Xem mẫu
- MUC LUC
̣ ̣
LƠÌ CAM
́ ƠN……………………………………………………...
……….2
LƠÌ MỞ ĐÂU…………………………………………….…………..
̀
…….3
NÔI DUNG…………………………………………………………...……..4
̣
CHƯƠNG I: CUNG CÂU
̀ HANG
̀ HOA……………………….
́
………..4
1. Câu hang hoa (DemandD)
̀ ̀ ́ …………………………………....….4
2. Cung hang hoa (SupplyS)
̀ ́ …………………………….…………..4
CHƯƠNG II: THỰC TRANG
̣ CUNG CÂU ̣ Ở VIÊT
̀ GAO ̣
NAM……...5
1. Khai quat chung
́ ́ ………………………………………………...…5
̉ ̣ ̣
2. Xuât khâu gao Viêt Nam: x
́ ưa va nay
̀ ……………………………..6
2.1. Ngaỳ
xưa................................................................................7
2.2. Ngay nay..............................................................................10
̀
CHƯƠNG III: GIAỈ PHAP ̣ QUẢ CUNG –
́ NÂNG CAO HIÊU
CÂU...23
̀
́ ̣ ̉
1. Ap dung “ 3 giam, 3 tăng” ............................................................23
2. Đưa cơ giơí hoá vaò san̉
xuât́........................................................24
KÊT LUÂN..................................................................................................26
́ ̣
̣ ̉
TAI LIÊU THAM KHAO.............................................................................28
̀
1
- LƠI CAM
̀ ́ ƠN
Chúng em xin chân thành cảm ơn:
Ban giám hiệu trường đại học công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh,
khoa quản trị kinh doanh.
Giảng viên Hô Nhât
̀ ̣ Hưng đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn.
Thư viện trường Đại học công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ
trợ tài liệu tham khảo.
Giúp chúng em hoàn thành bài tiểu luận này.
̣
Thay măt nhom 7
́
Nhóm trưởng
Ngô Thi Thanh Th
̣ ư
2
- LỜI MỞ ĐẦU
Xu thế toàn cầu hóa thương mại đang là những đặc điểm cơ bản của
phát triển trên thế giới hiện nay. Đối với Việt Nam, nhất là sau khi gia
nhập khối ASEAN, AFTA, hiệp định thương mại Việt Mĩ và những
bước tiếp theo WTO, đã có nhiều cơ hội phát huy lợi thế so sánh, tháo gỡ
hạn chế về thị trường xuất khẩu, tạo lập môi trường thương mại mới
nhằm trao đổi hàng hóa dịch vụ, kỹ thuật và thông tin đã tạo cơ sở động
lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để phù hợp với xu
thế toàn cầu hoá, Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới trong đường
lối phát triển kinh tế, đặc biệt là có những chính sách mới để phát triển
nông nghiệp nông thôn. Sau hơn mười năm thực hiện chính sách đổi mới,
nông nghiệp đã có những kết quả khá tốt, đặc biệt trong sản xuất cũng
như xuất khẩu lúa gạo. Từ một nước thiếu lương thực, nay đã trở thành
một nước không chỉ đảm bảo đầy đủ các nhu cầu tiêu dùng trong nước
mà còn có khối lượng xuất khẩu ngày một tăng, là nước đứng thứ hai (sau
Thái Lan) về xuất khẩu gạo, sản lượng gạo của Việt Nam hàng năm tăng,
cơ cấu sản xuất nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát huy lợi
thế so sánh các sản phẩm ở từng vùng, từng địa phương trong cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu gạo cũng tăng lên đều đặn, thị trường được mở
rộng liên tục. Hiện nay, lúa gạo của Việt Nam đã có mặt ở hơn 80 quốc
gia trên thế giới. Việc xuất khẩu gạo góp phần quan trọng đưa đất nước
vượt qua thời kỳ khó khăn, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội, tạo tiền đề
bước vào giai đoạn phát triển mới công nghiệp hoá và hiện đại hoa.́
3
- NÔI DUNG
̣
CHƯƠNG I: CUNG CÂU HANG HOA
̀ ̀ ́
̣ ̀ ̀ ̣
Quy luât cung câu la môt trong nh ưng quy luât quan trong cua nên kinh
̃ ̣ ̣ ̉ ̀
́ ́ ̀ ̀ ̣
tê. Phân tich cung câu la môt trong nh ưng ph
̃ ương phap phân tich kinh tê vi
́ ́ ́
mô cơ ban. Nh
̉ ưng khai niêm vê cung câu la môt trong nh
̃ ́ ̣ ̀ ̀ ̀ ̣ ưng ph
̃ ương tiên
̣
̣ ̉ ̉ ́ ́ ới doanh nghiêp va
quan trong đê hiêu biêt nên kinh tê va cân thiêt đôi v
́ ̀ ́ ̀ ̀ ̣ ̀
ngươi tiêu dung đê đ
̀ ̀ ̉ ưa ra quyêt đinh đung đăn.
́ ̣ ́ ́
1. Câu hang hoa
̀ ̀ ́ (DemandD)
́ ̀ ́ ượng hang hoa va dich vu ma ng
Câu hang hoa la sô l
̀ ̀ ̀ ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ươi mua co kha
̀ ́ ̉
năng mua va săn sang mua
̀ ̃ ̀ ở cac m
́ ưc gia khac nhau trong môt th
́ ́ ́ ̣ ời gian
́ ̣
nhât đinh.
Lượng câu la tông sô l
̀ ̀ ̉ ́ ượng hang hoa hay dih vu ma ng
̀ ́ ̣ ̣ ̀ ươi mua săn
̀ ̃
̀ ́ ̉
sang mua va co kha năng mua
̀ ở mưc gia đa cho trong môt th
́ ́ ̃ ̣ ời gian nhât́
̣
đinh.
2. Cung hang hoa (SupplyS)
̀ ́
́ ̀ ́ ượng hang hoa va dich vu ma ng
Cung hang hoa la sô l
̀ ̀ ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ươi ban co kha
̀ ́ ́ ̉
́ ở cac m
năng ban va săn sang ban
́ ̀ ̃ ̀ ́ ưc gia khac nhau trong môt th
́ ́ ́ ̣ ời gian nhât́
̣
đinh.
4
- Lượng cung la tông sô l
̀ ̉ ́ ượng hang hoa hay dich vu ma ng
̀ ́ ̣ ̣ ̀ ươi ban săn
̀ ́ ̃
́ ̀ ́ ̉ ́ ở mưc gia đa cho trong môt th
sang ban va co kha năng ban
̀ ́ ́ ̃ ̣ ời điêm nhât
̉ ́
̣
đinh.
C H
ƯƠ
NG II
: THỰC TRANG CUNG CÂU GAO
̣ ̀ ̣ Ở VIÊT NA
̣ M
Gạo là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng lương thực, được
sản xuất và tiêu dùng chủ yếu ở Châu Á. Cũng như các mặt hàng lương
thực khác, Chính phủ các nước luôn có chính sách và khuyến khích tăng
cung trong nước để đảm bảo an ninh lương thực. Do vậy, khối lượng gạo
trao đổi chiếm khoảng 6 – 7% so với sản lượng sản xuất của thế giới.
Trong thương mại thế giới, khối lượng và giá trị buôn bán mặt hàng gạo
ở mức tương đương với lúa mì và chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng giá trị
thương mại hàng hóa.
1. Khai quat chung
́ ́
Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới,
sản lượng lúa gạo đã gia tăng nhanh chóng. Trong 10 năm (1991 – 2001),
bình quân diện tích tăng 1,73%/năm, năng suất tăng 3,2%/năm và sản
lượng tăng 5%/năm. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, chiếm khoảng 17% lượng gạo
xuất khẩu toàn cầu. Hiện nay, theo mức kim ngạch xuất khẩu, gạo được
xem là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với
giá trị xuất khẩu năm 2002 đạt 726 triệu USD, tăng hơn 3 lần so với năm
1991 và chiếm 4,4% tổng giá trị xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô).
5
- Tuy nhiên, sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn chưa hoàn
toàn là một lựa chọn hướng về xuất khẩu. Dư cung gạo không phải bắt
nguồn từ yêu cầu tăng cường xuất khẩu mà chủ yếu từ chính sách an ninh
lương thực. Do vậy trong sản xuất lúa gạo từ trước đến nay, Việt Nam
vẫn chủ yếu chú trọng đến năng suất mà ít quan tâm đến các giống gạo
ngon có giá trị xuất khẩu cao (những giống gạo thường cho năng suất
thấp).
Căn cứ vào tình hình và yêu cầu thực tiễn, việc khai thác triệt để hơn
nữa những tiềm năng to lớn của đất nước trong sản xuất cũng như tìm
kiếm cách thức tiếp cận thị trường, giữ vững và phát triển thị phần mặt
hàng gạo có hiệu qủa tối ưu luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu và giải
quyết.
2. Xuất khẩu gạo Việt Nam: xưa và nay
Lúa gạo luôn là mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh truyền thống của
Việt Nam. Từ chỗ đảm bảo lương thực còn là mối lo, Việt Nam vươn lên
xếp thứ hai trong dự đoán 10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới
vào năm 2003. Giá trị xuất khẩu khẩu gạo vượt qua con số 1 tỷ USD năm
2005...
́ ́ ̉ ̣ ̀ ̀ ́ ới năm 2003:
* 10 quôc gia xuât khâu gao hang đâu thê gi
1. Thai Lan:
́ 7.750.000 tấn
̣
2. Viêt Nam: 4.250.000 tấn
3. Ấn Độ: 4.000.000 tấn
6
- 4. Mỹ: 3.400.000 tấn
5. Trung Quốc: 2.250.000 tấn
6. Pakistan: 1.100.000 tấn
7. Miến Điện: 1.000.000 tấn
8. Uruguay: 650.000 tấn
9. Ai Cập: 400.000 tấn
10. Argerntina: 350.000 tấn
(Theo VietNamNet, 4/4/2003 Dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ)
2.1. Ngay x
̀ ưa...
Hơn một thế kỷ trước, các thương gia Việt Nam đã tổ chức xuất khẩu
lúa gạo. Tác giả Trần Văn Đạo, trên báo Công nghiệp tiếp thị số ngày
12/2/2007 có bài viết
Theo sử triều Nguyễn, từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã chọn Đà Nẵng
làm cảng biển ngoại giao duy nhất của triều đình. Nhưng từ năm 1802
đến khi Pháp xâm lược nước ta (năm 1858), có tới 20 lần, tàu Pháp, Anh,
Mỹ… đến Đà Nẵng dâng quốc thư, gửi lên các vua Nguyễn xin thông
thương, lập quan hệ buôn bán, nhưng đều bị khước từ. Với chính sách
“trọng nông khinh thương”, “bế quan tỏa cảng” ấy, mặc dù Tường Tộ,
Đặng Huy Tứ, Phạm Phú Thứ đã dâng sớ lên Vua đề nghị chính sách canh
tân đất nước, nhưng cũng không được chấp nhận.
7
- Tuy nhiên, ở Sài Gòn và các địa phương thuộc khu vực Nam bộ vẫn
tìm cách giao thương với các thương nhân nước ngoài. Thời kỳ này, lúa
gạo, hàng tiểu thủ công nghiệp vùng Sài Gòn Gia Định vẫn phát triển.
Sách “Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam” có đoạn:
Ở Sài Gòn Chợ Lớn, các nghề chế biến nông sản như xay xát lúa gạo,
sản xuất đường, sản xuất các loại bột từ khoai, gạo… các nghề rèn, mộc,
đóng thuyền, dệt nhuộm hoạt động mạnh mẽ. Ở làng Bình Tây, vào đầu
thế kỷ XIX đã có 240 nhóm xay gạo, làm hàng xáo, mỗi nhóm có 56 giàn
cối xay. Gạo đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Nam
kỳ thời đó…
Đặc biệt từ đầu những năm 70 của thế kỷ XIX, các thương nhân
người Hoa đã có vai trò quan trọng trong việc thu mua và xuất khẩu gạo ở
8
- miền Nam. Nam kỳ là thuộc địa Pháp, nên các nhà buôn Pháp phải cạnh
tranh với thương nhân người Hoa trong việc xuất khẩu gạo. Sách dẫn trên
đã công bố một tài liệu lịch sử quan trọng, bàn đến các biện pháp bảo
đảm gạo và tăng cường chất lượng gạo Nam kỳ xuất khẩu. Trong đó có
“biên bản” cuộc họp giữa các nhà xuất nhập khẩu người Âu và người
Hoa vào ngày 12/9/1874 tại Sài
Gòn Chợ Lớn nhằm chấn
chỉnh tình hình mất giá và chất
lượng gạo xuất khẩu kém.
Về cách ứng xử trong quan
hệ buôn bán với nông dân và các
thương gia nước ngoài, sách có
đoạn:
“Hôm nay, 12/9/1874, vào lúc 3 giờ chiều, tại Nhà hàng Denis Fréses,
đường Catinat, tất cả thương nhân người Âu và người Hoa ở Sài Gòn và
Chợ Lớn có ký tên dưới đây đã thực sự lo lắng về tình trạng lúa gạo của
chúng ta bị mất giá trên mọi thị trường tiêu thụ do chất lượng kém, mà
nguyên nhân là do người bản xứ cũng như chính những tiểu thương
người Hoa ở Chợ Lớn đã không làm sạch hột gạo và pha trộn gạo.
Tất cả đã họp lại để có những biện pháp nghiêm chỉnh nhằm đảm bảo
một tương lai tốt đẹp hơn cho việc kinh doanh của chúng ta; và sẽ rất
phương hại nếu gạo của chúng ta từ nay về sau không được chuyển giao
tốt hơn.
9
- Có thể nói toàn bộ nền thương mại Sài Gòn dựa vào sản xuất lúa gạo.
Vì vậy, mọi người đều quan tâm muốn cho sản phẩm này được nước
ngoài tìm đến và ưa thích. Cho nên, mọi người đều nhất trí quyết định
chấp nhận các biện pháp sau:
Tất cả thương nhân người Hoa ký tên dưới đây hứa danh dự với người
Âu và với chính bản thân họ rằng: Họ sẽ chăm sóc nghiêm chỉnh chất
lượng gạo chuyển đến thị trường Chợ Lớn, kể từ đợt thu mua lúa gạo
sắp bắt đầu vào tháng 12 tới.
Hai loại gạo ngon sẽ được bán cho thương nhân người Âu là gạo Gò
Công hay gạo tròn và gạo Vĩnh Long hay gạo dài đúng theo hạt gạo làm
mẫu. Các loại gạo này không có bất cứ sự pha trộn nào và không được
vượt quá 3% đến 5% lúa (thóc).
Chỉ chấp nhận 10% tấm đối với các loại gạo tròn và 15% tấm đối với
các loại gạo dài: Loại gạo PyeChow (có lẽ loại “gạo hoa liên” hạt trong
và dài chú thích của HTHA, sách đã dẫn) cũng cùng những điều kiện
như gạo Vĩnh Long.
Gạo bán ra không phù hợp với các hợp đồng đã ký sẽ phải bồi thường
theo ấn định của các trọng tài. Gạo làm mẫu sẽ đặt tại Phòng Thương
mại, được sử dụng để đối chiếu trong trường hợp có tranh chấp” (Sách
đã dẫn, trang 68 69).
2.2. Ngay nay
̀
10
- Theo tổng kết của Xuân Bách, báo Nhân dân số ngày 2/8/2007, trong sáu
tháng đầu năm 2007, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt hơn 2,3 triệu tấn,
kim ngạch 731 triệu USD, giảm hơn 18% về lượng và gần 6% về trị giá
so cùng kỳ năm trước. Các thị trường nhập khẩu gạo chủ yếu của Việt
Nam vẫn tập trung ở khu vực châu Á (chiếm 76,58%), phần còn lại là
châu Phi (14,32%) và châu Mỹ (5,9%).
Tuy nhiên, giá cước vận tải tăng
nhanh đang là khó khăn rất lớn đối
với hoạt động xuất khẩu gạo của
Việt Nam. Cước luồng châu Á tăng
từ 1819 USD/tấn lên 2630
USD/tấn; luồng vận tải đi châu Phi
còn tăng cao hơn, từ 8090
USD/tấn lên tới 120130 USD/tấn,
chiếm trên 30% trị giá FOB của
loại gạo cao cấp khi xuất khẩu.
Mặc dù vậy, cho đến thời điểm hiện nay, tổng lượng gạo xuất khẩu đã
ký hợp đồng đạt 4,5 triệu tấn (trong đó các hợp đồng thương mại chiếm
khoảng 30%). Cụ thể số lượng đã ký có thời gian giao hàng từ ngày 17
còn khoảng 2,2 triệu tấn, trong đó có khoảng 100 nghìn tấn giao vào đầu
năm 2008.
Theo chỉ tiêu xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo trong năm thì các doanh
nghiệp chỉ còn có thể ký xuất khẩu được khoảng 100 nghìn tấn gạo nữa.
11
- Trong khi đó, dự báo sản lượng lương thực hàng hóa của Việt Nam năm
2007 chỉ đạt khoảng 8,7 triệu tấn, điều này cũng có nghĩa là lượng gạo để
xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2007 đã hết.
Trong những ngày cuối tháng 6 và đầu tháng 7, giá xuất khẩu gạo Việt
Nam tiếp tục vững ở mức cao trong bối cảnh nhu cầu xuất khẩu mạnh và
nguồn cung tăng dần. Tại TP Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long,
giá gạo 5% tấm là 303 USD/tấn, trong khi gạo 25% tấm là 285 USD/tấn.
Tuy nhiên, trong tuần qua, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên,
giá xuất khẩu ngày 177 loại 5% tấm là 308 USD/tấn và gạo 25% tấm là
290 USD, tăng 5 USD/tấn so với hồi đầu tháng 7.
Trong thời gian qua các doanh nghiệp đã
tích cực thu mua lượng gạo tồn trong dân
Theo tìm hiểu của Đức Kế (báo Tiền phong), dù giá gạo tăng cao
nhưng lợi nhuận của doanh nghiêp v
̣ ẫn chưa tương xứng. Nguyên nhân
chính là do giá cước vận chuyển đã tăng gần 40% so với cùng kỳ năm
ngoái (khoảng 30 USD/tấn). Thêm nữa, giá cước tăng nhưng vẫn khó thuê
tàu. Về thông tin ngừng ký các hợp đồng xuất khẩu gạo mới có ảnh
12
- hưởng đến người trồng lúa, đại diện Bộ Công Thương cho rằng, không
có ảnh hưởng lớn. Lý do, trong tổng số hơn 1,7 triệu tấn gạo mà các DN
phải giao từ nay đến cuối năm thì các DN mới thu mua được 0,6 triệu tấn.
Số còn lại khá “khít” với lượng gạo còn tồn đọng trong dân.
Thống kê xuất khẩu gạo
Gạo Đơn vị Tăng trưởng
Nghìn tấn
1995 1988.0
1996 3003.0 51%
1997 3575.0 19%
1998 3730.0 4%
1999 4508.3 21%
2000 3476.7 23%
2001 3720.7 7%
2002 3236.2 13%
2003 3810 18%
2004 4063.1 7%
Sơ bộ 2005 5250.3 29%
Tổng cục thống kê, 2007
* Những thách thức...
Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, vẫn còn nhiều thách thức phía
trước. Báo Hải quan, số ngày 22/2/2005 điểm ra ba thách thức trong xuất
khẩu gạo Việt Nam.
* Thứ nhất: Liệu có duy trì được nguồn cung? Có một thực tế đối
với các nước xuất khẩu gạo là hầu như họ không phải lo đầu ra cho sản
phẩm vì nhu cầu tiêu dùng gạo của thế giới ngày càng cao, trong khi
13
- lượng cung luôn thấp hơn nhiều so với cầu.
Theo dự đoán của FAO trong vài thập kỷ tới, thế giới có hàng tỷ người
thiếu đói lương thực, nhu cầu gạo tiêu dùng thế giới năm 2002 là 410,9
triệu tấn, năm 2003 là 414,2 triệu tấn, năm 2004 là 418 triệu tấn. Việt
Nam là một cường quốc xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng quan trọng trong
thị trường thế giới (từ 1218% thị trường gạo thế giới). Năm 2005, để
duy trì được 3,9 triệu tấn xuất khẩu và tăng hơn nữa thì bản thân nông
nghiệp Việt Nam phải duy trì và tăng diện tích năng suất trồng lúa.
Tuy nhiên đây lại là vấn đề hết sức
nan giải vì dự báo thách thức đối với
tương lai cây lúa ở Việt Nam sẽ
không nhỏ. Đó là vấn đề sâu bệnh,
hạn hán, lũ lụt, phèn mặn... Bên cạnh
nỗi lo lũ lụt, mất mùa là nguy cơ cạnh
tranh giữa các loại cây trồng có giá trị
hơn trong cơ chế thị trường đang dần
lấn chỗ đứng cây lúa. Có lẽ vấn đề bảo đảm an toàn lương thực quốc gia
và đảm bảo nguồn cung ứng cho thị trường gạo thế giới không chỉ là vấn
đề của năm 2005 mà có lẽ còn là vấn đề lâu dài đối với chiến lược xuất
khẩu gạo của Việt Nam trong nhiều năm tới.
* Thứ hai: Thách thức về chất lượng và giá thành. Để tăng giá trị
kim ngạch xuất khẩu gạo thì ngoài việc tăng khối lượng hàng xuất, việc
14
- cải tiến chất lượng để tăng giá thành là vấn đề hết sức quan trọng.
Trong những năm vừa qua để phù hợp với yêu cầu thị trường, chất
lượng gạo của Việt Nam đã được cải thiện một bước đáng kể, loại gạo
chất lượng trung bình chiếm tỷ lệ từ 22,4% (năm 1996) tăng lên 85% (năm
2003). Loại gạo chất lượng thấp chiếm tỷ lệ 23% giảm xuống còn 8%.
Nhưng so với gạo của Thái Lan thì gạo xuất khẩu của Việt Nam phần
lớn có chất lượng trung bình. Qua khảo sát cho thấy gạo xuất 5% tấm của
Việt Nam mới đạt 35%; 15% tấm chiếm 40%; 25% tấm chiếm 12%; các
loại khác là 13%.
15
- Do chất lượng gạo chưa cao nên giá bán bình quân các loại gạo xuất
khẩu luôn thấp hơn giá gạo bình quân của Thái Lan. Khoảng cách chênh
lệch giá gạo xuất khẩu Việt Nam với Thái Lan loại 5% tấm năm 2000
là 4050USD/tấn, nay tuy có rút ngắn nhưng gạo 5% tấm của ta vẫn thấp
hơn từ 20 35USD/tấn so với Thái Lan. Còn so sánh bình quân tất cả các
loại gạo xuất khẩu thì hàng của ta luôn thấp hơn hàng Thái Lan khoảng
1224 USD/tấn.
* Thứ ba: Thách thức về thị trường và thương hiệu. Gạo Việt Nam
được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau, bao gồm. Châu Á
46%; Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu Mỹ 1%; các nước khác
13,5%. Ngoài ra Việt Nam còn xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan...
Phần lớn các khu vực thị trương này có trình độ tiêu dùng thấp, khả năng
thanh toán hạn chế. So với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những
thị trường tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế. Nhìn
chung việc xuất khẩu gạo của ta vào thị trường có chất lượng tiêu dùng
cao đang bị cạnh tranh quyết liệt.
16
- Sở dĩ không giành được thị trường tốt ngoài việc chất lượng gạo còn
do chúng ta chậm trong xây dựng thương hiệu. Không phải chúng ta hoàn
toàn yếu kém về chất lượng, chúng ta cũng có nhiều sản phảm chất
lượng cao và độc đáo như gạo thơm, gạo đồ nhưng nhiều người tiêu dùng
thế giới lại không biết đến. Họ tưởng chỉ Thái Lan mới có, vì chúng ta
chưa sớm xây dựng thương hiệu cho những mặt hàng độc đáo này.
Năm 2009, diện tích trồng lúa của Việt Nam hiện là 7,5 triệu ha, sản
lượng khoang 39 tri
̉ ệu tấn. Do vậy mục tiêu xuất khẩu 5 triệu tấn trong
năm 2009 là hoàn toàn có thể đạt được. Tai th
̣ ơi điêm nay, giá phân bón và
̀ ̉ ̀
các vật tư nông nghiệp đã giảm tới
50%, trong khi giá xuất khẩu không
giảm nhiều, là tín hiệu tích cực đối với
nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu
gạo của Việt Nam và là cơ hội để bù
đắp phần nào thiệt hại mà nhà nông và
doanh nghiệp đã gặp phải trong năm 2008. Thêm nữa trong những tháng
đầu năm 2009 giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng trở lại theo
xu hướng tăng giá dự kiến của thị trường thế giới. Vừa qua trước động
thái Tổng công ty Lương thực Miền Nam ký được hợp đồng xuất 100.000
tấn gạo chất lượng cao (loại 5% tấm) sang Malaysia, với mức giá 460
USD/tấn (CIF), tăng 80 USD/tấn so với hợp đồng đã ký trong năm 2008.
Thời gian giao hàng của hợp đồng này là trong quý I/2009; Và các doanh
nghiệp khác cũng ký thêm được hợp đồng bán 60.000 tấn gạo (loại 5%
tấm) sang Irắc. Như vậy việc ký hai hợp đồng xuất khẩu gạo lớn này đã
17
- khai thông thị trường cho gạo Việt Nam tiến vào các khu vực Đông Nam
Á và Trung Đông ngày thêm vững chắc.
Theo dự đoán của Trung tâm thông tin Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, các thị trường lớn truyền thống của Việt Nam có khả năng sẽ mua
khoảng 50% khối lượng gạo xuất khẩu trong năm 2009 của Việt Nam.
Tuy nhiên khối lượng gạo xuất khẩu chỉ có khả năng tăng vào nửa cuối
năm 2009 vì thời điểm đó, việc đàm phán
hợp đồng với các thị trường mới đặc biệt là
các nước châu Phi mới hoàn thành.
Theo các chuyên gia dự báo, thị trường
gạo năm 2010 sẽ sôi động hơn 2009 và giá
xuất cũng tăng cao hơn, doanh nghiệp sẽ
thuận lợi hơn trong thời gian tới.
Trước mắt, theo dự báo của Phó Chủ tịch kênh thông tin Rice Trader,
Tổng biên tập tạp chí Rice Today (thuộc Viện Lúa quốc tế IRRI), trong
tháng 2 và tháng 3/2010, nhu cầu nhập khẩu gạo của Ấn Độ có thể đạt
mức 1,52 triệu tấn. Ngay trong tháng 12/2009, Philippines sẽ mở thầu
600.000 tấn gạo các loại. Đây là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam nắm
bắt để đàm phán hợp đồng.
Nhận định của ông V. Subramanian, Tổng biên tập Tạp chí Rice Today
cho thấy do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và dịch bệnh gây hại nên
năm 2009, 2010 sản lượng lúa của các nước Philippines, Brazil, Ấn Độ bị
18
- sụt giảm đáng kể.
Ông Subramanian cũng xác nhận năm 2009 sản lượng lúa của Ấn Độ
sụt giảm khoảng 4 triệu tấn và có nguy cơ chuyển từ quốc gia xuất khẩu
thứ ba thế giới suốt 21 năm thành nước nhập khẩu khoảng 3 triệu tấn
gạo trong năm tới.
Ông Subramanian cũng đồng ý giá gạo sẽ tăng vì không chỉ nguồn cung
giảm mà còn do ảnh hưởng giá dầu tăng, đồng USD giảm giá, chỉ số giá
cả tăng... Các chủng loại gạo tăng giá mạnh nhất sẽ là gạo cao cấp, gạo
thơm bởi lẽ các nước xuất khẩu chủ lực mặt hàng này là Thái Lan, Ấn
Độ, Pakistan đều bị sụt giảm về sản lượng, trong đó có dự báo là Thái
Lan sẽ bị giảm đến 30% sản lượng vì bị dịch rầy nâu.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tính đến ngày 25/11/2009,
lượng gạo ký hợp đồng đạt trên 6,72 triệu tấn, tăng hơn 47,8% so cùng kỳ
và lượng đã giao ở thời điểm này đạt 5,601 triệu tấn. Số lượng giao trong
tháng 12/2009 khoảng 1,12 triệu tấn.
Trong năm 2009 này, lượng gạo xuất khẩu đạt hơn 6 triệu tấn các loại.
Chiếm 15% thị trường xuất khẩu gạo toàn cầu, nhưng hạt gạo Việt Nam
giá trị xuất còn thấp, một bộ phận đời sống người trồng lúa còn gặp khó
khăn. Năm 2010, các chuyên gia thị trường cho rằng, sẽ có nhiều triển
vọng cho ngành gạo nhưng cũng là năm đầy biến động và thử thách, các
doanh nghiệp cần liên kết lại để nâng cao giá trị hạt gạo Việt Nam.
Mặc dù đạt con số kỷ lục cao nhất về lượng gạo xuất khẩu từ 1989
đến nay, nhưng chất lượng hạt gạo còn thấp, giá trị tăng thêm không cao.
19
- Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chỉ 25% nông
dân tiếp cận được thông tin thị trường và 90% sản phẩm nông nghiệp bán
ở dạng thô. Trong khi đó, mối liên kết “4 nhà” chưa thực sự hài hòa để
các bên cùng có lợi. Điều này làm giảm chất lượng cạnh tranh của hạt
gạo Việt Nam ở thị trường quốc tế, giá gạo xuất bình quân cũng giảm.
Năm 2008, giá gạo bình quân 614 USD/tấn, còn tính đến thời điểm này,
giá gạo xuất khẩu chỉ hơn 404 USD/tấn. Các chuyên gia đánh giá chất
lượng gạo Việt Nam không kém so với các nước xuất khẩu gạo trên thế
giới, đặc biệt là Thái Lan. Giá xuất thấp là do việc điều tiết, tiếp cận thị
trường còn nhiều hạn chế...
Mới đây, tại hội thảo “Triển vọng ngành lúa gạo Việt Nam năm 2010”
do phòng Thương mạiCông nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần
Thơ phối hợp cùng VFA, Viện chính sách và chiến lược (Agroinfo) thuộc
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức. Nhiều đại biểu tham dự
hội thảo cho rằng, để ngành lúa gạo Việt Nam nói chung và Đồng bằng
sông Cửu Long phát triển bền vững, cần có sự liên kết của “4 nhà” trong
xây dựng vùng nguyên liệu.
Thêm vào đó, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn đáp ứng nhu cầu phát
triển, trong đó tập trung giải quyết khâu thu hoạch, tiêu thụ để đảm bảo
đầu ra, chất lượng hạt gạo và khuyến khích nông dân gắn bó với đồng
ruộng. Bởi Pakistan và Myanmar đang nổi lên trở thành đối thủ cạnh tranh
lớn của Việt Nam tại thị trường gạo phẩm cấp thấp 25% tấm ở châu Phi.
20
nguon tai.lieu . vn