ứ đầy các bãi thải. Việc xả thải của các doanh nghiệp khai thác
than phía đ ầu nguồn đ ã khiến một số đoạn trong khu vực vịnh Cửa Lục (đoạn từ
bến phà Bãi Cháy cũ đến khu vực chân Cầu Bang) bị bồi lắng, có điểm lượng bùn
bồi lắng kéo dài tới vài chục mét ra phía biển hiện đang là thách thức lớn cho TKV
trong việc phục hồi môi trường vùng mỏ.
TKV cần thực hiện thật nghiêm túc Luật môi trường, Luật đất đai và những
chính sách, quy định của địa phương về môi trường. TKV cần phải tăng cường đầu
tư công nghệ và thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường hiện đại để giảm thiểu ô nhiễm.
TKV phải có quy chế về môi trường của tập đoàn, rồi từng đơn vị cũng phải có
quy chế riêng về bảo vệ môi trường, kế hoạch và phương án hoàn nguyên. Bên
cạnh đó, cơ quan chức năng của bộ, ngành, đ ịa phương phải thường xuyên kiểm tra
giám sát.
Để giúp TKV thực hiện tốt công tác này, Nhà nước nên có chế tài đủ mạnh
để xử phạt những đơn vị khai thác mỏ thường xuyên gây ô nhiễm môi trường, hay
khen thưởng những đơn vị của TKV thực hiện tốt công tác bảo vệ và phục hồi môi
trường. Đơn vị nào thực hiện không nghiêm túc phải có mức phạt để răn đe. Hiện
nay nếu không quan tâm đến môi trường vùng mỏ Quảng Ninh mà cứ để “thả
lỏng” thì sau này đầu tư hàng ngàn tỉ đồng vào đó cũng khó khắc phục được
nguyên trạng.
II.4 Tác động đến địa hình, cảnh quan:
Biến đổi địa hình và cảnh quan. Những biến đổi mạnh nhất diễn ra chủ yếu ở
những khu vực có khai thác than lộ thiên. Các bãi đổ thải tạo nên những quả đồi ở
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 10
- Cọc Sáu cao 280 m, Nam Đ èo Nai có độ cao 200 m, Đông Cao Sơn cao 250 m,
Đông Bắc Bàng Nâu cao 150 m và Núi Béo cao 240 m... và nhiều bãi thải trên các
sườn đồi. Bãi thải thường có sườn dốc tới 350. Nhiều mong khai thác lộ thiên tạo
nên địa hình âm có độ sâu từ - 50 m đến - 150 m dưới mực nước biển trung bình
(các mỏ Cọc Sáu, H à Tu, Núi Béo...).
Nhiều khu vực tập trung dân cư tại Mạo Khê (Đông Triều), V àng Danh,
Quang Trung (Uông Bí), Hà Khẩu, Cao Xanh, Hà Khánh, Hà Lầm, Cao Thắng, Hà
Trung, Hà Tu, Hà Phong (Hạ Long) và toàn bộ thị xã Cẩm Phả chịu tác động mạnh
do các nguồn gây ô nhiễm từ các hoạt động khoáng sản, trở thành những vấn đề
bức xúc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và đời sống của nhân dân.
Hoạt động khai thác khoáng sản là một trong những nguyên nhân làm giảm
độ che phủ do rừng cây bị chặt hạ, lớp phủ thực vật bị suy giảm. Hoạt động khai
thác khoáng sản cũng làm cho thực vật, động vật bị giảm số lượng hoặc tuyệt
chủng do
các điều kiện sinh sống ở rừng cây, đồng cỏ và sông nước xấu đi. Một số
loài thực vật bị giảm số lượng, động vật phải di cư sang nơi khác
III. qu¶n lÝ cña c¬ quan nhµ níc trong khai th¸c
than qu¶ng ninh:
III.1 Mặt tích cực:
Lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh cho biết từ đầu năm, UBND tỉnh đã ban hành các
văn bản để tăng cường công tác quản lý Nhà nước nhằm ngăn chặn tình trạng tái
diễn khai thác vận chuyển than trái phép, gây ô nhiễm môi trường do khai thác
than trên địa b àn tỉnh.
Như đã nêu trên, mức đ ộ ô nhiễm môi trường tại vùng than đã ở mức quá
nghiêm trọng, nếu chỉ BVMT bằng một vài việc, ở vài nơi thì chẳng thấm gì và
môi trường sống và cảnh quan tỉnh Quảng Ninh tiếp tục bị hủy hoại.
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 11
- Vì vậy, ngoài những giải pháp cấp bách đối với hàng loạt vấn đề tồn tại, ô
nhiễm môi trường phải được kiểm soát, ngăn chặn từ gốc, tức là trước khi có kế
hoạch khai thác, phải chắc chắn không để lại những ảnh hưởng nghiêm trọng về
môi trường. Muốn làm được điều này, công tác quy hoạch từ khâu sản xuất đến
tiêu thụ than đ ều phải gắn liền với quy hoạch BVMT.
Để làm được điều này, dư luận rất mong UBND tỉnh giám sát, đôn đốc
ngành than thực hiện nghiêm ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Ho àng Trung Hải
tại Văn bản số 2171/VPCP-KTN ngày 7/4/2009: Đó là, khai thác than theo đúng
tọa độ, diện tích, trữ lượng than và các qui định khác nêu trong giấy phép và qui
định của pháp luật; việc thăm dò, khai thác ngoài phạm vi ranh giới được cấp phép
chỉ được phép thực hiện khi có giấy phép của cơ quan thẩm quyền cấp theo qui
định.
TKV phải cung cấp lộ trình triển khai xây dựng các công trình BVMT và
thực hiện đúng nội dung của ĐTM đó được phê duyệt; Chú trọng xử lý các nguồn
nước thải có ảnh hưởng trực tiếp tới vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long và hệ thống
các sông, suối; Lập Quy hoạch bãi đổ thải và triển khai các dự án cải tạo bãi thải;
Thường xuyên nạo vét, cải tạo các sông, suối chịu ảnh hưởng của khai thác than.
Trữ lượng than đã đến hồi cạn kiệt, có lẽ giờ cũng là lúc phải tính đến
chuyện hoàn trả lại cho người dân Quảng Ninh môi trường sống trong lành, tái tạo
quỹ đất để phát triển sản xuất lĩnh vực khác khi "vàng đen" không còn nữa. Không
làm được điều này, chiến lược phát triển bền vững của Quảng Ninh chắc chắn chỉ
là khái niệm rất mơ hồ
Các cơ sở khai thác than quốc doanh thuộc Trung ương và địa phương đều
phải được củng cố và sắp xếp lại theo Quyết định 315/HĐBT ngày 01 tháng 9 năm
1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Những cơ sở nào được tiếp tục hoạt động, giám đốc
cơ sở đó phải ký kết Biên bản nhận khu vực mỏ được giao và có trách nhiệm thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của một chủ mỏ theo quy định của Nhà nước. Các cơ
sở khai thác than ngoài quốc doanh, các đơn vị quân đội, công an, các tổ chức đoàn
thể x ã hội như thanh niên, trường học... các bộ phận không có nhiệm vụ trực tiếp
khai thác than (Xây d ựng cơ bản, cơ khí...) muốn tham gia khai thác than phải
nhận thầu của các chủ mỏ và phải bán toàn bộ than khai thác đ ược cho chủ mỏ
theo giá thoả thuận ghi trong H ợp đồng nhận thầu khai thác và phải tuân theo
những quy định của chủ mỏ nhằm đảm bảo trật tự, an toàn khai thác và các quy
định về bảo vệ tài nguyên và môi trường. Hợp dồng khai thác có thời hạn nhất
định, nội dung phải nêu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và Quyền lợi của các bên ký kết
theo quy định trong Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế. Chủ mỏ có quyền giao thầu
từng phần việc của quá trình khai thác mỏ hoặc giao thầu toàn bộ việc khai thác
một phần mỏ trong quy hoạch khai thác chung của mỏ với điều kiện được cơ quan
quản lý cấp trên đồng ý.
III.2 Hạn chế còn tồn tại:
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 12
- Chiếm 90% sản lượng than cả nước, công nghiệp khai thác, sản xuất, chế
biến than đ ã trở thành ngành kinh tế chủ lực của Quảng Ninh, tuy nhiên cũng là
một thách thức lớn về môi trường. Rất cần một cơ chế giám sát các vấn đề môi
trường có sự tham gia của người dân.
Theo bà Nguyễn Thu Thủy, Chi cục phó, Chi cục Bảo vệ môi trường Quảng
Ninh, "dưới đất là than và trên là dân, chính quyền địa phương và người dân cần có
tiếng nói trong giám sát môi trường. Đồng thời cần có quy định trách nhiệm rõ
ràng giữa doanh nghiệp khai thác than và chính quyền".
Ngoài ô nhiễm bụi, không khí cao gấp 1,2-5,2 lần tiêu chuẩn cho phép, mới
xử lý được 1/25 -1/30 lượng nước thải do khai thác than ảnh hưởng nghiêm trọng
đến đời sống người dân, thì những bãi thải cũng là m ối nguy lớn. Các công ty khai
thác than và chính quyền đ ã nhiều phen khốn đốn, tốn không ít tiền của để cải
thiện đời sống người dân sau mỗi trận mưa lớn khiến nước, đất đá tràn vào nhà
dân.
Rõ ràng những tác động tới môi trường từ khai thác than không phải diễn ra
trong một vài năm mà nó kéo dài hàng chục năm, kể cả sau khi đóng cửa mỏ. Vấn
đề là cần nhìn nhận một cách tổng thể, lượng hóa những ảnh hưởng về môi trường
trong khai thác mỏ để tính toán giảm thiểu trong từng giai đoạn của dự án.
Ông Trần Miên, Trưởng Ban Môi trường, Tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản Việt Nam cho biết, ở các nước phát triển, trong một dự án khai thác
mỏ, họ phải tính ngay từ ban đầu diện tích và lựa chọn không gian đổ thải đủ cho
cả đời mỏ. Còn ở ta, đổ thải bãi thải cao là qui trình ngược lại với họ.
Trong các văn bản pháp luật đ ã có những quy định về trích từ nguồn thu từ
khoáng sản để đầu tư phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, qua khảo sát ở
Quảng Ninh của các nhà khoa học thuộc nhiều cơ quan nghiên cứu về môi trường
nước ta, thực tế ở cấp địa phương, chưa có một cơ chế nào giữa phường với công
ty than. Ngược lại, chính quyền địa phương cũng chưa thật sự có trách nhiệm trong
việc đưa ra các ràng buộc về môi trường với các dự án khai thác. Giá trị tham vấn
cộng đồng đối với đánh giá tác động môi trường không có nhiều giá trị về mặt
thực tiễn. Mặt khác, nó thể hiện năng lực và trách nhiệm của cán bộ đại diện cho
cộng đồng được tham gia tham vấn chưa tốt.
Theo một nhóm các nhà khoa học soạn thảo Hiến chương Tài nguyên thiên
nhiên toàn cầu mới, người dân tại các vùng có khai thác tài nguyên cần được bồi
thường, hỗ trợ về những ảnh hưởng xã hội, môi trường mà họ gặp phải. "Số tiền
này cần được điều chỉnh theo thời gian khi những chi phí đóng cửa mỏ, phục hồi
môi trường tăng lên", dự thảo Hiến chương nêu rõ.
IV. kÕt luËn vµ kiÕn nghÞ:
Nhìn chung công tác bảo vệ môi trường của Quảng Ninh đã có nhiều chuyển
biến, những vấn đề bức xúc về môi trường, nhất là trong khai thác than đã và đang
từng bước được giải quyết. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 13
- trường được ban hành làm cơ sở cho các cấp, các ngành triển khai thực hiện. Công
tác quy hoạch bảo vệ môi trường của một số địa phương Uông Bí, H ạ Long, Cẩm
Phả, Yên Hưng được triển khai xây dựng.
Tuy nhiên công tác BVMT của tỉnh hiện nay chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh
tế - x ã hội; quản lý nhà nước về BVMT còn thiếu cụ thể; việc thực hiện các biện
pháp, chế tài ở nhiều lĩnh vực chưa đủ mạnh; tuyên truyền chưa sâu rộng.
Nhiều ý kiến tại cuộc họp quan tâm đến nỗ lực của ngành Than trong bảo vệ môi
trường; đặc biệt là vấn đến chấm dứt việc vận chuyển than bằng đường bộ; chất
thải rắn phát sinh của các bệnh viện; mức độ ảnh hưởng môi trường của các nhà
máy điện, xi măng…
Để bảo vệ môi trường tốt hơn trong thời gian tới cần tăng cường sự lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; đẩy mạnh công tác tuyên
truyền; tăng cường sự phối hợp quản lý giữa các cấp, ngành .
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 14
- Tài liệu tham khảo
Internet:
1) www.google.com.vn
2) www.khoahoc.com.vn
3) www.vietbao.vn
4) www.vi.wikipedia.org
5) www.vnexpress.net
6) www.monre.gov.vn
7) www.quangninh.gov.vn
8) www.baoquangninh.com.vn
9) www.yeumoitruong.com
.......
và một số tài liệu liên quan khác.
Qu¶n lÝ m«i trêng « nhiÔm m«i trêng do khai th¸c than 15
nguon tai.lieu . vn