Xem mẫu

  1. MUC LUC ̣ ̣ LƠÌ   CAM ́   ƠN……………………………………………………... ……….2 LƠÌ   MỞ   ĐÂU…………………………………………….………….. ̀ …….3 NÔI DUNG…………………………………………………………...……..4 ̣ CHƯƠNG   I:   CUNG   CÂU ̀   HANG ̀   HOA………………………. ́ ………..4 1. Câu hang hoa (Demand­D) ̀ ̀ ́ …………………………………....….4 2. Cung hang hoa (Supply­S) ̀ ́ …………………………….…………..4 CHƯƠNG   II:   THỰC   TRANG ̣   CUNG   CÂU ̣   Ở   VIÊT ̀   GAO ̣   NAM……...5 1. Khai quat chung ́ ́ ………………………………………………...…5 ̉ ̣ ̣ 2. Xuât khâu gao Viêt Nam: x ́ ưa va nay ̀ ……………………………..6 2.1. Ngaỳ   xưa................................................................................7 2.2. Ngay nay..............................................................................10 ̀ CHƯƠNG   III:   GIAỈ   PHAP ̣   QUẢ   CUNG   –  ́   NÂNG   CAO   HIÊU CÂU...23 ̀ ́ ̣ ̉ 1. Ap dung “ 3 giam, 3 tăng” ............................................................23 2. Đưa   cơ   giơí   hoá   vaò   san̉   xuât́........................................................24 KÊT LUÂN..................................................................................................26 ́ ̣ ̣ ̉ TAI LIÊU THAM KHAO.............................................................................28 ̀ 1
  2. LƠI CAM  ̀ ́ ƠN Chúng em xin chân thành cảm ơn: Ban giám hiệu trường đại học công nghiệp thành phố  Hồ  Chí Minh,  khoa quản trị kinh doanh.  Giảng viên Hô Nhât  ̀ ̣ Hưng đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn. Thư  viện trường Đại học công nghiệp thành phố  Hồ  Chí Minh đã hỗ  trợ tài liệu tham khảo.  Giúp chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. ̣ Thay măt nhom 7 ́         Nhóm trưởng     Ngô Thi Thanh Th ̣ ư 2
  3. LỜI MỞ ĐẦU Xu thế toàn cầu hóa thương mại đang là những đặc điểm cơ  bản của   phát triển trên thế  giới hiện nay. Đối với Việt Nam, nhất là sau khi gia   nhập   khối   ASEAN,   AFTA,   hiệp  định   thương   mại   Việt­   Mĩ   và   những  bước tiếp theo WTO, đã có nhiều cơ hội phát huy lợi thế so sánh, tháo gỡ  hạn chế  về  thị  trường xuất khẩu, tạo lập môi trường thương mại mới  nhằm trao đổi hàng hóa­ dịch vụ, kỹ thuật và thông tin đã tạo cơ sở động  lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để  phù hợp với xu  thế toàn cầu hoá, Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới trong đường  lối phát triển kinh tế, đặc biệt là có những chính sách mới để  phát triển  nông nghiệp nông thôn. Sau hơn mười năm thực hiện chính sách đổi mới,   nông nghiệp đã có những kết quả  khá tốt, đặc biệt trong sản xuất cũng  như  xuất khẩu lúa gạo. Từ một nước thiếu lương thực, nay đã trở  thành  một nước không chỉ  đảm bảo đầy đủ  các nhu cầu tiêu dùng trong nước   mà còn có khối lượng xuất khẩu ngày một tăng, là nước đứng thứ hai (sau   Thái Lan) về xuất khẩu gạo, sản lượng gạo của Việt Nam hàng năm tăng,  cơ  cấu sản xuất nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát huy lợi  thế  so sánh các sản phẩm  ở  từng vùng, từng địa phương trong cả  nước.  Kim ngạch xuất khẩu gạo cũng tăng lên đều đặn, thị  trường được mở  rộng liên tục. Hiện nay, lúa gạo của Việt Nam đã có mặt ở  hơn 80 quốc   gia trên thế giới. Việc xuất khẩu gạo góp phần quan trọng đưa đất nước  vượt qua thời kỳ khó khăn, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội, tạo tiền đề  bước vào giai đoạn phát triển mới công nghiệp hoá và hiện đại hoa.́ 3
  4. NÔI DUNG ̣ CHƯƠNG I: CUNG CÂU HANG HOA ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ Quy luât cung câu la môt trong nh ưng quy luât quan trong cua nên kinh ̃ ̣ ̣ ̉ ̀   ́ ́ ̀ ̀ ̣ tê. Phân tich cung câu la môt trong nh ưng ph ̃ ương phap phân tich kinh tê vi ́ ́ ́   mô cơ ban. Nh ̉ ưng khai niêm vê cung câu la môt trong nh ̃ ́ ̣ ̀ ̀ ̀ ̣ ưng ph ̃ ương tiên ̣   ̣ ̉ ̉ ́ ́ ới doanh nghiêp va quan trong đê hiêu biêt nên kinh tê va cân thiêt đôi v ́ ̀ ́ ̀ ̀ ̣ ̀  ngươi tiêu dung đê đ ̀ ̀ ̉ ưa ra quyêt đinh đung đăn. ́ ̣ ́ ́ 1. Câu hang hoa ̀ ̀ ́  (Demand­D) ́ ̀ ́ ượng hang hoa va dich vu ma ng Câu hang hoa la sô l ̀ ̀ ̀ ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ươi mua co kha ̀ ́ ̉  năng mua va săn sang mua  ̀ ̃ ̀ ở  cac m ́ ưc gia khac nhau trong môt th ́ ́ ́ ̣ ời gian   ́ ̣ nhât đinh. Lượng câu la tông sô l ̀ ̀ ̉ ́ ượng hang hoa hay dih vu ma ng ̀ ́ ̣ ̣ ̀ ươi mua săn ̀ ̃  ̀ ́ ̉ sang mua va co kha năng mua  ̀ ở  mưc gia đa cho trong môt th ́ ́ ̃ ̣ ời gian nhât́  ̣ đinh. 2. Cung hang hoa (Supply­S)  ̀ ́ ́ ̀ ́ ượng hang hoa va dich vu ma ng Cung hang hoa la sô l ̀ ̀ ́ ̀ ̣ ̣ ̀ ươi ban co kha ̀ ́ ́ ̉  ́ ở cac m năng ban va săn sang ban  ́ ̀ ̃ ̀ ́ ưc gia khac nhau trong môt th ́ ́ ́ ̣ ời gian nhât́  ̣ đinh. 4
  5. Lượng cung la tông sô l ̀ ̉ ́ ượng hang hoa hay dich vu ma ng ̀ ́ ̣ ̣ ̀ ươi ban săn ̀ ́ ̃  ́ ̀ ́ ̉ ́ ở  mưc gia đa cho trong môt th sang ban va co kha năng ban  ̀ ́ ́ ̃ ̣ ời điêm nhât ̉ ́  ̣ đinh.  C H    ƯƠ    NG II    : THỰC TRANG CUNG CÂU GAO  ̣ ̀ ̣ Ở VIÊT NA ̣ M Gạo là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng lương thực, được  sản xuất và tiêu dùng chủ  yếu  ở Châu Á. Cũng như  các mặt hàng lương   thực khác, Chính phủ  các nước luôn có chính sách và khuyến khích tăng  cung trong nước để đảm bảo an ninh lương thực. Do vậy, khối lượng gạo   trao đổi chiếm khoảng 6 – 7% so với sản lượng sản xuất của thế giới.   Trong thương mại thế giới, khối lượng và giá trị  buôn bán mặt hàng gạo   ở mức tương đương với lúa mì và chiếm tỷ trọng nhỏ  so với tổng giá trị  thương mại hàng hóa. 1. Khai quat chung ́ ́ Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới,  sản lượng lúa gạo đã gia tăng nhanh chóng. Trong 10 năm (1991 – 2001),   bình   quân   diện   tích   tăng   1,73%/năm,   năng   suất   tăng   3,2%/năm   và   sản   lượng tăng 5%/năm. Việt Nam từ  một nước thiếu lương thực trở  thành  nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế  giới, chiếm khoảng 17% lượng gạo   xuất khẩu toàn cầu. Hiện nay, theo mức kim ngạch xuất khẩu, gạo được  xem là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ  lực của Việt Nam với  giá trị xuất khẩu năm 2002 đạt 726 triệu USD, tăng hơn 3 lần so với năm  1991 và chiếm 4,4% tổng giá trị xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô). 5
  6.       Tuy nhiên, sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn chưa hoàn  toàn là một lựa chọn hướng về xuất khẩu. Dư cung gạo không phải bắt  nguồn từ yêu cầu tăng cường xuất khẩu mà chủ yếu từ chính sách an ninh  lương thực. Do vậy trong sản xuất lúa gạo từ  trước đến nay, Việt Nam   vẫn chủ  yếu chú trọng đến năng suất mà ít quan tâm đến các giống gạo  ngon có giá trị  xuất khẩu cao (những giống gạo thường cho năng suất  thấp).       Căn cứ vào tình hình và yêu cầu  thực tiễn, việc khai thác triệt để hơn  nữa những tiềm năng to lớn của đất nước trong sản xuất cũng như  tìm  kiếm cách thức tiếp cận thị trường,  giữ vững và phát triển thị phần mặt  hàng gạo có hiệu qủa tối ưu luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu và giải  quyết. 2. Xuất khẩu gạo Việt Nam: xưa và nay Lúa gạo luôn là mặt hàng xuất khẩu có thế  mạnh truyền thống của  Việt Nam. Từ chỗ đảm bảo lương thực còn là mối lo, Việt Nam vươn lên  xếp thứ  hai trong dự đoán 10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế  giới   vào năm 2003. Giá trị xuất khẩu khẩu gạo vượt qua con số 1 tỷ USD năm  2005... ́ ́ ̉ ̣ ̀ ̀ ́ ới năm 2003:  * 10 quôc gia xuât khâu gao hang đâu thê gi 1. Thai Lan:  ́ 7.750.000 tấn ̣ 2. Viêt Nam:  4.250.000 tấn 3. Ấn Độ: 4.000.000 tấn  6
  7.      4. Mỹ: 3.400.000 tấn       5. Trung Quốc: 2.250.000 tấn      6. Pakistan: 1.100.000 tấn       7. Miến Điện: 1.000.000 tấn       8. Uruguay: 650.000 tấn      9. Ai Cập: 400.000 tấn      10. Argerntina: 350.000 tấn     (Theo VietNamNet, 4/4/2003 Dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ) 2.1. Ngay x ̀ ưa...  Hơn một thế kỷ trước, các thương gia Việt Nam đã tổ chức xuất khẩu  lúa gạo. Tác giả  Trần Văn Đạo, trên báo Công nghiệp tiếp thị  số  ngày   12/2/2007 có bài viết   Theo sử triều Nguyễn, từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã chọn Đà Nẵng  làm cảng biển ngoại giao duy nhất của triều đình. Nhưng từ  năm 1802   đến khi Pháp xâm lược nước ta (năm 1858), có tới 20 lần, tàu Pháp, Anh,   Mỹ… đến Đà Nẵng dâng quốc thư, gửi lên các vua Nguyễn xin thông  thương, lập quan hệ  buôn bán, nhưng đều bị  khước từ.   Với chính sách  “trọng nông khinh thương”, “bế  quan tỏa cảng”  ấy, mặc dù Tường Tộ,  Đặng Huy Tứ, Phạm Phú Thứ đã dâng sớ lên Vua đề nghị chính sách canh   tân đất nước, nhưng cũng không được chấp nhận.  7
  8. Tuy nhiên,  ở  Sài Gòn và các địa phương thuộc khu vực Nam bộ  vẫn  tìm cách giao thương với các thương nhân nước ngoài. Thời kỳ  này, lúa   gạo, hàng tiểu thủ  công nghiệp vùng Sài Gòn ­ Gia Định vẫn phát triển.  Sách “Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam” có đoạn:   Ở  Sài Gòn ­ Chợ Lớn, các nghề  chế biến nông sản như  xay xát lúa gạo,   sản xuất đường, sản xuất các loại bột từ khoai, gạo… các nghề rèn, mộc,   đóng thuyền, dệt nhuộm hoạt động mạnh mẽ. Ở làng Bình Tây, vào đầu  thế kỷ XIX đã có 240 nhóm xay gạo, làm hàng xáo, mỗi nhóm có 5­6 giàn  cối xay. Gạo đã trở  thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Nam   kỳ thời đó… Đặc  biệt  từ   đầu  những năm  70 của  thế  kỷ   XIX,  các  thương  nhân  người Hoa đã có vai trò quan trọng trong việc thu mua và xuất khẩu gạo ở  8
  9. miền Nam. Nam kỳ  là thuộc địa Pháp, nên các nhà buôn Pháp phải cạnh  tranh với thương nhân người Hoa trong việc xuất khẩu gạo. Sách dẫn trên  đã công bố  một tài liệu lịch sử  quan trọng, bàn đến các biện pháp bảo  đảm gạo và tăng cường chất lượng gạo Nam kỳ xuất khẩu. Trong đó có  “biên bản” cuộc họp giữa các nhà xuất nhập khẩu người Âu và người  Hoa vào ngày 12/9/1874 tại Sài  Gòn   ­   Chợ   Lớn   nhằm   chấn  chỉnh tình hình mất giá và chất  lượng gạo xuất khẩu kém.        Về  cách  ứng xử  trong quan  hệ buôn bán với nông dân và các  thương gia nước ngoài, sách có  đoạn: “Hôm nay, 12/9/1874, vào lúc 3 giờ  chiều, tại Nhà hàng Denis Fréses,   đường Catinat, tất cả thương nhân người Âu và người Hoa ở Sài Gòn và   Chợ Lớn có ký tên dưới đây đã thực sự lo lắng về tình trạng lúa gạo của   chúng ta bị  mất giá trên mọi thị  trường tiêu thụ  do chất lượng kém, mà   nguyên   nhân   là   do   người   bản   xứ   cũng   như   chính   những   tiểu   thương   người Hoa ở Chợ Lớn đã không làm sạch hột gạo và pha trộn gạo.     Tất cả đã họp lại để có những biện pháp nghiêm chỉnh nhằm đảm bảo   một tương lai tốt đẹp hơn cho việc kinh doanh của chúng ta; và sẽ  rất   phương hại nếu gạo của chúng ta từ nay về sau không được chuyển giao   tốt hơn.  9
  10.     Có thể nói toàn bộ nền thương mại Sài Gòn dựa vào sản xuất lúa gạo.   Vì vậy, mọi người đều quan tâm muốn cho sản phẩm này được nước   ngoài tìm đến và  ưa thích. Cho nên, mọi người đều nhất trí quyết định   chấp nhận các biện pháp sau:      Tất cả thương nhân người Hoa ký tên dưới đây hứa danh dự với người   Âu và với chính bản thân họ  rằng: Họ  sẽ  chăm sóc nghiêm chỉnh chất   lượng gạo chuyển đến thị  trường Chợ  Lớn, kể  từ  đợt thu mua lúa gạo   sắp bắt đầu vào tháng 12 tới.      Hai loại gạo ngon sẽ được bán cho thương nhân người Âu là gạo Gò   Công hay gạo tròn và gạo Vĩnh Long hay gạo dài đúng theo hạt gạo làm   mẫu. Các loại gạo này không có bất cứ  sự  pha trộn nào và không được   vượt quá 3% đến 5% lúa (thóc).      Chỉ chấp nhận 10% tấm đối với các loại gạo tròn và 15% tấm đối với   các loại gạo dài: Loại gạo Pye­Chow (có lẽ loại “gạo hoa liên” hạt trong   và dài ­ chú thích của HT­HA, sách đã dẫn) cũng cùng những điều kiện   như gạo Vĩnh Long.      Gạo bán ra không phù hợp với các hợp đồng đã ký sẽ phải bồi thường   theo  ấn định của các trọng tài. Gạo làm mẫu sẽ  đặt tại Phòng Thương   mại, được sử  dụng để  đối chiếu trong trường hợp có tranh chấp” (Sách  đã dẫn, trang 68 ­ 69). 2.2. Ngay nay ̀ 10
  11.     Theo tổng kết của Xuân Bách, báo Nhân dân số ngày 2/8/2007, trong sáu  tháng đầu năm 2007, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt hơn 2,3 triệu tấn,   kim ngạch 731 triệu USD, giảm hơn 18% về lượng và gần 6% về  trị  giá  so cùng kỳ  năm trước. Các thị  trường nhập khẩu gạo chủ  yếu của Việt   Nam vẫn tập trung  ở  khu vực châu Á (chiếm 76,58%), phần còn lại là   châu Phi (14,32%) và châu Mỹ (5,9%).      Tuy nhiên, giá cước vận tải tăng  nhanh đang là khó khăn rất lớn đối  với hoạt động xuất khẩu gạo của  Việt Nam. Cước luồng châu Á tăng  từ   18­19   USD/tấn   lên   26­30  USD/tấn; luồng vận tải đi châu Phi  còn   tăng   cao   hơn,   từ   80­90  USD/tấn lên tới 120­130 USD/tấn,  chiếm   trên   30%   trị   giá   FOB   của  loại gạo cao cấp khi xuất khẩu.      Mặc dù vậy, cho đến thời điểm hiện nay, tổng lượng gạo xuất khẩu đã  ký hợp đồng đạt 4,5 triệu tấn (trong đó các hợp đồng thương mại chiếm   khoảng 30%). Cụ  thể  số  lượng đã ký có thời gian giao hàng từ  ngày 1­7   còn khoảng 2,2 triệu tấn, trong đó có khoảng 100 nghìn tấn giao vào đầu   năm 2008.         Theo chỉ  tiêu xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo trong năm thì các doanh   nghiệp chỉ còn có thể ký xuất khẩu được khoảng 100 nghìn tấn gạo nữa.   11
  12. Trong khi đó, dự  báo sản lượng lương thực hàng hóa của Việt Nam năm  2007 chỉ đạt khoảng 8,7 triệu tấn, điều này cũng có nghĩa là lượng gạo để  xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2007 đã hết.      Trong những ngày cuối tháng 6 và đầu tháng 7, giá xuất khẩu gạo Việt  Nam tiếp tục vững ở mức cao trong bối cảnh nhu cầu xuất khẩu mạnh và  nguồn cung tăng dần. Tại TP Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long,  giá gạo 5% tấm là 303 USD/tấn, trong khi gạo 25% tấm là 285 USD/tấn.   Tuy nhiên, trong tuần qua, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên,   giá xuất khẩu ngày 17­7 loại 5% tấm là 308 USD/tấn và gạo 25% tấm là  290 USD, tăng 5 USD/tấn so với hồi đầu tháng 7.  Trong thời gian qua các doanh nghiệp đã   tích cực thu mua lượng gạo tồn trong dân         Theo tìm hiểu của Đức Kế  (báo Tiền phong), dù giá gạo tăng cao  nhưng lợi nhuận của doanh nghiêp v ̣ ẫn chưa tương xứng.  Nguyên nhân  chính là do giá cước vận chuyển đã tăng gần 40% so với cùng kỳ  năm  ngoái (khoảng 30 USD/tấn). Thêm nữa, giá cước tăng nhưng vẫn khó thuê  tàu. Về  thông tin ngừng ký các hợp đồng xuất khẩu gạo mới có   ảnh  12
  13. hưởng đến người trồng lúa, đại diện Bộ  Công Thương cho rằng, không  có ảnh hưởng lớn. Lý do, trong tổng số hơn 1,7 triệu tấn gạo mà các DN  phải giao từ nay đến cuối năm thì các DN mới thu mua được 0,6 triệu tấn.  Số còn lại khá “khít” với lượng gạo còn tồn đọng trong dân.  Thống kê xuất khẩu gạo Gạo Đơn vị Tăng trưởng Nghìn tấn 1995 1988.0 ­ 1996 3003.0 51% 1997 3575.0 19% 1998 3730.0 4% 1999 4508.3 21% 2000 3476.7 ­23% 2001 3720.7 7% 2002 3236.2 ­13% 2003 3810 18% 2004 4063.1 7% Sơ bộ 2005 5250.3 29% Tổng cục thống kê, 2007           * Những thách thức...         Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, vẫn còn nhiều thách thức phía  trước. Báo Hải quan, số ngày 22/2/2005 điểm ra ba  thách thức trong xuất  khẩu gạo Việt Nam.     * Thứ nhất: Liệu có duy trì được nguồn cung? Có một thực tế đối  với các nước xuất khẩu gạo là hầu như họ không phải lo đầu ra cho sản  phẩm vì nhu cầu tiêu dùng gạo của thế giới ngày càng cao, trong khi  13
  14. lượng cung luôn thấp hơn nhiều so với cầu.      Theo dự đoán của FAO trong vài thập kỷ tới, thế giới có hàng tỷ người  thiếu đói lương thực, nhu cầu gạo tiêu dùng thế giới năm 2002 là 410,9  triệu tấn, năm 2003 là 414,2 triệu tấn, năm 2004 là 418 triệu tấn. Việt  Nam là một cường quốc xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng quan trọng trong  thị trường thế giới (từ 12­18% thị trường gạo thế giới). Năm 2005, để  duy trì được 3,9 triệu tấn xuất khẩu và tăng hơn nữa thì bản thân nông  nghiệp Việt Nam phải duy trì và tăng diện tích năng suất trồng lúa.      Tuy nhiên đây lại là vấn đề hết sức  nan giải vì dự báo thách thức đối với  tương lai cây lúa ở Việt Nam sẽ  không nhỏ. Đó là vấn đề sâu bệnh,  hạn hán, lũ lụt, phèn mặn... Bên cạnh  nỗi lo lũ lụt, mất mùa là nguy cơ cạnh  tranh giữa các loại cây trồng có giá trị  hơn trong cơ chế thị trường đang dần  lấn chỗ đứng cây lúa. Có lẽ vấn đề bảo đảm an toàn lương thực quốc gia  và đảm bảo nguồn cung ứng cho thị trường gạo thế giới không chỉ là vấn  đề của năm 2005 mà có lẽ còn là vấn đề lâu dài đối với chiến lược xuất  khẩu gạo của Việt Nam trong nhiều năm tới. *  Thứ  hai: Thách thức về  chất lượng và giá thành.  Để  tăng giá trị  kim ngạch xuất khẩu gạo thì ngoài việc tăng khối lượng hàng xuất, việc  14
  15. cải tiến chất lượng  để  tăng giá thành là vấn đề  hết sức quan trọng.          Trong những năm vừa qua để  phù hợp với yêu cầu thị  trường, chất   lượng gạo của Việt Nam đã được cải thiện một bước đáng kể, loại gạo   chất lượng trung bình chiếm tỷ lệ từ 22,4% (năm 1996) tăng lên 85% (năm  2003). Loại gạo chất lượng thấp chiếm tỷ lệ 23% giảm xuống còn 8%.  Nhưng so với gạo của Thái Lan thì gạo xuất khẩu của Việt Nam phần  lớn có chất lượng trung bình. Qua khảo sát cho thấy gạo xuất 5% tấm của  Việt Nam mới đạt 35%; 15% tấm chiếm 40%; 25% tấm chiếm 12%; các  loại   khác   là   13%.        15
  16. Do chất lượng gạo chưa cao nên giá bán bình quân các loại gạo xuất   khẩu luôn thấp hơn giá gạo bình quân của Thái Lan. Khoảng cách chênh  lệch giá gạo xuất khẩu Việt     Nam với Thái Lan loại 5% tấm năm 2000   là 40­50USD/tấn, nay tuy có rút ngắn nhưng gạo 5% tấm của ta vẫn thấp   hơn từ 20­ 35USD/tấn so với Thái Lan. Còn so sánh bình quân tất cả  các   loại gạo xuất khẩu thì hàng của ta luôn thấp hơn hàng Thái Lan khoảng  12­24 USD/tấn.   * Thứ ba: Thách thức về thị trường và thương hiệu. Gạo Việt Nam  được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau, bao gồm. Châu Á  46%;   Trung   Đông   25%;   Châu   Phi   12%;   Châu   Mỹ   1%;   các   nước   khác  13,5%. Ngoài ra Việt Nam còn xuất sang Trung Quốc,  Ấn Độ, Pakistan...   Phần lớn các khu vực thị trương này có trình độ  tiêu dùng thấp, khả năng  thanh toán hạn chế. So với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những  thị  trường tiêu thụ  có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế. Nhìn  chung việc xuất khẩu gạo của ta vào thị  trường có chất lượng tiêu dùng  cao  đang bị cạnh tranh quyết liệt. 16
  17.      Sở dĩ không giành được thị trường tốt ngoài việc chất lượng gạo còn  do chúng ta chậm trong xây dựng thương hiệu. Không phải chúng ta hoàn  toàn  yếu  kém  về   chất  lượng, chúng  ta cũng  có  nhiều sản  phảm chất  lượng cao và độc đáo như gạo thơm, gạo đồ nhưng nhiều người tiêu dùng  thế  giới lại không biết đến. Họ  tưởng chỉ  Thái Lan mới có, vì chúng ta  chưa sớm xây dựng thương hiệu cho những mặt hàng độc đáo này.  Năm 2009, diện tích trồng lúa của Việt Nam hiện là 7,5 triệu ha, sản  lượng khoang 39 tri ̉ ệu tấn. Do vậy mục tiêu xuất khẩu 5 triệu tấn trong   năm 2009 là hoàn toàn có thể đạt được. Tai th ̣ ơi điêm nay, giá phân bón và ̀ ̉ ̀   các   vật   tư   nông   nghiệp   đã   giảm   tới  50%,   trong   khi   giá   xuất   khẩu   không  giảm nhiều, là tín hiệu tích cực đối với  nông   dân   và   doanh   nghiệp   xuất   khẩu  gạo của Việt  Nam  và là cơ  hội để  bù  đắp phần nào thiệt hại mà nhà nông và  doanh nghiệp đã gặp phải trong năm 2008. Thêm nữa trong những tháng  đầu năm 2009 giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ tăng trở lại theo  xu hướng tăng giá dự  kiến của thị  trường thế  giới. Vừa qua trước động   thái Tổng công ty Lương thực Miền  Nam ký được hợp đồng xuất 100.000  tấn gạo chất lượng cao (loại 5% tấm) sang Malaysia, với mức giá 460   USD/tấn (CIF), tăng 80 USD/tấn so với hợp đồng đã ký trong năm 2008.  Thời gian giao hàng của hợp đồng này là trong quý I/2009; Và các doanh  nghiệp khác cũng ký thêm được hợp đồng bán 60.000 tấn gạo (loại 5%  tấm) sang Irắc. Như vậy việc ký hai hợp đồng xuất khẩu gạo lớn này đã  17
  18. khai thông thị trường cho gạo Việt Nam tiến vào các khu vực Đông Nam  Á và Trung Đông ngày thêm vững chắc.     Theo dự đoán của Trung tâm thông tin Nông nghiệp và Phát triển nông  thôn, các thị trường lớn truyền thống của Việt  Nam có khả năng sẽ  mua  khoảng 50% khối lượng gạo xuất khẩu trong năm  2009  của Việt  Nam.  Tuy nhiên khối lượng gạo xuất khẩu chỉ có khả  năng tăng vào nửa cuối   năm  2009  vì  thời  điểm  đó, việc  đàm phán  hợp đồng với các thị trường mới đặc biệt là  các nước châu Phi mới hoàn thành.        Theo các chuyên gia dự  báo, thị  trường  gạo  năm 2010 sẽ  sôi động hơn 2009 và giá  xuất   cũng   tăng   cao   hơn,   doanh   nghiệp   sẽ  thuận   lợi   hơn   trong   thời   gian   tới.        Trước mắt, theo dự  báo của Phó Chủ  tịch kênh thông tin Rice Trader,  Tổng biên tập tạp chí Rice Today (thuộc Viện Lúa quốc tế ­ IRRI), trong  tháng 2 và tháng 3/2010, nhu cầu nhập khẩu gạo của  Ấn Độ  có thể  đạt  mức 1,5­2 triệu tấn. Ngay trong tháng 12/2009, Philippines sẽ  mở  thầu   600.000 tấn gạo các loại. Đây là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam nắm   bắt   để   đàm   phán   hợp   đồng.     Nhận định của ông V. Subramanian, Tổng biên tập Tạp chí Rice Today   cho thấy do  ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và dịch bệnh gây hại nên  năm 2009, 2010 sản lượng lúa của các nước Philippines, Brazil, Ấn Độ  bị  18
  19. sụt   giảm   đáng   kể.        Ông Subramanian cũng xác nhận năm 2009 sản lượng lúa của  Ấn Độ  sụt giảm khoảng 4 triệu tấn và có nguy cơ chuyển từ quốc gia xuất khẩu  thứ  ba thế  giới suốt 21 năm thành nước nhập khẩu khoảng 3 triệu tấn   gạo   trong   năm   tới.     Ông Subramanian cũng đồng ý giá gạo sẽ tăng vì không chỉ nguồn cung  giảm mà còn do ảnh hưởng giá dầu tăng, đồng USD giảm giá, chỉ  số  giá  cả  tăng... Các chủng loại gạo tăng giá mạnh nhất sẽ là gạo cao cấp, gạo   thơm bởi lẽ  các nước xuất khẩu chủ  lực mặt hàng này là Thái Lan,  Ấn   Độ, Pakistan đều bị  sụt giảm về  sản lượng, trong đó có dự  báo là Thái   Lan   sẽ   bị   giảm   đến   30%   sản   lượng   vì   bị   dịch   rầy   nâu.     Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tính đến ngày 25/11/2009,  lượng gạo ký hợp đồng đạt trên 6,72 triệu tấn, tăng hơn 47,8% so cùng kỳ  và lượng đã giao ở thời điểm này đạt 5,601 triệu tấn. Số lượng giao trong  tháng   12/2009   khoảng   1,12   triệu   tấn.       Trong năm 2009 này, lượng gạo xuất khẩu đạt hơn 6 triệu tấn các loại.  Chiếm 15% thị trường xuất khẩu gạo toàn cầu, nhưng hạt gạo Việt Nam   giá trị xuất còn thấp, một bộ phận đời sống người trồng lúa còn gặp khó  khăn. Năm 2010, các chuyên gia thị  trường cho rằng, sẽ  có nhiều triển  vọng cho ngành gạo nhưng cũng là năm đầy biến động và thử  thách, các  doanh nghiệp cần liên kết lại  để  nâng cao giá trị  hạt gạo Việt Nam.      Mặc dù đạt con số  kỷ  lục cao nhất về lượng gạo xuất khẩu từ 1989  đến nay, nhưng chất lượng hạt gạo còn thấp, giá trị tăng thêm không cao.   19
  20. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chỉ 25% nông  dân tiếp cận được thông tin thị trường và 90% sản phẩm nông nghiệp bán   ở  dạng thô. Trong khi đó, mối liên kết “4 nhà” chưa thực sự  hài hòa để  các bên cùng có lợi. Điều này làm giảm chất lượng cạnh tranh của hạt   gạo Việt Nam  ở  thị trường quốc tế, giá gạo xuất bình quân cũng giảm.      Năm 2008, giá gạo bình quân 614 USD/tấn, còn tính đến thời điểm này,   giá gạo xuất khẩu chỉ  hơn 404 USD/tấn. Các chuyên gia đánh giá chất   lượng gạo Việt Nam không kém so với các nước xuất khẩu gạo trên thế  giới, đặc biệt là Thái Lan. Giá xuất thấp là do việc điều tiết, tiếp cận thị  trường   còn   nhiều   hạn   chế...     Mới đây, tại hội thảo “Triển vọng ngành lúa gạo Việt Nam năm 2010”  do  phòng  Thương  mại­Công   nghiệp  Việt  Nam  (VCCI)   chi  nhánh  Cần   Thơ  phối hợp cùng VFA, Viện chính sách và chiến lược (Agroinfo) thuộc   Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức. Nhiều đại biểu tham dự  hội thảo cho rằng, để  ngành lúa gạo Việt Nam nói chung và Đồng bằng   sông Cửu Long phát triển bền vững, cần có sự liên kết của “4 nhà” trong  xây   dựng   vùng   nguyên   liệu.        Thêm vào đó, đầu tư  cơ  sở  hạ  tầng nông thôn đáp  ứng nhu cầu phát  triển, trong đó tập trung giải quyết khâu thu hoạch, tiêu thụ  để  đảm bảo  đầu ra, chất lượng hạt gạo và khuyến khích nông dân gắn bó với đồng  ruộng. Bởi Pakistan và Myanmar đang nổi lên trở thành đối thủ cạnh tranh   lớn của Việt Nam tại thị trường gạo phẩm cấp thấp 25% tấm  ở châu Phi. 20
nguon tai.lieu . vn