Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ************************* TIỂU LUẬN  MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH  VÀ LẠM PHÁT NHÌN TỪ LÝ THUYẾT VÀ THỰC  TIỄN GV. hướng dẫn: TS. Diệp Gia Luật Nhóm thực hiện:  ­ Vũ Thị Thu Hương ­ Nguyễn Thị Hồng Hạnh ­ Trần Lê Trung Huy ­ Nguyễn Thị Thanh Vân ­ Lê Đình Lâm ­ Nguyễn Duy Quang
  2. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Lớp: Cao học kinh tế Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh – 10/2009 CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ THUYẾT 1.1.  NGÂN  SÁCH  NHÀ  NƯỚC  VÀ  VẤN  ĐỀ   BỘI  CHI  NGÂN  SÁCH   NHÀ NƯỚC 1.1.1. Ngân sách nhà nước là gì? Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và có  hiệu lực từ  01/01/2004 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ  các khoản thu, chi của   Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện   trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. 1.1.2. Bội chi ngân sách nhà nước: Nguyên nhân và giải pháp a/ Thế nào là bội chi ngân sách nhà nước? Bội chi Ngân sách Nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ  kinh tế) là  số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó.  Bội chi ngân sách Nhà nước có thể  do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có   thể  nằm trong chiến lược phát triển kinh tế  của chính phủ  nhằm thực hiện chính  sách kinh tế vĩ mô. Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về Ngân sách Nhà nước hằng   năm như sau:  Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm Tổng Thu Tổng Chi 2
  3. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ  D. Chi thường xuyên. phí). E. Chi đầu tư. B.   Thu   về   vốn   (bán   tài   sản   nhà  F. Cho vay thuần (= cho vay mới ­ thu nợ  nước). gốc). C. Bù đắp thâm hụt ­ Viện trợ. ­ Lấy từ nguồn dự trữ. ­ Vay thuần (= vay mới ­ trả  nợ  gốc). Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E + F Công   thức   tính   bội   chi   Ngân   sách   Nhà   nước   của   một   năm   sẽ   như   sau: Bội chi Ngân sách Nhà nước = Tổng chi ­ Tổng thu = (D + E + F) ­ (A + B) = C   (khoản bù đắp thâm hụt) b/ Nguyên nhân  Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN: ­ Do tác động của chu kỳ kinh doanh:  Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại   tăng lên nhằm giải quyết những khó khăn mới về  kinh tế  và xã hội. Điều đó làm   cho mức bội chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước  sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi   NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi   chu kỳ. ­ Do tác động của chính sách cơ  cấu thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước  thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi   NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì  mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu   chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu. 3
  4. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Trong   điều   kiện   bình   thường   (không   có   chiến   tranh,   không   có   thiên   tai   lớn,...), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN. c/ Các giải pháp xử lý  Để  duy trì sự  phát triển bền vững và duy trì được tốc độ  tăng trưởng của   nền kinh tế  thì chắc chắn cần có sự  can thiệp của nhà nước bằng các chính sách,   trong đó chính sách tài khóa. Tuy nhiên do nguồn lực có hạn vì vậy đòi hỏi phải có  chính sách tài khóa phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế  và sự  phát triển trong  tương lai. Từ sự lựa chọn này sẽ đưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài  trợ cho chi tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc  gia ở mức hợp lý.  Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế,   phí, lệ  phí; giảm chi ngân sách; vay nợ  trong nước, vay nợ  nước ngoài; phát hành  tiền để bù đắp chi tiêu;... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều  kiện kinh tế  và chính sách kinh tế  tài chính trong từng thời kỳ  của mỗi quốc gia.   Tuy nhiên mỗi giải pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước đều có sự tác động đến  nền kinh tế vĩ mô. Về  cơ  bản, các quốc gia trên thế  giới thường sử  dụng các giải pháp chủ  yếu  nhằm xử lý bội chi NSNN như sau: Thứ  nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể  thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải  pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp  bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn   vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với  khả năng tài chính của quốc gia.  Thứ  hai: Vay nợ  cả  trong và ngoài nước. Để  bù đắp thâm hụt NSNN, nhà   nước có thể vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều   sẽ  kéo theo vấn đề  phụ  thuộc nước ngoài cả  về  chính trị  lẫn kinh tế  và làm giảm   dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự  trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng   4
  5. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ hoảng tỷ giá. Vay nợ  trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ  ­ trả  lãi ­ bội  chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ  công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả  của   NSNN cho các thời kỳ sau... Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc  biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên,  đây không phải là giải pháp cơ  bản để  xử  lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế  không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất   và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp  trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả  năng cạnh tranh của nền   kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ  tư: Triệt để  tiết kiệm các khoản đầu tư  công và chi thường xuyên từ  NSNN. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với   mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để  tiết kiệm   các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo,   hiệu quả  nhằm tạo ra những đột phá cho sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội, đặc biệt   những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư.   Mặt khác, bên cạnh việc triệt để  tiết kiệm các khoản đầu tư  công, những khoản  chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản   chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết. Thứ  năm:  Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình  ổn giá cả,  ổn  định chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh  tế. Để  thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử  dụng một hệ  thống chính sách và   công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế ­ xã hội, nhằm   giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối   quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với  giữ gìn môi trường v.v.. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn   nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với  quản lý NSNN nói chung và xử  lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp   thiết. 5
  6. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ 1.2. LẠM PHÁT 1.2.1. Lạm phát là gì? Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để  chỉ  sự  tăng lên theo   thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một  năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả  của một loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không   thay đổi. Khi giá trị  của hàng hoá và dịch vụ  tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của  đồng tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được  số lượng hàng hoá ít hơn so với năm trước.  Có nhiều dạng lạm phát khác nhau, như  lạm phát một con số  (single­digit   inflation), lạm phát hai con số  (double­digit inflation), lạm phát phi mã (galloping  inflation), siêu lạm phát (hyper inflation)... 1.2.2. Lạm phát được tính như thế nào? Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một  lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ  liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước). Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra  một chỉ số  giá cả  để  đo mức giá cả  trung bình, là mức giá trung bình của một tập   hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của   chỉ số  này phụ  thuộc vào tỷ  trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ  số,   cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên,   thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là CPI ­ Chỉ số giá tiêu dùng (consumer price   index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau, bao   gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ  y tế..., được mua bởi "người  tiêu dùng thông thường". 1.2.3. Nguyên nhân 6
  7. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Theo lý thuyết kinh tế  học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo,  chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế,   lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự  mất cân đối trong cơ cấu đầu tư... Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, người ta chia ra 2 loại lạm phát là   lạm phát tiền tệ và lạm phát giả cả. Lạm phát tiền tệ được hiểu là do mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá  mức cần thiết dẫn đến tình trạng mất giá của đồng bản tệ.  Lạm phát giả cả được hiểu là giá cả của hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng  lên do cầu lớn hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ  tăng lên (chi phí đẩy).  Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường  hoặc là lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ. Nếu điều tiết lạm phát ở mức độ ổn định và hợp lý sẽ có  tác dụng thúc đẩy  sự  phát triển của nền kinh tế, hay nói cách khác là  điều kiện đủ  cho tăng trưởng  kinh tế, điều kiện cần là vấn đề  của Chính phủ  trong việc phát triển nguồn lực,  vốn và công nghệ kỹ thuật... Nghiên cứu bước đầu của IFM (2006) về mức độ lạm   phát ở Việt Nam với các nước Đông Nam á cũng đã chỉ ra răng, mức lạm lạm phát   tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các nước vùng Đông Nam á, trong đó có Việt Nam  khoảng 3.6% trong khi các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối  ưu cho tăng trưởng. 1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ LẠM PHÁT Chi ngân sách là một trong những công cụ  chính sách quan trọng của Nhà  nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế ­ xã hội. Khi sản lượng của nền kinh  tế  thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ  có thể  tăng mức chi ngân   sách, chấp nhận bội chi để  thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách  không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay  cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD).   7
  8. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất   lớn về  đầu tư  cơ  sở  hạ  tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước... Nhiều nước   phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội  chi ngân sách. Tuy nhiên chính mức tăng chi tiêu của Chính phủ  sẽ  kéo theo hiệu  ứng tăng giá ở một số các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ do gia tăng cầu dẫn đến tình  trạng lạm phát do cầu kéo, song song với việc giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng cũng   sẽ kéo theo các chi phí sản xuất tăng dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy. Mặt khác khi các nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng tăng cao mà ngân sách nhà  nước lại thiếu hụt dẫn đến không đủ nguồn vốn đối ứng để đầu tư  cho phát triển.  Để bù đắp phần thiếu hụt, Nhà nước có thể sử dụng chính sách phát hành thêm tiền   và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên việc tăng chi tiêu của Chính phủ  trong trường hợp  này sẽ  gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả  năng tài chính của quốc   gia. Nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để  bù đắp bội chi NSNN thì sẽ  gây ra tình trạng lạm phát tiền tệ.  CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VỀ LẠM PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN  SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM NĂM 2004­2008 2.1. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 35 PCI (% change over previous year) 30 25 20 15 10 5 0 04 04 04 05 05 05 06 06 06 07 07 07 08 08 08 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 1 5 9 1 5 9 1 5 9 1 5 9 1 5 9 8 M M M M M M M M M M M M M M M
  9. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Nguồn: IMF, International Financial Statistics Nhìn vào số  liệu cho thấy tình hình lạm phát tại Việt Nam có chiều hướng  gia tăng cao từ giữa cuối năm 2007 và đạt đỉnh cao vào tháng 8/2008 với mức tăng  CPI là hơn 30%. Tính trung bình tỷ lệ lạm phát năm 2007 là 8.86% (nhưng nếu tính   riêng 4 tháng cuối năm 2007 là gần 12%) và năm 2008 là 22,97%. Đây có thể  nói là  mức tăng cao nhất kể từ năm 2004 trở về đây. 2.2. TÌNH HÌNH BỘI CHI NGÂN SÁCH TẠI VIỆT NAM Do việc xem xét là căn cứ thực tế tại Việt Nam, do đó các số liệu về bội chi  ngân sách được nghiên cứu  ở  đây là lấy số liệu được tính theo cách tính riêng của   Việt Nam và công bố trong nước, không sử dụng số liệu công bố quốc tế ( số liệu   của Bộ  tài chính công bố  tại website: http://www.mof.gov.vn/ . Riêng số  liệu 2008  do Bộ tài chính chưa công bố số liệu quyết toán vì vậy số liệu 2008 được lấy từ số  liệu ước thực hiện lần 2. Từ  năm 2004­2007,  tình hình bội chi NSNN  tăng lên qua các năm  và  về  cơ  bản đuợc cân đối  ở  mức 5% GDP và thực hiện  ở  mức 4,9%­5,5% GDP  và nằm  9
  10. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ trong mức mà quốc hội đã thông qua từ đầu năm. Tuy nhiên nếu chỉ xem xét bội chi  NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm gần đây;  đặc biệt những năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn  được đưa ra đầu tư  các công trình giao thông và thuỷ  lợi thông qua hình thức phát  hành trái phiếu Chính phủ  không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể  đến lượng   công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp   học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại trên vào  cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao   hơn (khoảng 5,8­6,2% GDP). Tốc độ tăng bội chi NSNN là khá cao,  trung bình ở mức 18%/ năm trong các  năm 2005­ 2006 và đột biến ở năm 2007 với mức là 33% so với năm 2006 . Tốc độ  này nếu trừ  đi yếu tố  tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ  lệ  lạm phát từ  2004 – 2007  (năm 2004: 7,8%; năm 2005: 8,3%; năm 2006: 7,4%; năm 2007: 8,86% ). Riêng năm  2008 tốc độ tăng bội chi giảm hẳn xuống so với 2007, đây là do chính sách cắt giảm  chi tiêu của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Về bù đắp bội chi ngân sách, trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã  kiểm soát bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức  ép tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của  Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. 10
  11. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Bội chi ngân sách Nhà nước cả  năm 2004 bằng 16,2% tổng số  chi, chiếm   khoảng 4.85% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu  năm, trong đó 79% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 21% từ  nguồn vay   nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước cả  năm 2005 bằng 15,5% tổng số  chi, chiếm   khoảng 4,86% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu  năm, trong đó 80% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 20 % từ nguồn vay   nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước cả  năm 2006 bằng 15,8% tổng số  chi, chiếm   khoảng 5,64% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu  năm, trong đó 74,2% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 25,8% từ  nguồn  vay nước ngoài. Bội  chi  ngân  sách  Nhà   nước   năm  2007  bằng  16,2  %   tổng  số   chi,   chiếm   khoảng 5% GDP và bằng mức bội chi dự  toán năm đã được Quốc hội thông qua   đầu năm, trong đó 76,1% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 23,9% từ  nguồn vay nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2008  ước tính bằng 13,6%   tổng số  chi   chiếm 4.95% GDP và bằng 97,5% mức bội chi dự  toán năm đã được Quốc hội   thông qua đầu năm, trong đó 77,3% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và  22,7% được bù đắp từ nguồn vay nước ngoài.  11
  12. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam tăng lên qua các năm cũng là dễ  hiểu khi Việt Nam là đất nước đang phát triển. Để  khẳng định điều này hãy xem  xét việc chi từ ngân sách cho 3 nội dung chủ yếu đó là:   Chi đầu tư phát triển, Chi  trả  nợ  và viện trợ, Chi phát triển sự  nghiệp KT­XH, quốc phòng, an ninh, quản lý  hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể.  Ta có thể nhận thấy rằng chi cho hoạt động thường xuyên là chiếm chủ yếu và  có sự gia tăng khá mạnh, tốc độ tăng trung bình là 23% /năm trong giai đoạn 2004 –  2008 ; các khoản trả nợ vay cũng như viện trợ cũng chiếm đáng kể trong số chi của  Chính phủ  (nhằm trả  các khoản nợ  vay nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách),  ngoài ra chi cho đầu tư phát triển (chi cho đầu tư xây dựng cơ bản là chủ yếu ) tuy  không phải chiếm chủ  yếu trong nguồn chi ngân sách nhưng lại có tốc độ  tăng   mạnh qua các năm với tốc độ  tăng trung bình là 25%/năm trong giai đoạn 2004 –   2008, đặc biệt năm 2008 đã tăng 43% so với 2007. 12
  13. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ 2.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ LẠM PHÁT  TẠI  VIỆT NAM  Số liệu thống kê cho thấy khi mức bội chi ngân sách nhà nước tăng thì tỷ lệ  lạm phát cũng có chiều hướng gia tăng. Nếu như  tỷ  lệ  lạm phát trung bình năm  2006 là 7,4 %, mức bội chi ngân sách  ở mức 48,61 ngàn tỷ đồng, đến năm 2007 tỷ  lệ lạm phát trung bình tăng lên là 8,9% thì mức bội chi ngân sách cũng tăng lên 64.56  ngàn tỷ  đồng và năm 2008 tỷ  lệ  lạm phát trung bình tăng đột biến lên 22,97% thì  mức bội chi ngân sách cũng tăng lên 66,2 ngàn tỷ đồng.  Ngoài ra khi nhìn vào khoản bù đắp thâm hụt ngân sách cho thấy phần lớn  nguồn bù đắp là từ nguồn vay trong nước (trung bình chiếm trên 75%), phần còn lại  là từ nguồn vay nước ngoài và hoàn toàn không có việc bù đắp thâm hụt thông qua   việc phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên phần huy động từ vay nước   ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào thị  trường trong nước, vì số  tiền vay nước   ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho  NHNN là chính, mà NHNN lại cung  ứng tiền ra để  mua ngoại tệ  là cơ  bản. Đây   chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ  bên ngoài vào bù đắp   thâm hụt NSNN quá lớn. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài  vào bù đắp thâm hụt  NSNN  chiếm khoảng 1/3 số  thâm hụt, tức là khoảng 1,5%­ 1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả  phần vay về  cho vay lại, lượng tiền từ bên   ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%­2,5% GDP.   13
  14. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Đây chính là một nguyên nhân gây ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và  năm 2008. Còn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ  thu tiền từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông nên không   làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng quay tiền tệ có thể  tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức cần thi ết. Điều này, cũng tạo ra  tăng cung tiền tệ do vòng quay tiền tệ lớn, có tạo ra tác động một phần gây ra lạm   phát, nhưng không lớn bằng vay vốn từ bên ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN. Tuy nhiên nhìn nhận một cách thẳng thắn thì ngay từ đầu năm 20 06, những   dấu hiệu của lạm phát đã xuất hiện, nhưng trong quản lý và điều hành NSNN vẫn  chưa đánh giá hết tác động của nó nên việc đầu tư  công vẫn còn quá lớn và chưa  hiệu quả. Chi thường xuyên chưa được giám sát chặt chẽ  nên còn lãng phí, xử  lý   bội chi NSNN vẫn còn chưa quyết liệt. Cụ thể là bội chi ngân sách còn tăng qua các   năm. Do vậy, để  kiềm chế  lạm phát, ngoài các biện pháp kiềm chế  lạm phát mà  Chính phủ, cũng như các bộ, ngành đang thực thi, vấn đề quản lý chặt tình hình chi  NSNN như: chi thường xuyên của các cơ  quan nhà nước, đầu tư  công... thông qua   việc xử  lý bội chi NSNN là vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng. Nhận   thức được vấn đề này ngay từ những tháng đầu năm 2008, Chính phủ  áp dụng các  biện pháp cắt giảm đầu tư  công và chi tiêu thường xuyên từ  ngân sách nhà nước.  Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ thứ 4, quốc hội khóa XII ngày 16/10/2008, trong   năm 2008 Chính phủ đã đình hoãn, giãn tiến độ thi công trên 3.100 công trình dự án   với khoảng 31.000 tỷ  đồng vốn từ  nguồn ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà   nước, cắt giảm khoảng 9.000 tỷ đồng vốn trái phiếu chính phủ, tiết kiệm 2.700 tỷ  đồng chi thường xuyên của các cơ quan đơn vị  thụ  hưởng ngân sách. Những động  thái này đã góp phần làm cho tỷ  lệ  lạm phát 3 tháng cuối năm 2008 giảm so với   những tháng giữa năm 2008. 2.4.   NHỮNG  VẤN   ĐỀ   ĐẶT   RA   VỀ   XỬ   LÝ   BỘI   CHI   NSNN   NHẰM   KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 14
  15. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ Thực   tế   trong những  năm  qua,   chúng  ta  đã  kiểm  soát được  mức  bội chi   NSNN  ở  giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ  yếu chi   đầu tư  phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ  nguồn thu   thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi  nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như  kiểm soát vấn đề  bội chi  NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện  nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời  sống nhân dân, chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề  sau trong việc xử  lý bội chi  NSNN:  ­ Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế  quá lớn đòi hỏi phải đi vay để  bù đắp. Điều này được thể  hiện qua việc chúng ta   chỉ vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia  phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Nhưng, trên thực tế số  tiền vay, đặc biệt   của nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư  dàn trải ở  các địa   phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ  thi công những dự  án trọng   điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư  phát  triển lấy từ nguồn vốn vay (cả trong và ngoài nước) cần bảo đảm các quy định của  Luật NSNN và mức bội chi cho phép hằng năm do Quốc hội quyết định. ­ Sự  thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử  dụng như một công  cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Chúng ta có thể dễ  dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi  lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt   ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số  bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn   còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách  ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ  động và điều đó   không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra   xem toàn bộ  số  bội chi có được sử  dụng để  chi đầu tư  phát triển cho các dự  án   trọng điểm và hiệu quả  qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế  phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không. 15
  16. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ ­ Chưa chú trọng mối quan hệ  giữa  chi  đầu tư  phát triển và chi thường   xuyên. Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội  chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể  thấy, thông qua  cơ  chế  phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ  chi giữa các cấp ngân sách và cơ  chế  bổ  sung từ  ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được  phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong   dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi   hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi   hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình,  làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách, để  công trình vận hành và phát huy tác dụng, luôn phải đòi hỏi nhu cầu kinh phí cho  hoạt động. Để  có nguồn kinh phí này hoặc phải đi vay để  duy trì hoạt động hoặc  yêu cầu cấp trên bổ  sung ngân sách, cả  hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi  NSNN. ­ Liệu có tồn tại vấn đề  bội chi ngân sách địa phương  ở  Việt Nam hay   không? Biện pháp xử lý ra sao? Quản lý vấn đề  này thế  nào? Đó là những vấn đề  cần được xem xét kỹ càng hơn. Theo khoản 3, Điều 8, Luật NSNN năm 1996, ngân  sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi không vượt quá tổng số  thu, trường hợp tỉnh, thành phố  trực thuộc Trung  ương có nhu cầu đầu tư  kết cấu  hạ tầng thì được phép huy động vốn theo quyết định của Thủ  tướng Chính phủ  và  phải cân đối vào ngân sách địa phương để trả nợ khi đến hạn. Luật NSNN sửa đổi  năm 2002 mở  rộng thêm quyền chủ  động trong việc huy động vốn của ngân sách   địa phương. Vay vốn đầu tư  thuộc danh mục đầu tư  trong kế  hoạch 5 năm do hội  đồng nhân dân tỉnh quyết định (không phải theo quyết định của Thủ  tướng Chính  phủ quy định như trước đây). Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc   là không có việc bội chi ngân sách địa phương nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa  phương vay để đầu tư.  Vấn đề là ở chỗ, hiện nay, các địa phương vay vốn để  đầu tư theo quy định   tại khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN tương đối lớn và chưa được quản lý một cách   chặt chẽ. Với nhiều địa phương đây là điều kiện để tăng cường cơ sở vật chất, tạo   16
  17. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ điều kiện phát triển kinh tế. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện  có chưa tận dụng hết, các địa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm   tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đầu tư phát triển. Trong khi phải đi vay thì ngân sách   địa phương lại để  kết dư  lớn, có tỉnh cuối năm kết dư  bằng 78,5% số  bổ  sung từ  ngân sách trung  ương và bằng 24,9 % so với tổng chi ngân sách địa phương. Mặt  khác, còn một số khoản vay không cân đối vào ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc   Trung  ương tạo nên khoản thu chi ngoài ngân sách và khi đến hạn, ngân sách địa  phương không có nguồn để thanh toán gốc và lãi.  Thực chất các khoản vay của ngân sách địa phương chính là bội chi NSNN.  Một trong những nguyên tắc quản lý NSNN  ở  Việt Nam là tuân theo theo nguyên  tắc thống nhất, tổng thể  NSNN bao gồm ngân sách các cấp, điều đó đòi hỏi các  khoản bội chi của ngân sách địa phương phải được tổng hợp để tính bội chi NSNN.   Tuy nhiên khi vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể  hiện đầy  đủ bội chi khi quyết toán NSNN. Mức bội chi NSNN hằng năm trình Quốc hội mới   chỉ phản ánh được mức bội chi của ngân sách trung ương. Đây là một trong những  mắt xích cần phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi NSNN.  Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam theo chúng tôi cần  thiết phải có những quy định chặt chẽ  hơn, theo đó có thể  áp dụng các giải pháp   sau:  1­ Tập trung các khoản vay do Trung  ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư  của địa phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực  hiện như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn  và quản lý chặt chẽ  số  bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu  thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu tư  phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực   hiện thắt chặt, hạn chế  vay để  đầu tư  sẽ  kìm hãm sự  phát triển của nền kinh tế  đang có nhu cầu vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ  các   khoản vay nợ  của NSNN, nhất là vay của ngân sách địa phương, thì nguy cơ   ảnh  hưởng đến an ninh tài chính quốc gia, sự  bền vững của NSNN. Thực hiện đầu tư  tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền   17
  18. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ trong  toàn  quốc.   Kinh  nghiệm  của   Trung   Quốc:  nghiêm  cấm  ngân  sách  các   địa   phương vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản chi đầu tư  của địa phương  được xem xét tính toán và bổ sung từ ngân sách trung ương. 2 ­ Giải quyết tốt mối quan hệ  giữa chi  đầu tư  phát triển và chi thường  xuyên, nhất là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để  đầu tư, sẽ kiên quyết không bố  trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các   công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như  chi phí duy tu, bảo dưỡng   các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân  đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách. 3 ­ Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát  chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và   phát triển các cơ  sở  kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được  tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay  vốn của các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ  chẳng những tạo ra nguy  cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của   NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ  trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế  khác với mức bội chi báo cáo cáo   Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ  cho NSNN, bởi NSNN là một thể  thống   nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào ngân sách trung ương, do vậy   suy cho cùng, các khoản nợ  của ngân sách địa phương sẽ  là gánh nợ  của NSNN   trong khi việc đầu tư lại dàn trải, kém hiệu quả. 18
  19. Tiểu luận môn Tài chính – Tiền tệ CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN Nhìn lại toàn bộ quá trình nhiều năm qua cho thấy, mối quan hệ giữa bội chi   NSNN với lạm phát có thể rút ra một số kết luận sau: ­ NSNN có mối quan hệ  nhân quả  với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá  mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc   phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. ­ Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích  đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên,   nếu tăng chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN  quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến gánh nặng  nợ. Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở chu kỳ sau sẽ  kéo theo lạm phát, mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư phát triển và giảm đầu tư  phát triển kéo theo giảm tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng  của chi tiêu NSNN ở mức cho phép nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp  theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao. 19
nguon tai.lieu . vn