- Trang Chủ
- Khoa học tự nhiên
- Tiểu luận Sinh học phân tử tế bào: Cơ chế phân bào, điều khiển chu kì tế bào của sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân thực
Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA SINH HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: SINH HỌC PHÂN TỬ TẾ BÀO
Chủ đề: Cơ chế phân bào, điều khiển chu kì tế bào của
sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân thực.
- HÀ NỘI – 2022
- NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN I. KHÁI QUÁT VỀ TẾ BÀO NHÂN SƠ VÀ TẾ BÀO NHÂN THỰC
1. Lịch sử nghiên cứu tế bào
2. Đặc điểm cấu trúc của tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực
PHẦN II. CƠ CHẾ PHÂN BÀO
1. Cơ chế phân bào ở sinh vật nhân sơ
2. Cơ chế phân bào ở sinh vật nhân thực
2.1. Cơ chế nguyên phân
2.2. Cơ chế giảm phân
PHẦN III. ĐIỀU KHIỂN CHU KÌ TẾ BÀO
1. Đặc điểm của chu kì tế bào
2. Các cơ chế điều khiển chu kì tế bào
2.1. Điều khiển chu kì tế bào ở sinh vật nhân sơ
2.2. Điều khiển chu kì tế bào ở sinh vật nhân thực
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PHẦN I. KHÁI QUÁT VỀ TẾ BÀO NHÂN SƠ VÀ TẾ BÀO NHÂN THỰC
1. Lịch sử nghiên cứu tế bào
Robert Hooke là người đầu tiên sử dụng kính hiển vi để quan sát về tế bào, đồng
thời mở ra ngành khoa học sinh học tế bào. Năm 1665, tế bào được Hooke mô tả giống
như các ô rỗng có thành bao quanh và xếp cạnh nhau như tổ ong. Sau đó vào những
năm 1674 – 1683, cùng với sự phát triển của kính hiển vi, nhà khoa học người Hà Lan
Antonie van Leeuwenhoek đã phát hiện được các tế bào như: vi sinh vật trong giọt
nước ao, tế bào máu, tế bào tinh trùng động vật. Từ những quan sát của mình, ông đã
kết luận rằng tế bào có cấu tạo phức tạp gồm màng sinh chất, tế bào chất chứa các
bào quan và nhân chứ không chỉ có dạng xoang rỗng như Hooke thấy. Năm 1838 1839,
Matthias Schleiden và Theodor Schwann đã đưa ra học thuyết tế bào với nội dung: Tất
cả sinh vật được cấu tạo từ tế bào và tế bào là đơn vị sống cơ bản của sinh giới . Năm
1858, Virchow phát biểu thêm rằng: Tế bào sinh ra từ tế bào có trước. Năm 1862,
Pasteur tiếp tục chứng minh rằng: Sự sống không tự hình thành ngẫu nhiên từ các chất
vô sinh. Ngày nay học thuyết tế bào vẫn giữ nguyên giá trị của nó và tế bào được xem
là đơn vị tổ chức cơ bản của thế giới sống cả về cấu tạo, chức năng sinh lý và di
truyền. F. Engels đã từng đánh giá: cùng với hoạc thuyết tiến hóa của Darwin, và
thuyết bảo tồn năng lượng, học thuyết tế bào là một trong ba phát kiến vĩ đại của thể
kỉ XIX.
2. Đặc điểm cấu trúc của tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực
Tùy theo mức độ phức tạp về cấu trúc mà người ta phân biệt hai dạng tế bào
nhân sơ và tế bào nhân thực. Từ hai loại tế bào này sẽ cấu trúc nên hai nhóm sinh vật
tương ứng là sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân thực. Sinh vật nhân sơ bao gồm vi
khuẩn và vi khuẩn cổ. Sinh vật nhân thực được tạo nên từ các tế bào nhân thực như
động vật đơn bào, tảo, nấm, thực vật và động vật.
Tế bào nhân sơ thường có kích thước nhỏ và cấu tạo đơn giản với ba thành phần
cấu tạo chính: màng sinh chất, tế bào chất, vùng nhân (Hình 1). Màng sinh chất của vi
khuẩn chứa khoảng 45% lipit và 55% protein có cấu trúc và chức năng tương tự màng
sinh chất của tế bào nhân thực. Nhiều chỗ màng sinh chất gấp nếp lồi lõm vào tế bào
chất tạo nên các mezoxom được xem như một loại bào quan có vai trò quan trọng trong
sự phân bào. Bên trong tế bào chất có chứa nhiều loại riboxom tổng hợp protein của vi
khuẩn nhưng không có các bào quan có màng bao bọc và không có hệ thống nội màng
điển hình như tế bào nhân thực. Hầu hết các chức năng của các bào quan như ty thể,
lục lạp, bộ máy Golgi được tiến hành trên màng sinh chất. Vùng nhân chứa nhiễm sắc
thể của vi khuẩn là phân tử ADN trần (không liên kết với histon), là chuỗi xoắn kép
dạng vòng khu trú ở vùng tế bào chất. Ngoài ADN trong thể nhân, còn có một số phân
4
- tử ADN khác được gọi là plasmit chứa thông tin di truyền quy định một số đặc tính của
vi khuẩn. Ngoài ba thành phần chính có ở các tế bào nhân sơ điển hình, một số vi
khuẩn còn có thêm các thành phần cấu tạo khác như lông, roi, thành tế bào, vỏ nhầy.
Lông và roi là các protein bám trên bề mặt tế bào giúp vi khuẩn di chuyển chủ động
trong môi trường. Thành tế bào có bản chất là peptidoglican giúp vi khuẩn giữ nguyên
hình dạng và không bị tác động của áp suất thẩm thấu trong môi trường nhược trương.
Vỏ nhày là rào cản phụ giúp bảo vệ tế bào, chọn lọc các chất ra vào tế bào.
Tuy cũng được cấu tạo từ ba thành phần chính là màng sinh chất, tế bào chất và
nhân, nhưng tế bào nhân thực có kích thước lớn hơn và cấu tạo phức tạp hơn nhiều so
với tế bào nhân sơ (Hình 2). Màng tế bào cũng gồm hai thành phần chính là lipit và
protein nhưng được phân hóa phức tạp hơn. Màng có cấu trúc khảm động: lớp
photpholipit kép tạo nên cái khung liên tục của màng, còn các phân tử protein phân bố
rải rác trong khung, xuyên qua khung hoặc bám ở rìa trong và rìa ngoài của màng, các
phân tử lipit và protein có trong màng có tính động. Tế bào chất được phân vùng và
chứa các bào quan phức tạp như mạng lưới nội chất, riboxom, ti thể, lục lạp, thể
Golgi, lizoxom, peroxixom, trung thể…Trong đó trung thể có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong sự phân bào (tạo thành bộ máy phân bào), các vi ống và định hướng cho các
vi ống. Tế bào nhân thực có nhân hoàn chỉnh với lớp màng kép bao bọc lấy vật chất di
truyền. Vật chất di truyền gồm một hoặc một số phân tử ADN mạch thẳng liên kết
với protein histone tạo nên cấu trúc nhiễm sắc thể. Ngoài nhân, ADN còn được tìm
thấy ở một số bào quan như ti thể, lục lạp.
5
- Tế bào thực vật cũng như tế bào động vật đều thuộc dạng tế bào nhân thực điển hình.
Ngoài những đặc điểm chung giống nhau, chúng còn khác nhau ở một số đặc điểm.
Một số loại bào quan chỉ có thể tìm thấy ở tế bào thực vật hoặc tế bào động vật mà
không thể cùng tồn tại trong cả hai loại tế bào này. Các lysosome, trung tử với các
trung thể chỉ có ở tế bào động vật mà không có ở tế bào thực vật. Lục lạp, không bào
trung tâm, thành tế bào, cầu sinh chất có thể tìm thấy ở tế bào thực vật còn tế bào
động vật thì không.
Như vậy, điểm khác biệt quan trọng giữa sinh vật nhân sơ và sinh vật nhân thực
là sự xoang hóa ở tế bào nhân thực nhờ các lớp nội màng giúp chúng thực hiện các
hoạt động trao đổi chất riêng biệt. Trong đó, quan trọng nhất là việc hình thành nhân tế
bào có hệ thống màng riêng để bảo vệ các phân tử ADN của tế bào. Chính những khác
biệt trong cấu trúc của hai loại tế bào này sẽ tạo nên sự khác nhau trong cơ chế phân
bào cũng như điều khiển chu kì tế bào ở hai nhóm sinh vật nhân sơ và nhân thực.
PHẦN II. CƠ CHẾ PHÂN BÀO
1. Cơ chế phân bào ở sinh vật nhân sơ
Tế bào nhân sơ chưa có nhân hoàn chỉnh nên phân bào bằng cách phân đôi trực
tiếp, không hình thành thoi phân bào như ở tế bào nhân thực. Nhiễm sắc thể của chúng
chỉ là ADN trần, là chuỗi xoắn kép dạng vòng khu trú ở vùng tế bào chất được gọi là
thể nhân nucleoit. Mặc dù ADN của thể nhân liên kết với các protein giúp đóng gói
phân tử thành một kích thước nhỏ gọn, nhưng không có protein histone nên không có
nucleosom ở sinh vật nhân sơ. Tuy nhiên, các protein đóng gói của vi khuẩn có liên
quan đến các protein cohesin và condensin tham gia vào quá trình nén nhiễm sắc thể
6
- của sinh vật nhân chuẩn. Qúa trình phân đôi của vi khuẩn E. Coli gồm 5 năm bước
(Hình 3).
Đầu tiên, ADN nhiễm sắc thể của vi khuẩn bắt đầu nhân đôi tại điểm khởi đầu sao
chép, quá trình này diễn ra theo hai hướng. Ngay sau đó, một bản sao của điểm khởi
đầu sao chép nhanh chóng di chuyển về đầu đối lập của tế bào bằng một cơ chế chưa
rõ. Sự nhân đôi tiếp tục, mỗi đầu tế bào đã có một bản sao của điểm khởi đầu nhân
đôi. Đồng thời tế bào dài ra, các protein FtsZ di chuyển về giữa của tế bào và định
hướng sự phân chia giữa các nucleoit ở sinh vật nhân sơ. Nhiễm sắc thể sau khi được
nhân đôi tiếp tục di chuyển về hai cực đối diện của tế bào, các protein FtsZ tạo thành
vòng phân cắt ở chính giữa tế bào và ngăn cách hai nulceoit với nhau. Một vách ngăn
được hình thành giữa các nucleoit, màng sinh chất và thành tế bào lõm dần từ ngoại vi
về phía trung tâm của tế bào. Sau khi vách ngăn hoàn thiện, tế bào phân chia thành hai
tế bào con. Protein FtsZ nằm phân tán trong tế bào chất của hai tế bào mới.
2. Cơ chế phân bào của sinh vật nhân thực
7
- Nhiễm sắc thể của sinh vật nhân thực có cấu trúc phức tạp gồm ADN xoắn
kép, liên kết với protein histon tạo thành các sợi nhiễm sắc. Trong kì trung gian, các sợi
nhiễm sắc ở trạng thái giãn xoắn được gọi là chất nhiễm sắc, và khi phân bào chúng ở
trạng thái xoắn và co ngắn lại tạo thành các thể có hình dạng nhất định được gọi là
nhiễm sắc thể. Sau khi ADN được tái bản, nhiễm sắc thể được nhân đôi ở pha S của
kì trung gian, nhiễm sắc thể sẽ gồm 2 nhiễm sắc tử đính với nhau ở trung tiết (tâm
động). Vì nhiễm sắc thể có cấu trúc phức tạp, nằm trong nhân có màng nhân, nên
phương thức phân bào diễn ra phức tạp và đòi hỏi phải có bộ máy phân bào (thoi phân
bào). Có hai phương thức phân bào là: phân bào nguyên nhiễm (nguyên phân mitosis)
và phân bào giảm nhiễm (giảm phân meiosis).
2.1. Cơ chế nguyên phân
Nguyên phân là hình thức phân bào nguyên nhiễm, trong đó từ một tế bào ban đầu
phân chia sẽ tạo ra hai tế bào mới giống nhau và giống hệt tế bào ban đầu. Người ta
quy ước chia nguyên phân thành năm kì: kì đầu, kì trước giữa, kì giữa, kì sau và kì cuối.
Gối lên kì cuối của nguyên phân là kì chia tế bào chất và kết thúc pha phân bào (Hình
4). Sau khi hoàn thành kì trung gian, các nhiễm sắc thể đơn đã nhân đôi để tạo thành
nhiễm sắc thể kép. Mỗi nhiễm sắc thể kép gồm hai nhiễm sắc tử chị em dính với nhau
ở tâm động và dọc theo nhiễm sắc thể nhờ các protein cohesin. Mỗi trong nhiễm sắc
tử có một thể động, một cấu trúc protein liên kết với một đoạn đặc hiệu của ADN
nhiễm sắc thể ở tâm động. Hai thể động của nhiễm sắc thể kép quay về hai hướng
đối lập nhau.
Bước vào kì đầu của nguyên phân, các nhiễm sắc thể kép bắt đầu co xoắn. Ở tế
bào thực vật, do có không bào trung tâm lớn nên trước khi quá trình nguyên phân bắt
đầu, nhân phải di chuyển vào trung tâm của tế bào. Hạch nhân dần tiêu bến, bộ máy
phân bào xuất hiện. Tế bào động vật có trung thể gồm hai trung tử và vùng quanh
trung tử, trung tử nhân đôi ở pha S kì trung gian tạo thành hai đôi trung tử con và phát
triển thành trung thể mới. Do sự hoạt hoá của chất quanh trung tử, các đơn hợp tubulin
trong tế bào chất trùng hợp hoá thành các vi ống tubulin. Các vi ống xếp phóng xạ
8
- quanh trung tử mới, tạo thành sao phân bào. Hai trung thể và hai sao di chuyển vể hai
cực tế bào. Giữa hai sao, các vi ống phát triển sắp xếp thành hệ thống sợi có dạng hình
thoi được gọi là thoi phân bào. Tế bào của thực vật thiếu các trung tử; thay vào đó, các
vi ống hình thành một trục trên bề mặt của nhân và sau đó được tổ chức thành một
trục bởi chính các nhiễm sắc thể, sau khi vỏ nhân bị phá vỡ.
Kì trước giữa, các lamins được phosphoryl hóa bởi các yếu tố thúc đẩy nguyên
phân (MPF), màng nhân tan rã đứt ra thành nhiều đoạn và biến thành các bóng không
bào bé phân tán trong tế bào chất, tạo điều kiện cho nhiễm sắc thể di chuyển ra ngoại
vi tế bào. Các vi ống thể động bắt đầu tìm kiếm và gắn vào các thể động của nhiễm
sắc thể. Một số vi ống không gắn vào thể động của nhiễm sắc thể (các vi ống không
thể động) sẽ tìm và tương tác với các vi ống không thể động tương ứng từ phía đối
diện để hình thành thoi phân bào. Khi một vi ống kết nối với thể động, một protein
động cơ sẽ kích hoạt, sử dụng năng lượng từ ATP để "trượt" lên ống về phía trung
thể khởi đầu. Hoạt động vận động này, cùng với quá trình polyme hóa và khử phân
giải của các vi ống, cung cấp lực kéo cần thiết để sau này phân tách hai nhiễm sắc tử
của nhiễm sắc thể.
Kì giữa là kì dài nhất của nguyên phân, sau khi các vi ống đã định vị và gắn vào các
thể động, hai trung thể bắt đầu kéo các nhiễm sắc thể về các đầu đối diện của tế
bào. Sự kéo căng của thoi phân bào làm cho các nhiễm sắc thể sắp xếp dọc theo mặt
phẳng xích đạo, một đường tưởng tượng nằm ở trung tâm tế bào. Để đảm bảo sự
phân bố đồng đều của các nhiễm sắc thể ở cuối quá trình nguyên phân, điểm kiểm
tra chuyển tiếp đảm bảo rằng các thể động được gắn đúng vào thoi phân bào và các
nhiễm sắc thể được xếp thẳng hàng.
Kì sau bắt đầu khi các protein cohesin tách nhau ra khiến các nhiễm sắc tử chị em
của mỗi cặp đột ngột tách nhau theo, mỗi nhiễm sắc tử trở thành một nhiễm sắc thể
đơn, trượt dọc theo thoi phân bào về hai phía đối diện của tế bào. Các vi ống không
gắn với nhiễm sắc thể dài ra và đẩy ra xa nhau, tách các cực và làm cho tế bào dài ra.
Tất cả các quá trình này đều được thúc đẩy bởi các protein vận động , các cỗ máy phân
tử có thể “trượt” dọc theo các đường dẫn vi ống và mang nhiễm sắc thể hoặc các vi
ống khác về hai cực của tế bào. Đây là thời kì diễn ra nhanh nhất của nguyên phân, chỉ
mất vài phút. Kết thúc kì sau, ở hai cực của tế bào có hai bộ nhiễm sắc thể hoàn chỉnh
và tương đương nhau.
Khi các nhiễm sắc thể đã di chuyển xong về hai cực của tế bào cũng là lúc kì cuối
bắt đầu. Các vi ống cực tiếp tục dài ra, kéo dài tế bào hơn nữa. Một vỏ nhân mới sẽ
hình thành bằng cách sử dụng các túi màng của vỏ nhân cũ của tế bào mẹ. Vỏ mới
hình thành xung quanh mỗi bộ nhiễm sắc thể con đã tách rời và nhân con xuất hiện trở
lại, thoi phân bào tiêu biến. Cả hai bộ nhiễm sắc thể, bây giờ được bao quanh bởi
màng nhân mới, bắt đầu "giãn" hoặc phân rã. Quá trình phân chia nhân hoàn tất, mỗi
9
- nhân con có một bộ nhiễm sắc thể giống hệt nhau. Ngay sau đó quá trình phân chia tế
bào chất diễn ra phân cắt tế bào mẹ thành hai tế bào con. Tế bào động vật hình thành
eo thắt và lõm sâu của eo tiến tới cắt đôi tế bào chất. Khi vòng sợi actin co rút kéo theo
phần màng sinh chất lõm thắt vào trung tâm, và khi màng nối với nhau sẽ phân tách tế
bào chất thành hai nửa, mỗi nửa chứa một nhân con. Đối với tế bào thực vật do được
bao bởi thành xenlulozơ nên sự phân chia tế bào chất xảy ra khác với tế bào động vật.
Một vách ngăn ngang xuất hiện ở vùng trung tâm xích đạo, và phát triển dần ra ngoại
vi cho đến khi liên kết với thành tế bào, và như vậy phân tách tế bào chất thành hai
nửa chứa nhân con.
2.2. Cơ chế giảm phân
Giảm phân, phân bào giảm nhiễm, là hình thức phân bào chỉ xảy ra ở các tế bào
sinh dục chín (tế bào sinh tinh và sinh trứng) tạo ra các giao tử (tinh trùng hoặc trứng)
mang một nửa bộ nhiễm sắc thể của tế bào mẹ ban đầu. Giống với nguyên phân,
giảm phân cũng có một lần nhân đôi nhiễm sắc thể ở pha S kì trung gian nhưng có hai
lần phân bào liên tiếp là giảm phân I và giảm phân II, trong mỗi lần phân bào lại chia
thành các kì: kì đầu, kì giữa, kì sau, kì cuối. Diễn biến chi tiết của quá trình giảm phân
được mô tả như trong hình 5.
Giảm phân I chính là quá trình phân ly các nhiễm sắc thể trong cặp nhiễm sắc
thể tương đồng, tạo ra hai tế bào đơn bội. Kì đầu I cho đến nay là giai đoạn dài nhất,
nhiễm sắc thể bắt đầu co xoắn, màng nhân và nhân con dần tan rã, bộ máy phân bào
xuất hiện. Trung thể sau khi nhân đôi tiến dần về hai cực tế bào, các thoi phân bào
hình thành. Các cặp nhiễm sắc thể tương đồng, tiếp hợp và có thể trao đổi chéo thông
tin di truyền cho nhau. Tiếp hợp kết thúc ở giữa kì đầu và nhiễm sắc thể trong từng
cặp dần tách nhau ra. Mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng có một hoặc nhều hơn các
bắt chéo, điểm xảy ra trao đổi chéo và các nhiễm sắc thể tương đồng vẫn còn liên kết
với nhau nhờ lực cố kết giữa các nhiễm sắc tử chị em. Cuối kì đầu I, vi ống từ các cực
gắn vào hai thể động, cấu trúc protein nằm ở tâm động của các nhiễm sắc thể . Cặp
nhiễm sắc thể tương đồng sau đó di chuyển về măt phẳng xích đạo của tế bào. Ở kì
giữa, các cặp nhiễm sắc thể tương đồng xếp thành hai hàng ở mặt phẳng xích đạo,
10
- mỗi nhiễm sắc thể trong một cặp hướng về một cực của tế bào. Cả hai nhiễm sắc tử
của một nhiễm sắc thể tương đồng gắn với các vi ống thể động từ một cực, còn các
nhiễm sắc tử của các nhiễm sắc thể kia gắn với vi ống từ cực đối lập. Sau đó các
protein gắn kết các nhiễm sắc tử chị em bị phân hủy làm cho các nhiễm sắc thể tương
đồng tách nhau ra. Mỗi nhiễm sắc thể trong cặp tương đồng di chuyển về một cực đối
lập nhờ sự định hướng của bộ thoi phân bào. Lực cố kết giữa các nhiễm sắc tử chị em
vẫn duy trì ở tâm động, làm cho các nhiễm sắc tử di chuyển như một đơn vị hướng về
cùng một cực. Sau khi các sự kiện của kì sau I kết thúc, tế bào chuyển sang kì cuối I và
phân chia tế bào chất. Đầu kì cuối I, mỗi nửa tế bào có một bộ nhiễm sắc thể đơn bội
hoàn chỉnh với các nhiễm sắc thể đã được nhân đôi. Mỗi nhiễm sắc thể gồm hai
nhiễm sắc tử chị em, một hoặc cả hai nhiễm sắc tử có vùng ADN của nhiễm sắc tử
không chị em. Qúa trình phân chia tế bào chất diễn ra tương tự như phân chia tế bào
chất ở nguyên phân: tế bào động vật hình thành eo thắt trung tâm, tế bào thực vật hình
thành vách ngăn ngang phân cắt tế bào. Kết thúc kì cuối, nhiễm sắc thể dãn xoắn và
màng nhân, nhân con tái hình thành.
Sau khi kết thúc giảm phân I, tế bào trải qua một kì chuyển tiếp rất ngắn rồi
ngay lập tức bước vào giảm phân II mà không có quá trình nhân đôi nhiễm sắc thể.
Lần phân bào II cũng trải qua các kỳ: kỳ đầu II, kỳ giữa II, kỳ sau II, kỳ cuối II và
phân tế bào chất để tạo thành hai tế bào mang nhiễm sắc thể đơn bội. Người ta nói
lần phân bào hai là phân bào cân bằng và nó có cơ chế tương tự với phân bào nguyên
phân. Sự phân ly ở kỳ sau hai giống hệt với nguyên phân, hai nhiễm sắc tử chị em tách
khỏi nhau và di chuyển về hai cực theo mặt phẳng cắt dọc giữa hai nhiễm sắc tử ch ị
em. Do chỉ có một lần nhân đôi nhiễm sắc thể diễn ra vào kì trung gian trước lần phân
bào I nhưng lại có tới hai lần phân chia nhiễm sắc thể cho các tế bào con ở kì sau I và
sau II nên khi kết thúc quá trình giảm phân, từ một tế bào có bộ nhiễm sắc thể lưỡng
bội ban đầu sẽ tạo ra bốn tế bào con đơn bội.
PHẦN III. ĐIỀU KHIỂN CHU KÌ TẾ BÀO
1. Đặc điểm của chu kì tế bào
Chu kì tế bào là một chu trình tuần hoàn các sự kiện xảy ra trong một tế bào từ
lần phân bào này cho đến lần phân bào kế tiếp.
Chu kì tế bào ở sinh vật nhân sơ rất đơn giản và được chia thành ba giai đoạn:
giai đoạn giữa phân chia (sơ sinh) và bắt đầu sao chép nhiễm sắc thể (giai đoạn
B); thời kỳ cần thiết để sao chép nhiễm sắc thể (kỳ C); và khoảng thời gian từ khi
hoàn thành quá trình nhân đôi nhiễm sắc thể đến khi hoàn thành quá trình phân chia tế
bào (kỳ D) (Hình 6).
11
- 12
- Chu kì tế bào ở sinh vật
nhân thực diễn ra phức tạp hơn
với hai thời kì chính là kì trung
gian và phân bào (M). Kì trung
gian bao gồm ba pha là G1, S, G2
(Hình 7). Chu kỳ phân bào có ý
nghĩa sống còn đối với tế bào
bởi nhờ đó mà trứng được thụ
tinh từ một tế bào đơn phát triển
thành cơ thể trưởng thành, đồng
thời tóc, da, tế bào máu và một
vài cơ quan nội tạng luôn được
làm mới. Sau giai đoạn phân chia,
mỗi tế bào con tạo thành sẽ bắt
đầu kỳ trung gian của một chu kỳ phân bào mới. Pha Gl là pha sinh trưởng của tế bào
vì trong pha này xảy ra sự tổng hợp các ARN và protein, số lượng nhiễm sắc thể chứa
hàm lượng ADN là ổn định. Mỗi một nhiễm sắc thể chứa một phân tử ADN liên kết
với histon ở trạng thái hoạt động. Vào cuối pha G l, có một thời điểm được gọi là
điểm kiểm soát R. Nếu tế bào vượt qua điểm R chúng tiếp tục đi vào pha S. Đối với
các tế bào biệt hoá thì tế bào không vượt qua R mà đi vào quá trình biệt hoá tế bào để
tạo nên các dòng tế bào sinh dưỡng (tế bào soma) khác nhau, có chức năng khác nhau.
Cuối pha G1 tế bào tổng hợp một loại protein đặc trưng là cyclin A và được tích luỹ
trong nhân tế bào. Pha S: chủ yếu xảy ra sự tổng hợp ADN (tái bản ADN) và nhân đôi
nhiễm sắc thể. Protein cyclin A (nhân tố hoạt hoá tổng hợp ADN) tác động cho tới
cuối pha S thì biến mất. Sau pha S, hàm lượng ADN và số lượng nhiễm sắc thể đã
được nhân đôi. Pha G2: các ARN và protein được tổng hợp chuẩn bị cho phân bào.
Cuối pha G2, một protein được tổng hợp là cyclin B và được tích luỹ trong nhân cho
đến tiền kỳ phân bào. Cyclin B hoạt hoá enzim kinaza và đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện quá trình phân bào như sự tạo thành các vi ông tubulin để tạo thành thoi
phân bào. Tiếp theo pha G2 là pha phân bào, là thời kỳ tế bào mẹ phân chia thành 2 tế
bào con.
2. Điều khiển chu kì tế bào
2.1. Điều khiển chu kì tế bào ở sinh vật nhân sơ
Chất dinh dưỡng là yếu tố quyết định chính cho việc bắt đầu sao chép nhiễm sắc
thể của sinh vật nhân sơ. Việc sản xuất protein khởi đầu DnaA và các thành phần thiết
yếu khác của cơ chế sao chép tỷ lệ thuận với lượng cacbon sẵn có và tốc độ tăng
trưởng. Sự thiếu hụt các axit amin sẽ ức chế trực tiếp sự khởi đầu sao chép thông qua
13
- việc sản xuất guanosine tetraphosphate và guanosine pentaphosphate (được gọi chung là
(p) ppGpp). Tốc độ tăng trưởng cũng có thể ảnh hưởng gián tiếp đến sự khởi đầu, có
khả năng ngăn chặn sự khởi đầu quá mức. Sự sẵn có của chất dinh dưỡng và sự thiếu
axit amin cũng ảnh hưởng đến sự kéo dài sao chép và sự phân li của nhiễm sắc thể.
Việc đạt được kích thước hoặc khối lượng cụ thể đã được chấp nhận rộng rãi
như là cơ chế chính liên kết sự phát triển của tế bào với việc bắt đầu sao chép nhiễm
sắc thể. Theo hướng này, một yếu tố cần thiết để bắt đầu sao chép, thường được giả
định là DnaA, tích lũy phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng, đạt đến ngưỡng khi tế bào
đạt được kích thước cụ thể (được gọi là 'khối lượng ban đầu') để kích hoạt sao chép
(Donachie, 1968). Nếu khối lượng ban đầu không đổi có nghĩa là các tế bào ngắn phải
trì hoãn quá trình sao chép cho đến khi chúng đạt đến kích thước thích hợp, trong khi
các tế bào dài hơn sẽ bắt đầu sao chép ADN sớm hơn. Đây là một cơ chế đơn giản để
duy trì cân bằng kích thước tế bào trong một quần thể nhất định.
Sự kiểm soát tạm thời quá trình phân chia tế bào ở sinh vật nhân sơ (Hình 8).
Quá trình lắp ráp FtsZ được phối hợp với việc bắt đầu sao chép DNA và phân ly
nucleoid để đảm bảo rằng các tế bào con nhận được các bản sao hoàn chỉnh của bộ
gen vi khuẩn. Ở Bacillus subtilis , con đường sinh tổng hợp glucolipid đóng vai trò như
một bộ cảm biến trao đổi chất để truyền thông tin về lượng carbon và tốc độ tăng
trưởng, thông qua nồng độ UDPglucose nội bào, đến bộ máy phân chia. Khi cảm biến
14
- này hoạt động (trên cùng), sự
phân chia được kết hợp với việc
đạt được kích thước cụ thể (được
gọi là 'khối lượng tới hạn') cũng
như thời gian nhân đôi khối
lượng. Khi cảm biến này bị lỗi
(dưới cùng), sự phân chia không bị
tách rời khỏi việc đạt được khối
lượng tới hạn nhưng vẫn nhạy
cảm với thời gian nhân đôi khối
lượng, dẫn đến giảm kích thước
tế bào.
2.2. Điều khiển chu kì tế bào ở sinh vật nhân thực
Điều hòa chu kỳ tế bào rất quan trọng đối với tế bào, bao gồm phát hiện và sửa
chữa những tổn thương trong bộ gen cũng như ngăn ngừa sự phân chia tế bào một cách
mất kiểm soát. Cơ chế kiểm soát chu kỳ tế bào được lập trình và có định hướng, nghĩa
là mỗi quá trình xảy ra theo một hướng liên tục và không thể đảo ngược chu kỳ. Các
cơ chế điều hòa được thể hiện tóm tắt trong hình 9.
Thứ nhất là một hệ thống các điểm chốt của chu kỳ và cơ chế tác động điều
chỉnh của MPF. Cơ chế kiểm tra ở điểm chốt là cơ chế kiểm tra theo mối liên hệ
ngược, nghĩa là công việc ở giai đoạn sau chỉ được bắt đầu khi công việc của giai
đoạn trước đó đã hoàn thành, cũng có nghĩa là công việc sẽ xảy ở giai đoạn sau đã
được chuẩn bị đầy đủ, tiền đề cần thiết diễn ra ở giai đoạn trước đó. Tác động lên
điểm chốt có các tín hiệu nội bào và các tín hiệu đến từ các tế bào và các mô khác
trong cơ thể, cũng như tín hiệu đến từ môi trường. Có ba điểm chốt quan trọng: đó là
điểm chốt từ Gl sang S (ở nấm men được gọi là điểm xuất phát S (start), còn ở động
vật bậc cao được gọi là điểm hạn định R (restriction)), khi tế bào vượt qua được điểm
chốt G l chúng sẽ đi vào S để tổng hợp ADN. Điểm chốt thứ hai là điểm chốt G2 để
kiểm tra cửa vào M của tế bào, và điểm chốt thứ 3 là điểm chốt M ở thời kỳ từ kì giữa
chuyển sang kì sau phân bào, thường được gọi là điểm cửa ra của phân bào, nghĩa là
khi tế bào vượt qua điểm này sẽ hoàn tất phân bào và đi vào Gl tiếp tục chu kỳ mới
(hình 7). Điểm chốt Gl báo hiệu rằng quá trình tăng trưởng, quá trình chuẩn bị cho sự
tái bản ADN ỏ Gl đã được hoàn tất. Đối vổi các tế bào bị ách lại ở Gl, các nhân tố sinh
trưởng GF (Growth Factor) cũng như các chất kích thích phân bào thường tác động lên
điểm chốt Gl. Nhân tố phiên mã E2F có tác động kích thích sự phiên mã các gen mã hóa
cho các protein và enzim cần thiết cho sự tái bản ADN. Khi tế bào chưa vượt qua điểm
chốt G l thì E2F bị ức chế do liên kết với các protein ức chế, ví dụ, protein Rb. Khi
15
- protein Rb bị photphorin hóa nhờ các phức hệ kinaza (tức MPF) như Cdk4/6cyclinD và
Cdk2 cyclinE thì E2F được giải phóng, chúng sẽ tác động cùng với Cdk2 cyclinA lên
hệ tái bản ADN, và như vậy Gl được chuyển vào S. Người ta đã phát hiện ra protein
p53 (gọi như vậy vì khối lượng 53kDa) có vai trò ức chế tế bào người ở Gl khi có sự
hư hỏng ADN. Khi protein không hoạt động, các tế bào với hư hỏng ADN sẽ vượt qua
Gl vào S để tái bản ADN, hoàn thành chu kỳ và sẽ cho ra các tế bào con có thể chuyển
dạng thành tế bào ung thư. Vì vậy người ta gọi gen mã hóa cho protein p53 là gen ức
chế ung thư (tumor suppressor gene). Trong trường hợp bình thường, protein p53 là một
nhân tố phiên mã, chúng rất không bền vững, vì vậy, chúng tồn tại với lượng rất ít vừa
đủ để bám vào yếu tố kiểm tra tương ứng của ADN và hoạt hóa sự phiên mã. Sự hư
hỏng ADN làm bền vững hoá protein p53 và nồng độ của chúng tăng cao, chúng sẽ tích
cực kích thích phiên mã. Một trong các gen được chúng kích thích phiên mã là gen mã
hóa cho protein ức chế CIP p21, là protein ức chế hoạt tính của phức hệ cyclinkinaza.
CIP p21 liên kết và ức chế tất cả Cdkcyclin ở động vật có vú và kết quả là các tế bào
bị ách lại ở Gl (hoặc G0) cho tới khi ADN hư hỏng đã được sửa chữa và nồng độ p53
và CIP p21 giảm xuống. Nếu ADN bị hư hại quá nặng thì protein p53 sẽ hoạt hóa các
gen dẫn đến quá trình tự chết của tế bào (apoptosis). Điểm chốt G2 báo hiệu là các quá
trình cần thiết cho sự phân bào phải được hoàn tất như sự tái bản ADN, sự đông đặc
và tăng xoắn của sợi nhiễm sắc, sự tạo thành các vi ống chuẩn bị cho sự tạo thành thoi
phân bào, thì tế bào mới vượt qua chốt để vào kì đầu của phân bào. Nếu các quá trình
đó chưa được hoàn tất hoặc có xảy ra sự hư hỏng ADN thì tế bào cũng bị dừng lại ở
G2 và không vào được M, như vậy ngăn chặn không để xảy ra sự hư hỏng trong hệ
gen của thế hệ tế bào con cháu. Điểm chốt của giai đoạn M ở kì giữa chuyển sang kì
sau: Nếu các quá trình như tan rã màng nhân, tạo thoi phân bào và các trung tiết (tức
tâm động) bám gắn nhiễm sắc thể vào sợi của thoi... chưa hoàn tất thì tế bào bị dừng
lại ở trung kỳ.
Thứ hai là hệ thống điều chỉnh chu kỳ tế bào là gồm hai họ protein chủ yếu. Họ
thứ nhất là các kinaza phụ thuộc cyclinCdk có tác dụng phát động các quá trình tiền
thân bằng cách gây photphorin hóa nhiều protein đặc trưng tại gốc serin và threonin.
Họ protein thứ hai là các protein đặc biệt được gọi là cyclin, các cyclin đóng vai trò
kiểm tra hoạt tính photphorin hóa của Cdk đối với các protein đích. Khi cyclin liên kết
với Cdk thành một phức hệ thì Cdk ở trạng thái hoạt tính và khi cyclin tách khỏi Cdk
thì Cdk không có hoạt tính. Cyclin và kinases phụ thuộc cyclin (CDK) là hai loại phân
tử điều hòa chủ chốt quyết định diễn biến của chu kỳ tế bào. CDK chỉ có hoạt tính
xúc tác khi được gắn với cyclin hay nói cách khác cyclin là một protein điều hòa có vai
trò hoạt hóa CDK. CDK thực hiện phản ứng phosphoryl hóa hoạt hóa hay bất hoạt
protein mục tiêu để tế bào đi vào các pha tiếp theo của chu kỳ.Nhờ các tín hiệu ngoại
bào tiền nguyên phân, phức hợp cyclinCDK G 1 trở nên có hoạt tính giúp tế bào tiến
16
- vào pha S bằng cách thúc đẩy sự biểu hiện các nhân tố phiên mã giúp tăng cường sự
biểu hiện cyclin của pha S và các enzyme cần thiết cho sự nhân đôi ADN. Phức hợp
cyclinCDK G1cũng thúc đẩy sự phân hủy các phân tử ức chế pha S. Phức hợp cyclin
CDK ở pha S phosphoryl hóa protein làm phức hợp tiền nhân đôi đã được tập hợp trong
suốt pha G1 gắn vào điểm khởi đầu sao chép ADN cảm ứng sự nhân lên của ADN.
Phức hợp cyclinCDK nguyên phân bị bất hoạt trong suốt pha S và G2 sẽ khởi đầu giai
đoạn nguyên phân bằng cách kích thích các protein liên quan đến sự xoắn chặt của
nhiễm sắc thể và sự hình thành thoi vô sắc. APC được hoạt hóa nhằm thúc đẩy sự
phân hủy các protein cấu trúc liên kết với phức hợp protein gắn vào tâm động nhiễm
sắc thể đồng thời phân hủy cyclin trong giai đoạn nguyên phân để kỳ cuối và giai đoạn
phân chia tế bào chất có thể tiếp tục. Cyclin D là cyclin đầu tiên được tạo ra trong chu
kỳ tế bào đáp ứng lại các tín hiệu ngoại bào chẳng hạn như các nhân tố tăng trưởng.
Cyclin D gắn vào CDK4, tạo phức hợp cyclin DCDK4 hoạt hóa có vai trò phosphoryl
hóa protein ức chế khối u (Rb) giúp Rb phân tách khỏi phức hợp E2F/DP1/Rb (phức
hợp này được gắn vào gen và ngăn chặn quá trình phiên mã) dẫn tới hoạt hóa E2F. Sự
hoạt hóa này cho phép phiên mã nhiều gen khác nhau như cyclin E, cyclin A, DNA
polymerase, thymidine kinase, …. Cyclin E khi gắn vào CDK2 tạo phức hợp cyclin E
CDK2 có vai trò đẩy tế bào từ G1 vào pha S. Sự hoạt hóa phức hợp Cyclin BCDK2
giúp phá vỡ màng nhân và khởi đầu kỳ đầu của giai đoạn nguyên phân, đồng thời sự
bất hoạt phức hợp này giúp tế bào thoát khỏi nguyên phân. Phức hợp cyclinCDK ở các
giai đoạn khác nhau của tế bào nhân thực được mô tả ở hình
Thứ ba là nhân tố phát động trứng chín MPF (M aturation Promoting Factor) giúp
điều chỉnh chu kì tế bào của phôi ở giai đoạn phát triển sớm. Nhân tố này giúp cho tế
bào vượt qua điểm chốt G2 tiến vào M. Nhân tố MPF không chỉ có tác dụng phát động
để vượt qua điểm chốt G2 mà còn phát động vượt qua điểm chốt ở G l cho phép tế bào
đi vào S. Tồn tại một số cyclin, khi hàm lượng của chúng đạt tới ngưỡng nào đó sẽ tác
động hoạt hoá MPF và khi chúng bị phân hủy sẽ làm bất hoạt MPF và ức chế phân
bào.
Thứ tư là các nhân tố sinh trưởng giúp điều chỉnh chu kì tế bào. Tác động của
nhân tố sinh trưởng có thể gây cho tế bào có hai đáp ứng: đáp ứng sớm và đáp ứng
chậm. Trong đáp ứng sớm: Nhân tố sinh trưởng có tác động kích thích sự phiên mã của
nhiều gen, chủ yếu là các gen mã hóa cho các nhân tố phiên mã như cFos và CJun.
Trong đáp ứng chậm: Các protein được tổng hợp trong giai đoạn đáp ứng sớm có tác
động hoạt hóa các gen ở giai đoạn đáp ứng chậm. Một số gen này là các gen mã hóa
cho các nhân tố phiên mã như E2F. Một số gen khác trong đáp ứng chậm là các gen mã
hóa cho các loại cyclin D, A, E, các gen mã hóa cho các loại Cdk2, Cdk4 và Cdk6 cũng
được hoạt hóa và biểu hiện. Cho đến khi nào nồng độ các protein này tích lũy đủ thì tế
bào mới vượt qua điểm R để vào S và tái bản ADN. Một số nhân tố phiên mã E2F là
17
- cần thiết cho sự phiên mã các gen trên đây, cũng như các gen mã hóa cho nhiều protein
tham gia vào sự tổng hợp ADN và nhân tố E2F cũng kích thích sự phiên mã các gen mã
hóa cho bản thân chúng. Khả năng kích thích phiên mã của E2F lại bị ức chế bởi
protein liên kết với chúng là Rb và bởi 2 protein thân thuộc khác là pl07 và pl30. Protein
Rb đầu tiên được xác định như là sản phẩm của gen ức chế, do đó dẫn đến sự hoạt
hóa các gen cần thiết bởi E2F để đi vào giai đoạn S.
Một số protein ức chế cũng có vai trò trong điều khiển chu kì tế bào. các protein
có tác dụng ức chế hoạt tính của các cyclinkinaza, được gọi là CKI (Cyclin Kinase
Inhibitor) và chúng có hai lớp: Một lớp được gọi là CIP (Cdk Inhibitor Protein), chúng
liên kết và ức chế tất cả các phức hệ Cdkl, Cdk2, Cdk4 và Cdk6cyclin. Một lớp
khác được gọi là INK4 (kinase4inhibitor) liên kết và ức chế phức hệ Cdk4cyclin D
và Cdk6cyclin D. Người ta đã biết được một loại protein INK4 là pl6 có tác động như
một chất ức chế ung thư (tumor suppressor). Người ta cũng đã biết được ở động vật có
vú có ba lớp protein CIP được gọi là p21, p27 và p57. Các protein ức chế như INK4 và
các CIP như p21, p27 và p57 đóng vai trò ức chế hệ MPF, từ đó ức chế chu kỳ tế bào.
Vai trò của CIP p21 là đáp ứng lại sự hư hỏng của ADN ở tế bào động vật có vú.
Chúng cũng có vai trò ức chế sự tăng sinh tế bào trong phát triển phôi sinh. Protein CIP
p57 được biểu hiện trong các tế bào được biệt hóa của đa số mô của cơ thể trưởng
thành.
Như vậy cơ chế phân bào và điều khiển chu kì tế bào ở sinh vật nhân thực diễn
ra phức tạp và chặt chẽ hơn so với sinh vật nhân sơ. Điều này phù hợp với sự phức
tạp và hoàn thiện hơn về cấu trúc của tế bào nhân thực và đồng thời giúp đảm bảo sự
sinh trưởng, phát triển bình thường, ổn định của tế bào và cơ thể.
18
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. N.A. Campbell, J.B Reece, L.A Urry, M.L Cain, S.A Wasseman, P.V Minorsky và R.B
Jackson (2012), Sinh học (dịch theo sách xuất bản lần thứ 8). NXB Giáo dục Việt Nam
6
2. Nguyễn Như Hiền (2007), Giáo trình Sinh học tế bào, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội
3. Jue D. Wang and Petra A. Levin (2009). Metabolism, cell growth and the bacterial cell
cycle, Nature Reviews Microbiology volume 7, pages822–827.
4. Eric V. Wong (2009), Cells: Molecules and Mechanisms, Axolotl Academic
Publishing.
5. http://biomedia.vn/review/chukitebao.html
6. https://www.scienceabc.com/puresciences/whatismeiosisdefinitionandstages.html
7. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%C3%AAn_ph%C3%A2
19
nguon tai.lieu . vn