Xem mẫu
- Tiểu luận “Tìm hiểu chính sách miễn, giảm thủy lợi
phí theo Nghị định 115/2008/NĐ-CP"
1
- Mục Lục
1 ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 3
2 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN .................................................. 5
3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................................ 11
4 KẾT LUẬN ................................................................................................. 20
2
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Lý do nghiên cứu đề tài
Nước ta là một nước đi lên từ nông nghiệp, do đó ngành thủy lợi có vai
trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước, công tác thủy lợi là biện
pháp quan trọng hàng đầu trong việc khôi phục sản xuất nông nghiệp, mở rộng
diện tích canh tác, tăng vụ, thâm canh tăng năng suất cây trồng. Công tác thủy
lợi nước ta căn bản đáp ứng được yêu cầu của sản xuất nông nghiệp, phòng,
chống và giảm nhẹ thiên tai ở các vùng, miền trong công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đòi hỏi ngày một cao của thời kỳ CNH, HÐH
đất nước và những bất lợi về thời tiết do biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra,
nhiệm vụ của công tác thủy lợi đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Yêu cầu đặt ra là nhà nước cần phải đề ra những chính sách phù hợp để giải
quyết các vấn đề liên quan đến công tác thủy lợi.
Chính sách thủy lợi phí là một trong những chính sách giúp công tác thủy
lợi đạt hiệu quả cao. Nó sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến đến sự ổn
định, bền vững công trình, phục vụ đa mục tiêu hiệu quả và sự tồn tại của các
đơn vị làm dịch vụ tưới tiêu.
Miễn thuỷ lợi phí là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đối với
người nông dân, nhằm giảm gánh nặng, cải thiện đời sống của người dân. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề lớn, khó khăn, phức tạp và chứa đựng nhiều vấn đề
bất cập. Trong vòng hơn 40 năm qua (1962 - 2009) chính sách thủy lợi phí ở
nước ta đã 4 lần thay đổi. Gần đây nhất, chính phủ đã đưa ra nghị định 115
nhằm sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 143/2003/NĐ-CP. Nghị
định này đã có sự thay đổi cơ bản về việc miễn, giảm thủy lợi phí. Tuy nhiên
sau 9 tháng thực hiện, đến nay chính sách này đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu chính sách miễn, giảm thủy lợi phí theo
Nghị định 115/2008/NĐ-CP”.
3
- 1.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Tìm hiểu chính sách miễn, giảm thủy lợi phí theo
Nghị định 115/2008/NĐ-CP
- Phạm vi về không gian: Tìm hiểu trên phạm vi cả nước
- Phạm vi về thời gian: Từ ngày Nghị định 115 có hiệu lực (01/01/2009)
đến nay
4
- 2 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lí luận về vấn đề nghiên cứu
Quan điểm về thủy lợi phí (TLP) hiện nay chưa có sự thống nhất, TLP có
thể là chi phí sản xuất hay TLP là khoản thu của nhà nước đối với nông dân
trong việc sử dụng nước, nên chưa có một chính sách hoàn chỉnh đáp ứng được
yêu cầu thực tế, đảm bảo công trình thủy lợi phát huy được hiệu quả tối đa.
Một số quan điểm về thủy lợi phí:
- “Là phí tổn về quản lý và tu sửa của các hệ thống nông giang” mà
người dùng nước phải trả (Nghị định số 66-CP).
- “Là phí dịch vụ thu từ tổ chức, cá nhân sử dụng nước hoặc làm dịch vụ
từ công trình thủy lợi cho mục đích sản xuất nông nghiệp để góp phần chi phí
cho việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng và bảo vệ công trình thủy lợi và "tiền
nước“ là giá tiền trong hợp đồng dịch vụ về nước thu từ tổ chức, cá nhân sử
dụng nước hoặc làm dịch vụ từ công trình thủy lợi ngoài mục đích sản xuất
nông nghiệp” (Pháp lệnh Khai thác & Bảo vệ Công trình thủy lợi).
Để phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao ý thức trách nhiệm của
người dân, đảm bảo các công trình thuỷ lợi vận hành an toàn trong điều kiện
hiện nay, thì việc duy trì một mức thu thuỷ lợi phí là cần thiết. Ngoài việc đáp
ứng yêu cầu về vốn, giảm bớt gánh chịu của ngân sách nhà nước thì thuỷ lợi
phí còn có tác dụng nâng cao ý thức của người sử dụng và người quản lý tiết
kiệm nước, bảo vệ và khai thác tốt công trình thuỷ lợi. Nhưng thu mức nào thì
cần phải có chính sách hợp lý, công bằng, trong đóng góp đảm bảo quyền lợi và
khuyến khích sản xuất nói chung.
Như vậy, bài toán đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là:
- Nếu nhà nước quy định mức thu thuỷ lợi phí cao thì mức cấp của Nhà
nước sẽ ít.
- Ngược lại, nếu quy định mức thấp hoặc không thu thì nhà nước phải
cấp bù nhiều hơn, chắc chắn đó là gánh nặng đối với nhà nước.
5
- Qua từng thời kỳ, Nhà nước đã đưa ra các chính sách thủy lợi phí và
miễn giảm thủy lợi phí, tuy nhiên vẫn chưa có một chính sách hoàn thiện giải
quyết được mâu thuẫn này.
2.2 Cơ sở thực tiễn về vấn đề nghiên cứu
2.2.1 Trên thế giới
Đối với mỗi hệ thống tưới tiêu cụ thể, việc thiết lập mức thu hay miễn,
giảm TLP đối với sản xuất nông nghiệp phải dựa vào điều kiện thực tiễn của
từng quốc gia, đặc biệt là điều kiện kinh tế xã hội và mức sống của người dân
để quyết định. Hầu hết các nước, việc thu TLP (giá nước) chỉ đề trang trải chi
phí vận hành và bảo dưỡng và hầu như vẫn chưa đủ chỉ bù đắp được khoảng
20-70% cho phí vận hành và bảo dưỡng, thấp nhất là Ấn độ và Pakistan chỉ hu
hồi được 20-39% chi phí vận hành và bảo dưỡng, cao nhất là Madagasca cũng
chỉ thu hồi được khoảng 75% chi phí vận hành và bảo dưỡng và nước này đang
có một cuộc cách mạng về công tác tài chính cho vận hành và bảo dưỡng. Hầu
hết các nước không thu hồi chi phí đầu tư kể cả các nước công nghiệp phát
triển, tỷ lệ thu hồi chi phí đầu tư cũng rất thấp như Canada và Italy. Thực tế
hiện nay, cả các nước phát triển và đang phát triển cũng đang tính lại chính
sách về phí sử dụng nước và một số nước đã bắt đầu thu lại ít nhất một phần
kinh phí đầu tư ban đầu từ người sử dụng như Australia và Brazil.
Trung Quốc
Chính phủ ban hành chính sách về giá nước mang tính nguyên tắc (quy
định khung), giao quyền cho địa phương trực tiếp quản lý công trình, quy định
cụ thể cho phù hợp trên cơ sở lợi ích kinh tế và mức chi phí thực tế đã sử dụng,
mức chi phí tính toán (dùng nước phải trả tiền, dùng nhiều trả nhiều, dùng ít trả
ít) và ý kiến tham gia của người dân.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho đối với các vùng nghèo khó khăn,
mức sống thấp, khi công trình hư hỏng nặng cần phải sửa chữa, hỗ trợ chi phí
cho diện tích tiêu phi canh tác, hỗ trợ chi phí tiền điện tưới tiêu, khi có thiên tai
6
- gây mất mùa phải giảm mức thuế sử dụng đất. Tuỳ theo loại hình công trình, tự
chảy hay động lực, điều kiện cụ thể của hệ thống công trình để quy định mức
thu và có chính sách hỗ trợ. Cơ quan nào quyết định miễn giảm giá nước tưới
thì cơ quan đó có trách nhiệm cấp bù hỗ trợ tài chính cho đơn vị quản lý công
trình thuỷ lợi.
Kinh nghiệm của Trung quốc cho thấy từ khi bắt đầu thu TLP (giá nước),
việc sử dụng nước được tiết kiệm hơn. Nhưng điều này cũng là một thách thức
đối với các đơn vị quản lý, điều này đòi hỏi đơn vị quản lý công trình thuỷ lợi
phải có các biện pháp để quản lý tốt, giảm các tổn thất để có nhiều nước bán
cho nông dân theo yêu cầu của họ và giảm thiểu chi phí.
Australia
Tại lưu vực miền nam Murray-Darling năm 1992 TLP từ nông nghiệp
thu đáp ứng được 80% chi phí vận hành và bảo dưỡng và đến năm 1996 thu
được 100% chi phí vận hành và bảo dưỡng. Giá nước cũng khác nhau giữa các
vùng. Ở bang Victoria mức thu gần đảm bảo chi phí vận hành và bảo dưỡng
(năm 1995), ở New South Wales thu trong nội bang thu khoảng 0,92
USD/1000m3 (chỉ tương đương khoảng gần 13 đ năm 1995) trong khi đó nếu
nước được đưa sang bang Victoria thì giá nước tăng hơn 3,6 lần giá nước trong
nội bang New South Wales. Tương tự như vậy ở bang Queensland giá thu trong
nội bang khoảng 1,5USD/1000m3 trong khi đó giá nước khi chuyển ra ngoài
ranh giới bang tăng hơn 4,2 lần; cuối cùng đối với vùng miền nam, lưu vực
Muray-Darlinh năm 1991-1992 mức thu đồng đều hơn 7,8USD/1000m3 (tương
đương với 80% phí vận hành và bảo dưỡng), và từ năm 1992 trở đi giá nước
cao hơn giá thành là 11% để thu hẹp khoảng cách giữa chi phí đầu tư và thu hồi
vốn.
Mỹ
Mỹ là một quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú.
7
- + Trước kia thuỷ nông địa phương (xí nghiệp thuỷ nông huyện hoặc tỉnh)
thu TLP dựa trên cơ sở chi phí vận hành và bảo dưỡng cho các vùng đất canh
tác khác nhau. Ví dụ mức thu đối với những vùng tưới động lực sẽ cao hơn
mức thu những vùng tưới tự chảy.
+ Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhà nước đã xây dựng
luật mà nó bao hàm cả việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Thuỷ lợi phí đã
được thu tăng lên đáng kể. Ví dụ: thời điểm năm 1988 thuỷ nông huyên
Broadview đã tăng mức thu từ 40USD/ha lên 100USD/ha với mức nước sử
dụng được tính toán; năm 1987 tại thuỷ nông huyện Pacheco mức thu tính theo
2 bậc, bậc thứ nhất mức thu 90USD/ha và bậc thứ 2 thu 150USD/ha; đối với
mức thu dựa trên khối lượng sử dụng ở hệ thống thuỷ nông bang Califonia tăng
mức thu từ từ 4,4USD/1000m3 lên 11,9USD/100m3. Với mức thu như vậy thì
thực tế đã cao hơn mức cần thiết để thu hồi các chi phí.
Italy
Ở Italy, nước sử dụng cho nông nghiệp thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở
diện tích và mức thu khác nhau giữa các vùng từ 22,11-82,36USD/ha (trung
bình 37,38USD/ha đây là mức thu kế hoạch) nhưng thực tế chỉ thu được
khoảng 80% so với kế hoạch và chỉ đảm bảo được khoảng 60% chi phí vận
hành và bảo dưỡng.
Tây Ban Nha
Ở Tây Ban Nha thuỷ lợi phí nông dân phải trả hầu hết toàn bộ chi phí từ
xây dựng cơ bản, quản lý vận hành hệ thống thuỷ nông và cả quản lý cấp lưu
vực. Có 3 cách tính thuỷ lợi phí: dựa trên diện tích; dựa trên khối lượng sử
dụng hoặc kết hợp cả hai cách trên. Thuỷ lợi phí trung bình ở thời điểm năm
1994 khoảng 84,7USD/ha-năm (dao động khác nhau giữa các hệ khu vực từ
8,3-266 USD/ha-năm) và từ 0.008-0,16USD/m3 sử dụng.
Pakistan
8
- Pakistan là một quốc gia đang phát triển, đông dân và có chỉ số nguồn tài
nguyên nước tính trên đầu người hàng năm tương đương với Việt nam. Mức
TLP là rất thấp 0,55USD/ha-vụ, ngô 0,33USD/ha-vụ, thuỷ lợi phí thu từ nông
dân khoảng 20% chi phí vận hành và bảo dưỡng còn lại là nhà nước trợ cấp.
2.2.2 Ở Việt Nam
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển thủy lợi phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, trong từng giai đoạn Nhà nước đã ban hành
các chính sách miễn giảm Thủy lợi phí như sau:
Để khai thác tối đa năng lực các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có, gắn
trách nhiệm với quyền lợi của người dùng nước, giảm bớt gánh nặng bao cấp
của Nhà nước trong lĩnh vực thuỷ lợi, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã trình Chính
phủ ban hành chính sách về tiền nước và thuỷ lợi phí theo quy định tại Nghị
định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003, bắt đầu thực hiện việc miễn, giảm
thuỷ lợi phí.
Cụ thể: Những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
được miễn thủy lợi phí; địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thì giảm
từ 50% - 70% mức thủy lợi phí. Nhìn chung, người nông dân có thu nhập thấp
hàng năm vẫn phải gánh một khoản lệ phí không nhỏ cho thủy lợi. Như vậy,
Nghị định số 143 quy định việc miễn thủy lợi phí còn mang tính công thức và
không sát thực.
Đến năm 2007, Nghị định 154/2007/NĐ-CP được ban hành, thay thế cho
Nghị định 143/2003/NĐ-CP. Nghị định 154 quy định: Miễn thuỷ lợi phí (TLP)
đối với hộ gia đình, cá nhân có đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối trong hạn mức giao đất nông
nghiệp…;đối với địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn và khó
khăn theo quy định của Luật Đầu tư được miễn TLP đối với toàn bộ diện tích
đất, mặt nước dùng vào nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm
muối không phân biệt trong hay ngoài hạn mức giao đất…Các đơn vị quản lý,
9
- khai thác công trình thuỷ lợi được ngân sách Nhà nước cấp bù số tiền do miễn
thu TLP quy định tại Nghị định này.
Như vậy Nghị định 154/2007/NĐ-CP thay cho Nghị định 143/2003/NĐ-
CP (phần TLP), nhưng chỉ đối với các hệ thống thủy lợi được đầu tư bằng vốn
ngân sách do IMC quản lý và đã giảm được trên 80% tổng số TLP mà nông dân
phải trả trước đây. Chi phí về tưới của nông dân phải trả TLP nội đồng chỉ bằng
1,4 -2,0% tổng chi phí đầu vào của sản phẩm nông nghiệp có tưới (trước đây là
7 -10%).
Thực tế cho thấy, quá trình triển khai Nghị định 154 của Chính phủ đã
phát sinh nhiều phiền toái, chưa hợp lý. Nghị định này chỉ đề cập đến diện tích
tưới tiêu đối với các công trình thuỷ nông xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách
Nhà nuớc. Còn diện tích tưới tiêu các công trình thuỷ lợi xây dựng bằng vốn
không phải của ngân sách, đang thu theo thoả thuận thì không được miễn.
Ngoài ra, mức cấp bù thuỷ lợi phí cho các địa phương được căn cứ vào mức thu
thuỷ lợi phí theo quy định của UBND các tỉnh, thành phố theo quy định tại
Nghị định 143/2003/NĐ-CP nhưng khi thực hiện Nghị định này các địa phương
lại có quy định mức thu thuỷ lợi phí khác nhau. Mặt khác, còn một số HTX
nông nghiệp chưa nhận được khoản hỗ trợ tiền cấp bù miễn thủy lợi phí.
Xuất phát từ những tồn tại nêu trên, mới đây, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 sửa đổi, bổ sung Nghị định
143/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Khai thác và
bảo vệ công trình thủy lợi.
10
- 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Hệ thống văn bản chính sách
3.1.1 Hệ thống văn bản chính sách liên quan
- Nghị định số 66-CP về việc ban hành điều lệ thu thủy lợi phí do hội
đồng chính phủ ban hành 05/06/1962.
- Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng 112-HĐBT ngày 25/8/1984 về việc
thu thủy lợi phí.
- Nghị định 143/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy định chi tiết thi hành một
số điều của pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi.
- Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy định chi tiết
thi hành một số điều của pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi.
- Thông tư 36 Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
3.1.2 Văn bản chính sách làm tiểu luận
Nghị định 115/2008/NĐ-CP ngày 14-11-2008 sửa đổi, bổ sung một số
điều của nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình
thủy lợi.
Đối tượng miễn thuỷ lợi phí:
Hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản và làm muối.
Phạm vi miễn thuỷ lợi phí:
- Miễn thuỷ lợi phí đối với diện tích mặt đất, mặt nước trong hạn mức giao
đất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân dùng vào sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, bao gồm: đất do Nhà nước giao,
11
- được thừa kế, cho, tặng, nhận chuyển nhượng hợp pháp, kể cả phần diện tích
đất 5% công ích do địa phương quản lý mà các hộ gia đình, cá nhân được giao
hoặc đấu thầu quyền sử dụng.
- Miễn thuỷ lợi phí đối với toàn bộ diện tích đất, mặt nước dùng vào sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối của hộ gia
đình, cá nhân tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo quy định của Chính phủ.
Diện tích mặt đất, mặt nước miễn thuỷ lợi phí quy định tại điểm này
không phân biệt được cấp, tưới, tiêu nước từ công trình thuỷ lợi đầu tư bằng
vốn ngân sách hay các nguồn vốn khác, thu thuỷ lợi phí theo mức Nhà nước
quy định hay theo thoả thuận.
Mức miễn thuỷ lợi phí:
- Mức miễn thuỷ lợi phí đối với trường hợp sử dụng nước từ công trình
thuỷ lợi đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước được tính theo mức quy
định tại các điểm a, b, c và các tiết 3, 4 Biểu mức thu tiền nước tại điểm d
khoản 1 Điều này.
- Mức miễn thuỷ lợi phí đối với trường hợp sử dụng nước từ công trình
thuỷ lợi đầu tư bằng nguồn vốn không thuộc ngân sách nhà nước hoặc có một
phần vốn ngân sách nhà nước được tính theo mức thu thuỷ lợi phí thoả thuận
quy định tại khoản 4 Điều này.
Mức cấp bù kinh phí do thực hiện miễn thủy lợi phí:
Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi được ngân sách nhà
nước cấp bù số tiền do thực hiện miễn thu thuỷ lợi phí quy định như sau:
- Đối với đơn vị quản lý, khai thác hệ thống công trình thuỷ lợi đầu tư
bằng vốn ngân sách nhà nước được cấp bù số tiền do thực hiện miễn thuỷ lợi
phí tính theo mức thu quy định tại điểm a, b, c và các tiết 3, 4 của Biểu mức thu
tiền nước tại điểm d khoản 1 Điều 19 Nghị định này.
- Đối với đơn vị quản lý, khai thác hệ thống công trình đầu tư bằng
nguồn vốn không thuộc ngân sách nhà nước hoặc có một phần vốn ngân sách
12
- nhà nước và thu thuỷ lợi phí theo thoả thuận được cấp bù số tiền do thực hiện
miễn thuỷ lợi phí tính theo mức thu quy định tại khoản 4 Điều 19 Nghị định
này.
Đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi làm nhiệm vụ cấp, tưới tiêu
nước được hưởng các khoản trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ tài chính theo quy định của
pháp luật.
Công ty khai thác công trình thuỷ lợi nhà nước được hỗ trợ kinh phí để
xử lý xóa nợ đọng thuỷ lợi phí và khoản lỗ do nguyên nhân khách quan.
3.2 Kết quả thực hiện chính sách
3.2.1 Mặt tích cực
Miễn, giảm thủy lợi phí đồng nghĩa với việc người nông dân được giảm
bớt một phần chi phí sản xuất nông nghiệp và có thêm điều kiện thu nhập để cải
thiện đời sống. Đây chính là động lực mới để người nông dân phát triển sản
xuất và an tâm lạc nghiệp với chính mảnh đất của mình. Đồng thời tạo tâm lý
phấn khởi người dân về dịch vụ phúc lợi công cộng của Nhà nước đối với nông
dân, càng làm cho người dân vững tin vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước.
Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi sẽ được ngân sách nhà
nước cấp bù số tiền do miễn thu thủy lợi phí. Sự hỗ trợ này của Nhà nước giúp
đảm bảo vận hành trơn tru hệ thống công trình thủy lợi trên cả nước khi không
còn nguồn thu trực tiếp từ người nông dân như trước đây.
Theo Nghị định 115 mức thu thủy lợi phí đối với đất trồng lúa được tính
trên ha/vụ. Mức phải nộp thấp nhất cũng là 566.000 đồng/ha/vụ và cao nhất là
1.097.000 đồng/ha/vụ. Trong trường hợp tưới, tiêu chủ động một phần thì thu
bằng 60% mức phí quy định (quy định cũ là từ 50% -70%); Chỉ tạo nguồn tưới,
tiêu bằng trọng lực, động lực thu bằng 40% (quy định cũ là 40% -60%).
Đối với diện tích trồng mạ, rau, màu, cây công nghiệp ngắn ngày, kể cả cây vụ
Đông, mức thu thủy lợi phí bằng 40% mức thủy lợi phí đối với đất trồng lúa
(mức cũ là từ 30% -50%). Riêng đối với mức thủy lợi phí sản xuất muối vẫn
13
- giữ nguyên mức cũ là 2% giá trị muối thành phẩm. Khung mức tiêu nước đối
với tổ chức, cá nhân sử dụng nước hoặc làm dịch vụ từ công trình thủy lợi để
phục vụ cho các mục đích không phải sản xuất lương thực tăng gấp đôi so với
mức cũ...Qua đó, chúng ta thấy rằng, với mức đóng như vậy nếu không được
miễn thủy lợi phí thì quả là gánh nặng của nhiều hộ nông dân.
Những khoản thu thủy lợi phí luôn là một trong những loại thuế có tỷ lệ
nợ đọng cao nhất đối với người nông dân. Theo số liệu báo cáo của các địa
phương, trong năm 2007, tổng số nợ đọng thủy lợi phí lên đến 460 tỷ đồng, cá
biệt còn có tỉnh 70% người dân chưa nộp thủy lợi phí vì lý do “không có tiền”.
Vì vậy, điểm mới của Nghị định 115 là miễn thủy lợi phí cho nông dân, theo
quy định miễn thủy lợi phí của Chính phủ, nông dân cả nước sẽ chỉ phải đóng
chi phí duy nhất dành cho công tác thủy lợi là phí để vận hành thủy lợi nội
đồng. Bản chất khoản phí này là để thuê nhân công làm công việc điều tiết và
theo dõi khi dẫn nước từ vị trí đầu kênh vào từng thửa ruộng.
Bên cạnh đó, Nghị định mới này cũng quy định rất rõ việc miễn thủy lợi
phí đối với diện tích mặt đất, mặt nước trong hạn mức giao đất nông nghiệp của
các hộ gia đình, cá nhân dùng sản xuất nông, ngư, lâm nghiệp và làm muối, bao
gồm đất do Nhà nước giao, được thừa kế, cho, tặng... kể cả phần diện tích đất
5% công ích do địa phương quản lý mà các hộ gia đình, cá nhân được giao hoặc
đấu thầu quyền sử dụng.
Đối với các hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn, đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ cũng được miễn thủy
lợi phí cho toàn bộ diện tích đất, mặt nước dùng vào sản xuất nông, ngư, lâm
nghiệp và làm muối.
Sản xuất nông nghiệp là ngành thu lợi ít nhất, do đó đây là sự quan tâm
đặc biệt của nhà nước đối với người nông dân. Nghị định 115/2008/NĐ-CP
được coi là "khoán 10", là bước đột phá, khi đối tượng được cấp bù thuỷ lợi phí
được mở rộng, không giới hạn ở những tổ chức quản lý công trình xây dựng
14
- bằng nguồn vốn của Nhà nước, mà tất cả các tổ chức quản lý công trình thuỷ
lợi đều được cấp bù thuỷ lợi phí không phân biệt công trình được xây dựng từ
nguồn vốn nào. Mức thu thuỷ lợi phí để được cấp bù sẽ cao hơn so với mức cũ,
cơ bản đảm bảo yêu cầu và thống nhất trong từng vùng.
3.2.2 Một số hạn chế
Mặc dù được miễn thuỷ lợi phí nhưng đa số hộ dân vẫn thấy lo lắng, bởi
nếu không còn nguồn thu trực tiếp từ người nông dân thì chất lượng phục vụ,
hệ thống công trình thuỷ lợi có còn hoạt động trơn tru như trước đây?
Mức hỗ trợ của Nghị định 115 qui định chỉ căn cứ vào mức của Nghị
định 143 (mặc dù đã có tính đến trượt giá) để qui đinh mức hỗ trợ là chưa đảm
bảo được yêu cầu chi đúng và chi đủ cho hoạt động của các tổ chức dịch vụ
tưới tiêu.
Mặt khác, do đời sống của nông dân các tỉnh miền núi khó khăn hơn so
với các tỉnh vùng đồng bằng, nên khi quyết định mức thu cụ thể của Nghị định
143 đối với các tỉnh miền núi đã qui định thấp hơn so với các tỉnh đồng
bằng.Và thực tế đã khẳng định vốn đầu tư, chi phí quản lý hàng năm đối với
công trình thủy lợi có qui mô vừa và lớn (trừ loại công trình quá nhỏ phục vụ
vài héc-ta trên phạm vi thôn, bản) ở các tỉnh miền núi thường lớn gấp 2-3 lần so
với các tỉnh đồng bằng...Vi vậy mức hỗ trợ của Nghị định 115 (đã có tính trượt
giá) đối với các tỉnh miền núi chưa phù hợp (chỉ bằng xấp xỉ 50% mức hỗ trợ
của đồng bằng sông Hồng).
Nhiều địa phương đã phản ảnh thực trạng này là có căn cứ, cần được
nghiên cứu bổ sung, điều chỉnh , nhằm đảm bảo công bằng giữa các vùng trong
việc hỗ trợ thủy lợi phí được miễn.
Trong thông tư hướng dẫn số 36 có đề cập đến mức thủy lợi phí đối với
công trình thủy lợi được đầu tư không thuộc nguồn vốn ngân sách và mức thủy
lợi phí sau “cống đầu kênh” đến mặt ruộng được xác định theo” mức thỏa thuận
giữa đơn vị cấp nước và người dùng nước, nhưng không được cao hơn mức
15
- trần do UBND tỉnh qui định” là chưa phù hợp, vì không tính đến với sự thỏa
thuận được thiết lập giữa hai bên. Thực trạng này đang diễn ra ở đồng bằng
sông Cửu long và một số tỉnh miền trung. Mặt khác, mức thỏa thuận (kể cả
mức trần do UBND tỉnh qui định) phải có căn cứ và phải được qui định (mức
khung cũ thể) để đảm bảo trả đủ tiền công cho người quản lý và có tính đến sự
phát triển “hệ thống thủy lợi nội đồng” mà lâu nay nhiều nơi còn bỏ ngỏ, không
nên qui định một cách tùy tiện sẽ hạn chế sự huy động đóng góp tự nguyện, có
bàn bạc, quyết định của nông dân phục vụ cho lợi ích của chính họ.
Vì vậy mức thỏa thuận hợp lý chỉ khi nông dân được tham gia bàn bạc và
tự quyết định, thống nhất với tổ dùng nước và có sự chỉ đạo của chính quyền.
Trước đây các đơn vị dịch vụ (Công ty thủy nông, HTDN) được nông dân
thanh toán đủ thủy lợi phí theo qui định ghi trong hợp đồng chỉ sau khi phục vụ
tưới tiêu tốt (theo hợp đồng). Nhưng hiện nay phần thủy lợi phí này Nhà nước trả
thay cho nông dân và nông dân cũng phải được quyền như trước đây. Nhưng
trong thông tư 36 chưa thể hiện được quyền của nông dân trong việc trả thủy lợi
phí và thực tế một số nơi đã xẩy ra khi nông dân trả thủy lợi phí thì ruộng có
nước, nhưng khi nhà nước trả thủy lợi phí thay thì ruộng lại thiếu nước.
“Các tổ chức HTDN được phân cấp quản lý một phần công trình trong hệ
thống do công ty quản lý, Công ty thực hiện ứng và thanh toán kinh phí cho tổ
HTDN theo hợp đồng..”(mục 2, khoản V, thông tư 36) đã hạn chế quyền của tổ
HTDN (của nông dân) và đã chuyển CTTN từ vị trí “làm dịch vụ” (cấp nước tưới
tiêu, thu TLP từ HTDN) sang vị trí “quản lý dịch vụ”, trả TLP cho HTDN lấy từ
nguồn thủy lợi phí của nông dân được ngân sách trả thay, thực tế đã phát sinh
nhiều bất hợp lý, không hiệu quả (Mô hình này đã được thực hiện ở Vĩnh phúc).
Việc phân cấp ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cấp phát
tiền cấp bù do miễn TLP như trong thông tư 36 hướng dẫn, các đơn vị dịch vụ
thủy lợi ở địa phương nhất là các địa phương thuộc các tỉnh nghèo sẽ gặp nhiều
16
- khó khăn. Công ty sẽ không bao giờ được xét duyệt và cấp đủ, đảm bảo thực hiện
được cơ chế “đặt hàng, nhận đặt hàng, kể cả giao kế hoạch” như đã qui định.
Đặc biệt là khoảng cách điều chỉnh mức “thu điều tiết” từ các tỉnh được
qui định trong thông tư 36 chưa thật hợp lý, tạo sự mất công bằng trong việc cấp
bù thủy lợi phí được miễn giữa các tỉnh giàu và tỉnh nghèo. Khoảng cách điều
chỉnh quá lớn như trên sẽ tạo ra sự tùy tiện trong xét duyệt, cấp phát, nảy sinh cơ
chế “xin, cho”nặng nề hơn.
Mặt khác việc phân cấp nguồn cấp bù (TW, địa phương) sẽ tạo ra “hai
cửa” như lâu nay đã làm (gồm Bộ ngành ở TW, cơ quan thẩm quyền ở Tỉnh)
phải thực hiện nhiều thủ tục hơn, mất nhiều thời gian hơn, phát sinh “tiêu cực”
và hiệu quả sử dụng kém hơn.
Để đảm bảo công trình không xuống cấp thì phải chi đúng, đủ theo định
mức kinh tế, kỹ thuật (ĐMKTKT). Nhưng do nguồn thu bị khống chế nên
không thể chi đúng, đủ theo ĐMKTKT. Nguồn tài chính được hỗ trợ từ ngân
sách theo Nghị định 115 qui định không căn cứ vào ĐMKTKT, nên cũng
không thể đáp ứng với yêu cầu chi theo ĐMKTKT. Vì vậy, hoạt động của các
tổ chức dịch vụ tưới tiêu vẩn trong tình trạng khó khăn.
Mặc dù Nhà nước đã thực hiện miễn thủy lợi phí nhưng trên thực tế, để
dẫn được nước vào ruộng của mình, nông dân vẫn phải bỏ thêm các khoản chi
phí, đóng góp, thậm chí phải ứng tiền cho các công ty thủy nông để họ thanh
toán với “nhà” cung ứng điện...
Về cơ chế phân bổ tài chính cho gần 100 công ty thủy nông hiện chưa
được hoạt động theo bản chất của một doanh nghiệp đang được áp dụng hình
thức “giao kế hoạch”, vốn được cho là máy móc, không hiệu quả.
3.2.3 Một số đề xuất thực hiện chính sách
Để các bên tận dụng được lợi thế khi Nhà nước miễn thu thủy lợi phí cho
nông dân, đồng thời khắc phục được những khó khăn, thách thức nêu trên,
chúng ta cần có những giải pháp cụ thể:
17
- (1) Vị trí “cống đầu kênh” đã được xác định chỉ tương ứng với một mức
thu. Và khi vị trí công đầu kênh thay đổi (khác so với vị trí đã được xác định
trong Nghị định 143) thì mức thu được qui định cũng phải thay đổi theo (lớn
hơn, nhỏ hơn). Vì vậy việc xác định vị trí “cống đầu kênh” của tổ chức HTDN
phải đồng thời với sự thay đổi mức miễn thủy lợi phí của nghị định 115 tương
ứng. Điều này cần có hướng dẫn cũ thể, rõ ràng, có căn cứ, có sự điều chỉnh,
tránh sự tùy tiện của các địa phương, nhằm đảm bảo được công bằng về lợi ích
của các tổ chức làm dịch vụ, giữa các tỉnh, các vùng trong tỉnh, tránh sự trùng
lặp về diện tích, làm tăng mức hỗ trợ tài chính.
Thu thủy lợi phí từ các đối tượng khác (ngoài sản xuất lương thực), như
cấp nước cho phát điện, sử dụng công trình thủy lợi để kinh doanh du lịch, nuôi
trồng thủy sản.. phải được ràng buộc chặt chẽ hơn, tạo được quyền cho đơn vị
cấp nước nhiều hơn, nhằm tăng nguồn thu cho cho tổ chức dịch vụ cấp nước.
Việc thanh toán cũng là điều kiện đảm bảo tự chủ tài chính cho HTDN,
là yếu tố khuyến khích thực hiện chủ trương chuyển giao công trình cho nông
dân quản lý thông qua tổ HTDN. Vì vậy cần tuân thủ thủ tục thanh toán tài
chính (thông qua hệ thống kho bạc và tài khoản của HTDN), đảm bảo được
quyền của tổ chức HTDN, nông dân, đảm bảo công bằng, công khai, minh
bạch.
Nghị định 115 thực hiện miễn thủy lợi phí đối với nhiều đối tượng và
nếu ước tính sơ bộ thì số tiền cấp bù thủy lợi phí do miễn phải lớn hơn gấp hơn
7 lần so với Nghị định 154, chắc chắn sẽ còn khó khăn hơn nhiều. Vì vậy đề
nghị nghiên cứu chỉ cấp một nguồn (ngân sách TW) bằng một chỉ tiêu pháp
lệnh thống nhất.
Cần áp dụng hình thức đấu thầu hoặc đặt hàng thì các công ty khai thác
công trình thủy lợi, các công ty thủy nông mới được thực sự hoạt động theo
đúng bản chất của một doanh nghiệp và mới được chủ động, tự chủ về tài
chính.
18
- (2) Về tổ chức quản lý
Cần tập trung cải tiến hệ thống quản lý thủy lợi theo hướng xã hội hóa
công trình thủy lợi.
Hoàn thiện và tăng cường hệ thống tổ chức QLKT công trình thủy lợi
thuộc doanh nghiệp Nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Tăng cường phân cấp quản lý, thúc đẩy sự tham gia của người dân (cộng
đồng) trong việc quy hoạch, xây dựng và quản lý khai thác các công trình thuỷ
lợi, trên cơ sở xây dựng được:
a/ Hành lang pháp lý đối với các loại hình tổ chức dùng nước;
b/ Cơ chế phối hợp giữa các tổ chức quản lý thuỷ nông và chính quyền
cơ sở
c/ Cải tiến mô hình tổ chức dùng nước theo hướng thực chất, gọn nhẹ,
hiệu quả.
Tăng cường mối quan hệ chặt chẽ, sự cam kết giữa người cung cấp nước
và người được hưởng dịch vụ nước thông qua các hợp đồng dịch vụ.
(3) Về hạ tầng cơ sở
Hoàn chỉnh và nâng cấp các hệ thống tưới ở miền núi, chú trọng khâu
thiết kế và quản lý chất lượng xây dựng để công trình được bền vững.
Với các hệ thống tưới ở hai vùng đồng bằng lớn chuyển sang giai đoạn
nâng cấp hiện đại hóa (hiện đại hóa hạ tầng cơ sở, hiện đại hóa quản lý).
Áp dụng hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả tưới để đánh giá
hiệu quả của từng hệ thống. Hoạt động này bảo đảm hệ thống tưới được quản lý
bảo dưỡng tốt và có hiệu quả.
(4) Về tài chính
Vận dụng linh hoạt nguyên tắc: Nước có giá trị kinh tế trong mọi dạng sử
dụng canh tranh và cần được thừa nhận là một hàng hoá kinh tế:
19
- - Cần xác định lại định mức chi cho quản lý, vận hành. bảo dưỡng (Thủy
lợi phí) cho các vùng khác nhau (trung du, miền núi), trên cơ sở tính đúng, tính
đủ đầu vào.
- Chính phủ dành một khoản tiền nhất định, căn cứ vào định mức đã xác
định và diện tích được tưới trung bình 3 - 5 năm gần đây để tính khoản tiền cần
cấp cho cả nước và cho từng tỉnh.
(5) Về nhận thức và năng lực quản lý vận hành
- Tăng cường năng lực các doanh nghiệp KTCTTL: Bên cạnh việc tinh
giản bộ máy nhân sự, cần phải tăng cường năng lực của các công ty, xí nghiệp
về mặt trình độ chuyên môn, kỹ năng của đội ngũ nhân lực, cơ sở vật chất,
trang thiết bị quản lý, hiện đại hoá công tác quản lý.
- Nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực của các tổ chức HTDN và
trách nhiệm người dân trong sử dụng tiết kiệm nước, quản lý, vận hành và bảo
vệ công trình thuỷ lợi. Điều này được thực hiện thông qua các chương trình
tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, đào tạo chuyên môn, nghiệp
vụ cho các tổ chức HTDN để quản lý vận hành công trình đúng, hiệu quả, tăng
tuổi thọ CT.
4 KẾT LUẬN
4.1 Kết luận
4.2 Kiến nghị
Để đồng bộ với chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí, để nghị Chính phủ
ban hành sửa đổi, bổ sung một số chính sách sau:
1.Chính sách về đầu tư
Hiện nay, Nhà nước có cơ chế đầu tư vốn xây dựng công trình đảm bảo
yêu cầu đồng bộ, khép kín từ đầu mối đến mặt ruộng trên cơ sở vốn đối ứng,
phân cấp, phân công về đầu tư vốn, có sự ràng buộc chặt chẽ giữa nhà nước -
nhân dân, tuy nhiên nhiều nơi còn có tình trạng TW đầu tư xong đầu mối, kênh
20
nguon tai.lieu . vn