Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Bộ môn Sinh Thái Nhân Văn
TIỂU LUẬN
SINH THÁI NHÂN VĂN
ĐỀ TÀI: “Tìm hiểu về tình trạng ô nhiễm sông Tô Lịch”
Giáo viên hướng dẫn: Phan Thanh Thuý
Nhóm thực hiện: Hoàng Thị Trang 532468
Trương Thị Thuý 532463
Nguyễn Văn Quân 532448
Bùi Duy Khải 532429
Lớp: MTC – K53
1
- I. Mở đầu.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, nền kinh tế thế giới phát
triển trong nửa sau thế kỷ XX đã phát triển rất nhanh. Sự phát triển mà người ta gọi
là “Thần kỳ” đó đã làm cho cuộc sống của con người thay đổi rất nhiều. Chất lượng
cuộc sống được nâng lên, tuổi thọ bình quân tăng….Nhưng bên cạnh đó, tăng trưởng
kinh tế đã làm xuất hiện những xu hướng tiêu cực đang ngày một ảnh hưởng nghiêm
trọng tới cuộc sống của hành tinh chúng ta. Suy thoái môi trường là một trong những
xu hướng đó. Các hệ sinh thái cơ bản đóng vai trò vào việc duy trì sự sống trên trái đất
như đất , rừng, nước…ngày nay đang bị suy thoái hết sức nghiêm trọng. Tình trạng ô
nhiễm nước là đáng báo động hơn cả, nhất là ở những khu đô thị và công nghiệp. Ô
nhiễm nước mặt với các loại tác nhân có độc tính cao như kim loại nặng, vi sinh vật
gây bệnh…ngày càng lan rộng và thậm chí xâm lấn sâu vào cả nước ngầm. Đây là
một trong những thực trạng đáng ngại nhất của sự hủy hoại môi trường tự nhiên do
nền văn minh đương thời. Môi trường nước rất dễ bị ô nhiễm, các ô nhiễm từ đất,
không khí đều có thể làm ô nhiễm nước, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người và
các sinh vật khác. Ở Việt Nam tình trạng ô nhiễm nước mặt tại các con sông đang là
một vấn đề đáng lo ngại. Con sông ô nhiễm nhất phải kể đến đó là :
“Sông Tô Lịch ”
Sông Tô Lịch chảy trong địa phận Hà Nội. Dòng chính sông Tô Lịch khi chảy
qua các quận huyện: Thanh Xuân, Hoàng Mai và Thanh Trì còn được gọi là Kim Giang.
Tên sông Tô Lịch tương truyền lấy từ tên một vị thần sống vào thời nhà Tấn đô hộ xứ
Giao Chỉ. Đến thời nhà Đường, nơi đây là vị trí xây dựng thành Đại La.
Tô Lịch vốn là một phân lưu của sông Hồng, đưa nước từ sông Hồng sang sông
Nhuệ. Đoạn sông từ phố Cầu Gỗ đến đường Bưởi, nay đã bị lấp, chỉ còn lại một vài
dấu tích như ở Thụy Khuê. Và do đó, Tô Lịch không còn thông với sông Hồng nữa.
Dòng chảy của đoạn sông đã bị lấp này theo lộ trình sau: từ Cầu Gỗ ngược lên (cống
chéo) Hàng Lược, men theo đường Phan Đình Phùng (phía ngoài mặt bắc thành Hà
Nội), rồi chảy dọc theo hai phố Thụy Khuê và Hoàng Hoa Thám ngày nay ra đến
đường Bưởi (gặp đoạn sông Tô Lịch ngày nay).
2
- Sông Tô Lịch ngày nay bắt đầu từ cầu Giấy, chảy cùng hướng với đường Láng
và đường Kim Giang về phía Nam tới sông Nhuệ.
3
- II. Nội Dung
1. Hiện trạng và nguyên nhân gây ô nhiễm sông Tô Lịch
Sông Tô Lịch đen ngòm với hàng ngàn họng cống ngày đêm xả nước thải chưa qua xử
lý vào con sông này - Ảnh: T.PHÙNG
Sông Tô Lịch là một sông cổ của Thăng Long. Ngày trước, hai bên bờ sông
buôn bán tấp nập. Từ khi bị lấp, sông chỉ là một dòng thoát nước thải của thành phố,
bị ô nhiễm nặng. Từ cuối những năm 1990, Tô Lịch bắt đầu được nạo vét đáy sông, kè
bờ, để làm sách và chống lấn chiếm.
4
- Họp chợ
bên dòng
sông ô
nhiễm và
xả rác trực
tiếp xuống
đó
Là một trong 4 con sông tiêu thoát chính của TP, song sông Tô Lịch chính là
sông mẹ của 3 con sông còn lại (Kim Ngưu, Lừ, Sét). Cũng vì thế, từ nhiều năm nay,
môi trường sông Tô Lịch đã ô nhiễm nghiêm trọng và bị coi là sông chết do phải gánh
lượng nước thải chưa qua xử lý quá lớn.
5
- Ở Hà Nội, theo số liệu khảo sát của Sở Khoa học, Công nghệ và môi trường
năm 2002, tổng lượng nước thải một ngày khoảng 300-400 nghìn m3, bao gồm chủ
yếu là nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nước thải bệnh viện và hầu như không được
xử lý mà thải trực tiếp vào hệ thống tiêu thoát nước đô thị, làm ô nhiễm nguồn nước
mặt và nước ngầm của thành phố. Hầu như toàn bộ hệ thống sông nhận nước thải
của thành phố Hà Nội, đặc biệt là sông Tô Lịch đã bị ô nhiễm, một số chất ô nhiễm đã
vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Tuy nhiên, nguồn nước thải sông Tô Lịch hiện
vẫn được sử dụng hàng ngày phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp ở thôn
Bằng B, xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, một huyện ngoại thành của thành phố Hà
Nội.
Nước sông Tô Lịch đã và đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, nước đen, bốc mùi hôi
thối rất khó chịu, gây bức xúc cho hàng trăm nghìn người dân sống hai bên bờ sông từ
nhiều năm nay. Chính những người dân đó và những nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất… dọc theo con sông đó đã thải ra dòng sông này biết bao rác rưởi, vật nuôi bị
chết và hàng chục vạn mét khối nước thải chưa qua xử lý mỗi ngày. Với bấy nhiêu
thứ bẩn thỉu dồn xuống dòng sông, đổ xuống dòng sông qua hàng chục năm nay thì làm
sao dòng nước không bị ô nhiễm nặng nề, hôi hám kinh người khiến ta mỗi khi đi qua
phải đeo khẩu trang hoặc bịt mũi bước vội.
6
- Nước thải được xả ra sông qua các họng cống.
Các kết quả phân tích về hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước sông Tô
Lịch chỉ ra rằng diễn biến chất lượng nước trên trục chính sông thay đổi khá phức tạp.
Mặc dù, tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về nước thải đô thị và công nghiệp năm 2001
đã tồn tại nhưng có kế thừa một số tiêu chuẩn đã có trong TCVN năm 1995. Trong
khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 5942/1995, 5945/1995
loại B vẫn được sử dụng để tiện so sánh.
So sánh với giá trị giới hạn cho phép về nồng độ các chất ô nhiễm trong nước
mặt loại B (TCVN 5942, 5945/1995 loại B), chỉ có pH tại các điểm lựa chọn lấy mẫu
trên sông Tô Lịch nằm trong giới hạn cho phép còn lại các chỉ tiêu khác đều vượt quá
giới hạn, đặc biệt là chỉ tiêu N-NH4+ và Coliform.
Cụ thể N-NH4+ cao hơn TCVN 5945/1995 loại B từ 2,6-25,22 lần; Coliform cao
hơn 90-1340 lần so với tiêu chuẩn cho phép; COD cao hơn TCVN 5942/1995 loại B từ
3,37-8,2 lần và cao hơn TCVN 5945/1995 loại B từ 1,18-2,87 lần; N-NO2 cao hơn
TCVN 5942/1995 loại B từ 1,42-32,7 lần; chỉ có 1 mẫu N-NO3 tại mương Nghĩa Đô có
7
- hàm lượng cao hơn TCVN 5942/1995 loại B 1,78 lần; PO43- cao hơn TCVN 5945/1995
loại B từ 5,33-18,33 lần.
Theo kết quả nghiên cứu của đề tài này (4/2004), nồng độ một số kim loại
nặng đều chưa vượt quá tiêu chuẩn cho phép đối với nước mặt (TCVN 5942/1995
loại B). Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu năm 1997, nước thải sông Tô Lịch còn bị ô
nhiễm bởi các kim loại nặng như Pb, Mn, Zn. Như vậy, hàm lượng các kim loại nặng
có thể biến động theo thời gian hoặc trong quá trình cải tạo các sông nâng cao công tác
quản lý môi trường của các cấp, các ngành, các cơ sở công nghiệp mà hàm lượng các
kim loại nặng giảm đi. Nhìn chung, nước sông Tô Lịch bị ô nhiễm nhưng với mức độ
khác nhau trên dọc sông, có xu hướng giảm dần từ thượng lưu (cống Bưởi) đến hạ
lưu (Cầu Sơn) và diễn biến khá phức tạp. Hàm lượng các chất ô nhiễm tập trung cao
ở khu thượng lưu, trung lưu của sông Tô Lịch, sau đó giảm dần ở các đoạn sau.
Nhưng đến khu vực hạ lưu, do có sự gia nhập thêm nước thải khi qua các khu vực
công nghiệp như Thượng Đình, sông Lừ và sông Kim Ngưu thì hàm lượng một số chất
ô nhiễm, đặc biệt là nhóm nitơ, Photpho có xu hướng biến động nhiều (hàm lượng
của chúng tăng thêm).
Sở Tài nguyên Môi trường Hà Nội cho biết, qua nhiều năm, lòng sông Tô Lịch
ngày càng bị thu hẹp, hành lang bảo vệ bị lấn chiếm, chất lượng nước sông ngày càng
ô nhiễm nặng. Mỗi ngày con sông này phải tiếp nhận trên 150.000m3 nước thải sinh
hoạt hòa lẫn nước công nghiệp tập trung ở khu vực Thượng Đình, Cầu Bươu và hàng
trăm cơ sở lớn nhỏ xen kẽ trong khu dân cư.
Có thể nói rằng “Chưa thấy một ngày nào dòng sông không chở nặng rác rưởi”.
Do vậy ý thức của người dân là điều đáng bàn. Thống kê sơ bộ cho thấy, dọc tuyến
sông Tô Lịch dài 14,6km có hơn 10 cửa xả lớn thu gom nước thải, khoảng 200 cống
tròn đường kính 300 - 1.800mm và hàng trăm cống nhỏ dân sinh đổ ra sông. Đây chính
là nguồn gây ô nhiễm chính cho sông Tô Lịch.
8
- Rác thải chất đầy 2 bên bờ sông Tô Lịch
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, trung bình một ngày đêm, sông Tô
Lịch phải tiếp nhận trên 100.000m3 nước thải sinh hoạt và công nghiệp. Trong đó,
khoảng 1/3 là nước thải công nghiệp chưa qua xử lý. Khu công nghiệp (KCN) Thượng
Đình, KCN quận Hai Bà Trưng, KCN Cầu Bươu – Văn Điển, KCN Pháp Vân – Văn
Điển, có nồng độ các chất độc hại cao, xả trực tiếp vào sông Tô Lịch. Ngoài ra, một
hệ thống trên 30 bệnh viện của Hà Nội với lượng nước thải hàm lượng chất bẩn hữu
cơ cao, chứa nhiều vi trùng gây bệnh sau khi được thu gom, vận chuyển trong các
tuyến cống, mương, sông cũng tập trung vào hạ lưu sông Tô Lịch để xả qua cửa
Thanh Liệt vào sông Nhuệ. Mặc dù toàn bộ chiều dài 14,6km đã được cải tạo, nạo vét
và kè 2 bờ, song tình trạng ô nhiễm của sông Tô Lịch vẫn được đánh giá là rất nghiêm
trọng với các chỉ số vượt tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần, hoàn toàn không thể sử
dụng trong sinh hoạt, sản xuất, trồng trọt.
9
- 2. Hậu quả
Ô nhiễm sông Tô để lại hậu quả nặng nề đối với chất lượng nước mặt và
nước ngầm của thành phố. Nguồn nước thải sông Tô Lịch hiện vẫn được sử dụng
hàng ngày phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp ở thôn Bằng B, xã Hoàng
Liệt, huyện Thanh Trì, một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội. Trong khi đó
nguồn nước thải sông Tô Lịch hiện vẫn được sử dụng hàng ngày phục vụ cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp ở thôn Bằng B, xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, một
huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội.
Đặc biệt, hàm lượng các kim loại nặng trong sản phẩm rau nước tại một số
điểm thuộc thôn Bằng B rất cao và hàm lượng của đa số kim loại nặng độc hại trong
rau muống nước là cao hơn trong rau muống cạn. Nguyên nhân có thể do nhu cầu
nước tưới của rau muống cạn ít hơn so với rau muống nước nên khả năng tích lũy kim
loại nặng trong 2 loại rau này có sự khác nhau rõ nét.
Theo kết quả nghiên cứu : Hàm lượng các kim loại nặng trong rau của thôn
Bằng B (4/2003)
STT Mẫu Cu Zn Pb Cd Cr Hg As
(ppm) (ppm) (ppm) (ppm) (ppm) (ppm) (ppm)
1 TT1 9,13 71,48 23,28 0,55 3,98 0,025 0,200
2 TT2 5,88 39,75 22,78 0,25 1,88 0,025 0,206
3 TT3 6,63 64,7 25,03 0,38 0,80 0,031 0,299
4 TT4 11,88 46,53 25,78 0,43 0,43 0,022 0,253
5 TT5 11,88 73,75 29,03 0,58 1,88 0,029 0,307
6 TT6 6,38 33,63 27,78 0,35 0,83 0,031 0,303
7 TT7 4,13 34,55 24,03 0,05 2,53 0,036 0,317
8 TT8 1,88 37,03 29,53 0,18 1,50 0,035 0,270
10 TCCP(WHO) 2 30 0,6 0,03 - 0,06 0,2
Các mẫu rau dùng để phân tích gồm: mồng tơi (TT1), Hành (TT2), Cải xanh (TT3)
Muống cạn (TT4), Ngải cứu (TT5), Muống nước (TT6, TT7, TT8). Các số liệu phân
tích đất ở thôn Bằng B xấp xỉ với tiêu chuẩn cho phép nên các kết quả phân tích về
hàm lượng kim loại nặng trong rau trồng tại thôn Bằng B cho thấy việc sử dụng nước
thải đô thị để tưới rau gây tích luỹ kim loại nặng trong các sản phẩm rau trồng. Nói
chung, trong sản phẩm rau, hàm lượng các kim loại nặng như Cu, Zn, Pb, Cd, Cr, Hg,
As, là cao.
10
- Nếu so sánh các số liệu phân tích của các mẫu rau với tiêu chuẩn của WHO, hàm
lượng các kim loại Cu, Zn, Pb, Cd, Cr, Hg, As đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Cụ thể,
hàm lượng Cu cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 2.06-5,94 lần; hàm lượng Zn cao hơn
tiêu chuẩn cho phép từ 1,12-2,46 lần; hàm lượng Pb cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ
37,97-49,22 lần; hàm lượng Cd cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,67-19,33 lần; hàm
lượng As cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,03-1,59 lần.
Người dân chính là người từng ngày phải lãnh đủ những hệ lụy kéo theo. Một
người dân sống tại số nhà 249 Nguyễn Khang nói: "Giáp bên sông chết, hàng ngày
chúng tôi phải chịu đựng mùi hôi thối bốc lên. Nhất là những ngày thời tiết oi bức, dù
đã đeo khẩu trang nhưng mùi thối vẫn sộc thẳng vào mũi. Sinh hoạt gia đình và sức
khỏe các thành viên trong nhà đều bị ảnh hưởng".
Ông Nguyễn Trung Cường, nhà cạnh sông Tô Lịch thuộc P.Khương Đình
(Thanh Xuân), than phiền bao nhiêu năm qua dòng sông vẫn nguyên một màu đen.
“Mức độ ô nhiễm gồm đủ loại mùi hôi thối, xác động vật trôi nổi... nên giờ có thấy
dòng sông đen hơn, nặng mùi hơn người dân cũng không còn sức kêu than nữa” - ông
Cường than vãn.
Không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống và sức khoẻ của người dân sống ở quanh
khu vực sông, ô nhiễm sông Tô con ảnh hưởng đến sức khoẻ của những người làm
công việc vớt rác và nạo vét sông Tô Lịch. Anh Thái (quê Thái Bình) cho biết bị các
bệnh ngoài da là còn nhẹ, nhiều anh khi xuống dưới đấy dẫm phải ống kim tiêm, đinh
gỉ, mảnh chai, cây mục dưới lòng sông. Cách đây đã lâu, có anh Hoà trong lúc xuống
vớt rác đã bị mảnh thuỷ tinh đâm ngang bàn chân, chảy máu lênh láng dính phải nước
sông ô nhiễm gây nhiễm trùng nặng, phải bỏ việc về quê.
Số liệu quan trắc gần đây cho thấy vào mùa khô hàm lượng oxy hòa tan (DO)
thấp hơn 2,5 lần so với tiêu chuẩn, nhu cầu oxy sinh học (BOD5) vượt tiêu chuẩn cho
phép 4,7 lần, hàm lượng amoniac vượt tiêu chuẩn cho phép 17,3 lần, hàm lượng nitrit
vượt 3,3 lần, riêng hàm lượng coliform vượt tiêu chuẩn cho phép đến 9.552,5 lần...
Điều đó khiến dòng sông này trở thành sông chết khi nguồn nước tại đây không thể sử
dụng cho bất cứ mục đích nào.
11
- Ô nhiễm sông Tô còn làm mất đi môi trường sống lý tưởng của các loài sinh
vật sông nơi đây. Dưới dòng nước đen ngòm của con sông đó cá, cua, tôm, ốc không
còn sống được nữa vì bị nhiễm độc! Chỉ có bọ gậy và muỗi cùng các loại vi trùng gây
hại có thể tồn tại được.
12
- 3. Các biện pháp cải tạo sông Tô Lịch
Để cải tạo sông Tô Lịch cần sự chung sức đồng lòng của các cơ quan chức
năng và người dân Thủ đô. Ảnh: Duy Tuấn
Hướng tới 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, TP lập phương án cải tạo, nâng
cấp sông Tô Lịch để giải quyết những vấn đề bức xúc về tiêu thoát nước, ô nhiễm
môi trường và cảnh quan trong khu vực.
Bài toán hồi sinh sông chết Tô Lịch đang được đưa ra bàn thảo. Tuy nhiên, mọi
phương án sẽ không khả thi nếu thói xấu xả rác bừa bãi của người dân không chấm
dứt.
Đề án nhiệm vụ và các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường bức xúc trên địa
bàn thành phố hà nội đến năm 2010 vừa được thành phố phê duyệt tháng 7 năm 2009
xác định từ nay đến năm 2010 sẽ thực hiện dự án thu gom và xử lý nước thải cho một
đoạn sông Tô lịch tại đầu đường Hoàng Quốc Việt cắt đường bưởi. Dự án này sẽ
được đầu tư khoảng 600 tỷ đồng xử lý toàn bộ nước thải sông tô lịch đoạn chảy đến
Hoàng Quốc Việt và nước thải thu gom từ bờ sông khoảng 1-2 km trước khi đổ vào
sông tô lịch.
13
- Thu gom rác thải trên sông Tô Lịch
Theo Sở TNMT Hà Nội, nguyên tắc đầu tiên trong quá trình làm sống lại sông
Tô Lịch là "không cống hóa mà để dòng chảy tự nhiên". Tiếp đó, để làm nước sông
bớt ô nhiễm, sở này đề xuất xây dựng hệ thống cống bao dọc sông để thu gom nước
thải về trạm xử lý tập trung tại cuối nguồn. Đồng thời, trên từng đoạn sông, sẽ xây
dựng các trạm xử lý nước thải quy mô nhỏ, tập trung vào hơn 10 cửa xả lớn. Các
trạm nhỏ này sẽ đặt ngầm dưới lòng sông, có quy mô tùy theo lưu lượng nước cần xử
lý.
14
- Sẽ đặt trạm xử lý nước thải mini ở các cửa xả lớn trên sông
Một trong những biện pháp quan trọng khác để giảm ô nhiễm cho sông Tô Lịch
- được Sở TNMT đề xuất là bổ cập nước cho sông. Theo ông Phạm Văn Khánh - Phó
Giám đốc Sở TNMT Hà Nội - để cải thiện khả năng tiêu thoát, duy trì cân bằng nước
và pha loãng nồng độ ô nhiễm, cần bổ cập thêm nước tự nhiên cho sông Tô Lịch. Tuy
nhiên, mối quan ngại của cơ quan chức năng là các kênh mương đã bị ngắt quãng trong
quá trình đô thị hóa.
Để làm được điều này, có một số phương án khác nhau như lấy nước từ hồ
Tây, các hồ điều hòa, sông Hồng, sông Nhuệ. Trong đó, có thể lấy nước sông Hồng
vào dòng chảy sông Tô Lịch theo hướng khai thông dòng chảy cũ hoặc đấu nối thông
qua sông Nhuệ. Địa hình dòng chảy của các sông hiện tại cho thấy, có thể đảm bảo
cao độ dòng chảy...
Hiện năng lực của hệ thống cống dẫn nước từ sông Hồng vào sông Nhuệ chỉ
có lưu lượng 36,3m3/giây, và Bộ NN&PTNT đã có kế hoạch nâng cấp hệ thống này
về lưu lượng lên gấp đôi hiện tại. Và với đề nghị của Hà Nội, chuyên gia về thủy lợi
của Cục Thủy lợi cho hay Bộ NN&PTNT đã chấp thuận điều chỉnh quy hoạch này để
tăng thêm lưu lượng cấp nước vào sông Nhuệ lên mức 75m3/giây nhằm có đủ nước
cho cuộc “thau rửa” sông Tô Lịch.
Theo đề xuất của Hà Nội, vị trí lấy nước từ sông Hồng và vị trí bổ cập vào
sông Tô Lịch dựa trên nguyên tắc gần với nguồn cấp nước nhất - tức là lấy từ đầu
nguồn sông Nhuệ để hạn chế ô nhiễm của bản thân sông Nhuệ.
Trên cơ sở các hệ thống kênh mương hiện có, Hà Nội xác định điểm lấy nước
tại sông Nhuệ là ngay sau cống Liên Mạc qua hệ thống kênh mương tại Chèm - Đông
Ngạc (huyện Từ Liêm), mương chạy dọc đường Nguyễn Hoàng Tôn (Q.Tây Hồ), Cổ
Nhuế (Từ Liêm) tới Nghĩa Đô (Cầu Giấy) và cấp vào sông Tô Lịch.
Phó giám đốc Sở Quy hoạch - kiến trúc Hà Nội Vũ Tuấn Định giải thích lưu
lượng thiết kế của cống Liên Mạc có thể đảm bảo cho việc bổ cập nước 5m 3/giây.
15
- Ông Định cho biết hiện đây là hướng tuyến thuận lợi và khả thi nhất mà sở đang
nghiên cứu để giới thiệu.
Đại diện Sở QHKT Hà Nội cho rằng, do ý tưởng lấy nước sông Hồng sẽ gặp
nhiều khó khăn, có thể lựa chọn lấy nước sông Nhuệ để thau rửa sông Tô Lịch. Tuy
vậy, nước sông Nhuệ phải được lấy từ đầu sông, chứ nếu lấy đoạn giữa thì không có
ý nghĩa bởi chính sông Nhuệ - đoạn qua Hà Nội cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Ông Đỗ Viết Chiến - Phó Giám đốc Sở QHKT - nhận định, có thể dùng
phương án lấy nước sông Nhuệ qua trạm bơm Xuân Phương, chảy qua mương ở
đường Nguyễn Hoàng Tôn và đổ vào sông Tô Lịch ở đường Hoàng Quốc Việt.
Những cống thải trực tiếp ra sông Tô Lịch - thủ phạm gây ô nhiễm
Đánh giá phương án này là "khả thi", song Phó Chủ tịch UBND TP Vũ Hồng
Khanh - Phó Chủ tịch UBND TP - yêu cầu xem xét lại quy hoạch toàn tuyến cũng như
cân nhắc kỹ các yếu tố liên quan trước khi lựa chọn phương án để chính thức trình
UBND TP thông qua. Theo dự kiến, đến tháng 6.2009 TP sẽ thông qua phương án cải
tạo, nâng cấp sông Tô Lịch, sau đó sẽ đưa ra lộ trình cụ thể để "làm sống lại" sông Tô
Lịch.
16
- Sơ đồ một phương án dẫn
nước sông Hồng vào làm
sạch sông Tô Lịch - Nguồn:
Sở Quy hoạch - kiến trúc Hà
Nội cung cấp
Đ
ồ
h
o
ạ
Ngoài ra, Sở TNMT còn đề xuất với UBND thành phố cơ chế khuyến khích
các hộ dân ứng dụng chế phẩm vi sinh, hóa sinh để xử lý nước thải, đặc biệt là nước
đen từ bể phốt, trước khi thải ra cống chung đổ xuống sông Tô Lịch. Các khu nhà ở,
công trình mới xây dựng đều phải có công nghệ xử lý nước thải triệt để, hiệu quả để
đảm bảo nước thải trước khi ra môi trường.
Phương án khác được Sở TNMT HN đề xuất là việc sử dụng hóa chất, hoạt
chất, chế phẩm để xử lý nước bề mặt theo từng đoạn hoặc theo từng cống xả chính.
Đồng thời, tiến hành nạo vét thường xuyên. Đây là giải pháp tình thế để có thể xử lý,
phục hồi, làm sạch tạm thời chất lượng nước sông trong thời gian ngắn, phạm vi nhỏ,
để chuẩn bị cho việc xây dựng và triển khai các phương án cải tạo lâu dài.
17
- Hai bên sông Tô Lịch cũng được tăng cường cây xanh để tạo cảnh quan, thông
thoáng cho môi trường, phục hồi sinh thái cho dòng sông.
“Nước sông Tô vừa trong vừa mát “
Hai bên bờ sông, đoạn Cầu Giấy - Cầu Mới được quy hoạch thành hệ thống
công viên, vườn hoa; một phần rất nhỏ mặt sông được quy hoạch thành khu dịch vụ
văn hoá - du lịch, khu ẩm thực, bãi đỗ xe trên mặt sông.
Hành lang bờ sông sẽ được thiết lập hệ thống cây xanh, chiếu sáng-nhằm
chống việc đổ rác thải, tái lấn chiếm như hiện nay. Bên cạnh các hạng mục chủ yếu,
hệ thống thu gom, xử lý nước thải chống ô nhiễm cho dòng sông sẽ được xây dựng
mới.
Xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải trước khi đổ vào sông Tô Lịch,
kết hợp sử dụng chế phẩm sinh học làm sạch nước sông... là những giải pháp lần đầu
được Hà Nội áp dụng để xử lý ô nhiễm con sông giữa thủ đô. Mục tiêu đề án xử lý ô
nhiễm môi trường Hà Nội quá tầm.
18
- Bộ NN&PTNT đang quy hoạch nâng cấp, cải tạo hệ thống cống Liên Mạc
(huyện Từ Liêm) nhằm nâng cao khả năng chủ động tưới tiêu cho các địa phương
nằm dọc hai bên bờ sông Nhuệ.
19
- III. Kết luận
Như vậy, cho đến hôm nay vẫn chưa có phương án chọn để "làm sống lại sông
Tô Lịch", trong khi đó một số phương án đều đòi hỏi một núi tiền. Đây cũng là điều
nan giải, cần phải có những giải pháp đồng bộ, khoa học và... táo bạo.
Sông Tô Lịch gắn với lịch sử mấy ngàn năm đã tạo ra một không gian văn hoá
rất linh thiêng của Hà Nội và của dân tộc; và rất riêng, nó gắn với thời thanh niên gian
khổ và trong sáng của hàng vạn sinh viên đã tham gia cải tạo dòng sông.
Trong lòng chúng tôi chỉ là mong sao cho sông Tô Lịch một ngày nào đó sẽ là
một dòng sông đầy nước có du thuyền vừa lưu thông vừa du lịch như sông Matxcơva
hay sông Xen chảy qua Pari. Tô Lịch sẽ lại là một dòng sông như nó từng là sông trong
lịch sử.
Đề tài hay, độc đáo nhưng số liệu không sâu sát, cụ thể
Phân tích còn sơ sài
ĐVĐ được nhưng kết luận không hay
Ưu tiên đề tài mới 7
20
nguon tai.lieu . vn