Xem mẫu

Tiểu Luận Cuối Khoá LỜI NÓI ĐẦU Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến rõ rệt, nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì quan hệ giao lưu về kinh tế, văn hóa, xã hội … ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp hơn. Bên cạnh đó, với chính sách mở cửa mời gọi đầu tư và Việt Nam đã gia nhập WTO thì việc giao lưu quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá với các nước trên thế giới không ngừng được phát triển. Trong quá trình hợp tác, kinh doanh, trao đổi trên các lĩnh vực không thể tránh khỏi những mâu thuẩn tranh chấp về quyền lợi phát sinh dẫn đến khởi kiện lẫn nhau. Tuy nhiên không phải lúc nào người dân cũng đồng ý với các phán quyết của Toà án hay các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Từ thực tế trên, đòi hỏi Nhà nước phải có một cơ chế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật này, cũng như bảo đảm pháp lụât được thực thi nhằm giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, Toà hành chính Việt Nam đã ra đời nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền khiếu nại, tố cáo của các tổ chức và cá nhân theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật hiện hành. Để Toà hành chính thực hiện tốt các chức năng của mình một cách có hiệu quả, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về các thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; khiếu nại, tố cáo ngày càng hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21/05/1996 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu mà xã hội và nhà nước đặt ra để giải quyết các vụ án hành chính (VAHC) đạt hiệu quả. Tuy nhiên, sau một thời gian đi vàoáap dụng thực hiện ®· ph¸t sinh nhiều vướng mắc về thủ tục vµ thẩm quyền, đồng thời để hoàn thiện hơn nữa Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, đảm bảo hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về tố tụng mµ Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành hai pháp lệnh số 10/1998/PL­UBTVQH ngày 25/12/1998 vµ số 29/2006/ PL­ UBTVQH ngày 04/05/2006 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều về thủ tục Nguyễn Minh Tâm Trang : 1 Tiểu Luận Cuối Khoá giải quyết các vô ¸n hµnh chÝnh, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Toà hành chính tại Việt Nam. Do sự hạn chế về thời gian, tài liệu, cũng như phương pháp nghiên cứu đề tài: “THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH” được nghiên cứu dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các vụ án hành chính, kết hợp với tìm hiểu thực tiễn áp dụng của Toà án có thẩm quyền về giải quyết các vụ án hành chính ở địa phương và số liệu, tư liệu thu thập được nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy, cô quan tâm đóng góp ý kiến để khóa luận được tốt hơn. CHƯƠNG I Nguyễn Minh Tâm Trang : 2 Tiểu Luận Cuối Khoá KHÁI QUÁT V Ề TOÀ HÀNH CHÍNH CƠ QUAN TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM. 1. Khi niệm về Tài phán hành chính. Thuật ngữ “Tài phán” có gốc La­tinh là “Jurisdictio”. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ “Tài phán” nghĩa là phán quyền, tức là quyền lực của Chính phủ (bên cạnh việc điều hành hành chính) trong việc phán xét tính đúng sai của các hoạt động hành chính diễn ra trên lãnh thổ nhất định; theo nghĩa hẹp, đây là thẩm quyền hoÆc quyÒn tµi ph¸n của cơ quan Toà án trong việc lắng nghe, xem xét, đánh giá và ra các phán quyết được thể hiện trong các bản án hay phán quyết của Toà đối với một vụ việc cụ thể trong mét ph¹m vi l·nh thæ nhÊt ®Þnh. Quan niệm của các nước theo hệ thống luật chung (Common law), tiền thân là luật Anglo­ Saxon: Anh, Mỹ, Canada, Úc, Na Uy, Ailen, Malaysia, Singapore … Hệ thống luật này được phát triển dựa trên cơ sở của án lệ, nhµ níc kh«ng cã sù ph©n biệt rạch ròi giữa Luật công với Luật tư. Các tranh chấp hành chính được giải quyết bởi các cơ quan đã ban hành ra quyết định hành chính bị khiếu nại, hoặc bởi các cơ quan cấp trên của cơ quan đó. Trong trường hợp không thoả mãn với việc giải quyết khiếu nại này, người dân được quyền kiện ra Toà án. Tài phán hành chính là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án tư pháp, nhằm đảm bảo chức năng xét xử chung của một loại cơ quan tài phán. Tuy nhiên, trong xu hướng quốc tế hoá, hợp tác hoá các nước theo hệ thống luật chung này cũng bắt đầu thành lập những bộ phận chuyên trách trong toà thường để giải quyết các vụ kiện hành chính trong các vụ kiện đặc biệt quan trọng như: lĩnh vực đất đai, thuế, bảo hiểm … Quan niệm của các nước theo hệ thống Châu Âu lục địa (continental law hay civil law), tiền thân là luật La Mã (Romano­Germani): Pháp, Đức, Thuỵ Điển, Bỉ, Hà Lan, Châu Mỹ La Tinh, các nước Châu Phi, các nước Trung Cận Đông, Indonexia. Các nước theo hệ thống luật này có sự phân biệt rạch ròi giữa luật công và luật tư. Tranh chấp hành chính được xác định là một tranh chấp trong lĩnh vực công phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân công dân với các cơ quan, tổ chức công quyền. Bên cạnh đó, các quốc gia này đã thành lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập (Toà án hành Nguyễn Minh Tâm Trang : 3 Tiểu Luận Cuối Khoá chính) bên cạnh hệ thống Toà án tư pháp để chuyên thực hiện chức năng xét xử các khiếu kiện hành chính. Hình thức này được gọi là hình thức “lưỡng hệ tài phán”. Như vậy, tài phán hành chính, theo quan niệm của các quốc gia theo hệ thống luật lục địa, là hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính giữa công dân và tổ chức của họ với các tổ chức, cá nhân công quyền và hoạt động tư vấn pháp luật cho Chính phủ. Quan niệm của Việt Nam: Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, chính phủ mới đã đặt biệt quan tâm tới việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hành vi, quyết định hành chính của cơ quan công quyền xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của họ, cũng như việc xử lý nghiªm khắc đối với các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ nhà nước có thẩm quyền khi thực thi công vụ. Đồng thời trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu mới mà nền hành chính phải đáp ứng. Để đáp ứng yêu cầu bức thiết này, Đảng và Nhà nước đã tổng kết thực tiễn về hoạt động Tài phán hành chính và học tập kinh nghiệm của cộng đồng quốc tế, trên cơ sở đó Việt Nam đã lựa chọn mô hình Tài phán hành chính có tính quá độ đặc thù riêng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước. Theo từ điển tiếng Việt “ tài phán” là việc “ xét xử, phán xử đúng, sai”. Dưới góc độ pháp lý thì khái niệm “ tài phán” rộng hơn khái niệm xét xử . Như vậy, Tài phán hành chính Việt Nam được hiểu là hoạt động xét xử các vụ án hành chính theo quy định của pháp luật về Tố tụng Hành chính và chủ yếu do các Toà hành chính (THC), các Tài phán hành chính trong hệ thống Toà án Nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan Nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước. 2. Toà hành chính­ Cơ quan Tài phán Việt Nam: Theo Luật Tổ chức Toà án Nhân dân năm 2002 Việt Nam có các Toà án sau: Toà án Nhân dân tối cao; Toà án Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Toà án Nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. 3. Đối tượng xét xử của Toà hành chính việt Nam: a.Quyết định hành chính (QĐHC): Nguyễn Minh Tâm Trang : 4 Tiểu Luận Cuối Khoá Theo Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006( PLTTGQCVAHC) thì QĐHC là quyết định bằng văn bản của cơ quan Hành chính Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Điều này chứng tỏ rằng không phải mọi quyết định hành chính đều thuộc đối tượng xét xử của Tòa hành chính. Từ đó cho ta thấy rằng một QĐHC chỉ trở thành đối tượng xét xử của Toà án khi thoả mãn đồng thời các dấu hiệu: Thứ nhất xét về mặt hình thức: Một QĐHC phải được thể hiện dưới hình thức văn bản mà không bao hàm các quyết định bằng các hình thức như: tín hiệu, lời nói … (quyết định không thành văn). Một quyết định khi được thể hiện dưới hình thức một văn bản sẽ đem lại nhiều ưu thế cả về tính chính xác lẫn tính ổn định. Từ đó đã hình thành nên hai quan điểm : ­ Quan điểm thứ 1: Tòa hành chính chỉ xét xử các QĐHC bằng văn bản mà văn bản đó phải có tên gọi là “quyết định”, còn các văn bản không có tên gọi là “quyết định” sẽ không thuộc đối tượng xét xử xủa Tòa hành chính như các quyết định giao đất, quyết định thu hồi đất, quyết định giải quyết tranh chấp đất… ­ Quan điểm thứ 2: Bất kỳ một văn bản nào mà nội dung của nó chứa đựng một văn bản cá biệt đều thuộc đối tượng xét xử của Tòa hành chính, không phụ thuộc vào nó được ban hành đúng tên gọi hay không. Ví dụ: thông báo về việc kỷ luật buộc thôi việc… Như vậy, quan điểm thứ hai là đúng đắn hơn. vì một quyết định cá biệt ban hành không đúng thủ tục, tên gọi cũng đã là một căn cứ để cá nhân, tổ chức có thể khởi kiện tại Tòa hành chính có thẩm quyền. Thứ hai về mặt nội dung: QĐHC theo luật tố tụng hành chính phải là những quyết định cá biệt (quyết định áp dụng quy phạm pháp luật hành chính), nghĩa là nó chỉ được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính (còn được gọi là quyết định áp dụng pháp luật). Đối tượng áp dụng của quyết định là cá nhân hoặc tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp và được ghi nhận trong nội dung của quyết định có thể là người khởi kiện vụ án hành chính với quyết định hành chính đó. Ví dụ: Một người có thể khởi kiện ra Toà án yêu cầu huỷ bỏ quyết định của cấp có thẩm quyền về việc thu hồi giấy phép về sản xuất, kinh doanh cuả mình. Cũng như ví dụ trên nếu cấp có thẩm quyền Nguyễn Minh Tâm Trang : 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn