- Trang Chủ
- Khoa học tự nhiên
- Tiểu luận Sinh học cơ thể và phát triển cá thể: Khái niệm, giới thiệu quá trình sinh sản và phát triển ở nhóm côn trùng Cánh nửa (Hemiptera): Cà cuống (Lethocerus)
Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA SINH HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: SINH HỌC CƠ THỂ VÀ PHÁT TRIỂN CÁ THỂ
Chuyên đề: Khái niệm, giới thiệu quá trình sinh sản và phát triển
ở nhóm côn trùng Cánh nửa (Hemiptera): Cà cuống (Lethocerus).
- HÀ NỘI – 2022
- NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm sinh sản và phát triển
2.1.1. Khái niệm phát triển
2.1.2. Khái niệm sinh sản
2.2. Giới thiệu quá trình sinh sản ở cà cuống (Lethocerus)
2.2.1. Sự khác biệt giới tính
2.2.2. Tập tính sinh sản
2.3. Giới thiệu quá trình phát triển ở cà cuống (Lethocerus)
2.3.1. Phát triển phôi
2.3.2. Phát triển hậu phôi
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PHẦN I. MỞ ĐẦU
Côn trùng hay còn gọi là sâu bọ, là nhóm động vật đa dạng nhất hành tinh, gồm
hơn một triệu loài đã được mô tả và gồm hơn một nửa số sinh vật sống. S ố lượng các
loài côn trùng được cho là từ 2,5 triệu đến 10 triệu nhưng có lẽ là khoảng 5 triệu loài
[14].
Cà cuống là loài côn trùng nước thuộc họ Chân bơi (Belostomatidae), liên họ Bã
trầu (Nepoidae), trong phân bộ Râu kín (Cryptocerata) của bộ côn trùng Cánh nửa
(Hemiptera). Chúng có vùng phân bố khá rộng trên thế giới nhưng tập trung đa dạng
nhất vẫn là ở châu Mỹ, châu Âu chỉ có một loài, châu Phi và châu Úc hai loài, châu Á ba
loài (Hình 1)[16].
Hình 1. Sự phân bố của cà cuống (PerezGoodwyn, 2006) [16]
Ở Việt Nam, Nguyễn Công Tiễu (1928) lần đầu tiên mô tả một số đặc điểm hình thái,
giải phẫu, vai trò của cà cuống và định tên cho chúng là Belostoma indica Vitalis [17].
Năm 2000, Phạm Quỳnh Mai, Lê Xuân Huệ và Phạm Đình Sắc đã nghiên cứu một số
đặc điểm sinh học phát triển của loài cà cuống. Các công trình nghiên cứu về cà cuống
4
- giai đoạn đó đều cho rằng ở Việt Nam chỉ có một loài cà cuống là Lethocerus indicus
(Lepeletier et Serville, 1825). Từ năm 2000 – 2008, Vũ Quang Mạnh đã tiến hành thu
mẫu và nghiên cứu đặc điểm hình thái phân loại của các quần thể cà cuống thu bắt
trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Từ những nghiên cứu của mình, Vũ Quang Mạnh (2006)
cho rằng quần thể cà cuống ở Việt Nam không chỉ có một loài sinh học mà có thể gồm
hai hoặc ba loài khác nhau. Trong Hội nghị toàn quốc lần thứ IV về Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật (2011), Vũ Quang Mạnh đã đưa ra kết luận ở Việt Nam có hai loài cà
cuống là Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville, 1825) và Kirkaldyia deyrolli
(Vuillefroy, 1864). Tuy nhiên loài Kirkaldyia deyrolli (Vuillefroy, 1864) chỉ được phát
hiện ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh còn loài Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville,
1825) thì phân bố trên khắp lãnh thổ Việt
Nam[11]. Cà cuống cũng là loài duy nhất thuộc
bộ cánh nửa Hemiptera được đưa vào sách đỏ
Việt Nam [10].
Về hình thái chung, cà cuống trưởng thành
có cơ thể dẹt, hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu
đất, dài trung bình từ 78 cm, có con lên đến 10
12 cm. Khi còn non cà cuống giống như con gián,
mình dài khoảng 78cm, rộng 3cm, màu nâu xám,
có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và
to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài
bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng
nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh
mỏng nửa mềm nửa cứng (Hình 2). Ở những con
đực, dưới ngực sẽ có hai túi nhỏ và dài được gọi là bọng cà cuống. Trong phần bọng
có chứa tinh dầu, một chất lỏng trong cho thoảng ra một mùi đặc biệt gần giống như
mùi quế. Đây chính là vũ khí để tấn công con mồi cũng như xua đuổi địch thủ và dụ
con cái đến giao phối [4].
5
- Là một loại côn trùng hoàn toàn có lợi, cà cuống không chỉ được chế biến để làm
thức ăn, gia vị trong những món ăn mà còn được dùng như một loại thuốc chữa bệnh,
rất tốt cho sức khoẻ. Trên cơ thể cà cuống có thể chia ra nhiều bộ phận và mỗi bộ
phần đều có công dụng riêng. Phần thịt, tinh dầu và phần trứng của cà cuống được
dùng làm thuốc [18]. Ngoài ra nhiều thực nghiệm y khoa còn cho thấy rằng, tinh dầu từ
cà cuống có tác dụng như một chất kích thích thần kinh, nếu dùng ở liều thấp nó có
thể gây hưng phấn, đồng thời tăng cường khả năng sinh dục ở mức độ nhẹ [4].
Cà cuống là loài ăn thịt, hút dịch và máu của nhiều loài động vật thủy sinh, sâu
bọ, ốc, nhái và cá nhỏ…Điều này khiến chúng giữ một vai trò quan trọng trong chuỗi
thức ăn ở các thủy vực, là thiên địch của một số loài, giúp con người tiêu diệt một số
loài thân mềm mang bệnh kí sinh trùng (ví dụ như rùa tai đỏ), ốc bươu vàng…
Ngày nay, việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật
trong nông nghiệp đã làm ô nhiễm môi trường sống tự nhiên của cà cuống. Môi trường
sống tự nhiên của chúng cũng ngày càng bị thu hẹp do các hoạt động san lấp ao hồ,
đồng ruộng để phục vụ hoạt động sản xuất, các ngành công nghiệp, xây dựng…dẫn
tới số lượng cá thể cà cuống trong tự nhiên ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Vì vậy
việc nghiên cứu tìm hiểu về quá trình sinh sản và phát triển của cà cuống có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, giúp gây nuôi, bảo vệ, phục hồi và phát triển loài này trong tự nhiên.
PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm sinh sản và phát triển
2.1.1. Khái niệm phát triển
Phát triển được hiểu chung là một dãy những biến đổi cấp tiến đưa sự việc
ngày càng trở nên phức tạp hơn, hoàn thiện hơn, ở mức độ phát triển cao hơn. Chẳng
hạn như sự phát triển của đời sống cá thể sinh vật nhằm thích ứng ngày càng cao hơn
với môi trường sống.
Trong cuốn “Sinh học phát triển cá thể động vật”, tác giả Mai Văn Hưng đã
định nghĩa sự phát triển cá thể sinh vật chính là một quá trình bao gồm một dãy các cấp
biến đổi liên tiếp và phức tạp về cấu trúc, chức năng có trật tự trong không gian đã
6
- được mã hóa trong bộ gen để từ một hợp tử có hình thái khác hẳn cơ thể trưởng thành
biến đổi thành cơ thể hoàn chỉnh, đặc trưng cho loài [3]. Qúa trình này xảy ra liên tiếp
từ bộ phận này tới bộ phận khác, theo từng giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn phát
triển khác nhau của cá thể có thể diễn ra ở các môi trường khác nhau với sự sử dụng
các nguồn thức ăn khác nhau nhưng nó phải luôn thích ứng với môi trường sống.
Sự phát triển của động vật là sự biến đổi theo thời gian về hình thái và sinh lý
của các tế bào, mô, cơ quan và cơ thể từ hợp tử thành cơ thể trưởng thành (là giai
đoạn cơ thể phát dục, có khả năng sinh sản) [2]. Ví dụ ở người, hợp tử qua 8 ngày
phát triển thành phôi vị làm tổ trong dạ con người mẹ với các lớp tế bào khác nhau, sau
đó phát triển thành phôi thần kinh với mầm các cơ quan và qua 9 tháng 10 ngày hình
thành em bé với tất cả các cơ quan, đến tuổi dậy thì (13 14 tuổi) hình thành cơ thể
trưởng thành có khả năng sinh sản.
Dựa vào đặc điểm sinh trưởng và phát triển ở động vật người ta chia thành các
kiểu phát triển là phát triển không qua biến thái và phát triển qua biến thái. Sự sinh
trưởng và phát triển không qua biến thái có ở một số động vật không xương sống và
đa số động vật có xương sống (cá, chim, bò sát, động vật có vú và con người). Trong
kiểu phát triển này con non có các đặc điểm hình thái, cấu tạo và sinh lí tương tự con
trưởng thành. Phát triển qua biến thái là kiểu phát triển mà con non (ấu trùng) có các
đặc điểm hình thái, cấu tạo và sinh lí khác nhau giữa các giai đoạn và khác với con
trưởng thành. Tùy theo mức độ biến thái mà phân ra: biến thái hoàn toàn (ấu trùng có
hình dạng, cấu tạo và sinh lí rất khác với con trưởng thành, trải qua giai đoạn trung
gian, ấu trùng biến đổi thành con trưởng thành) và biến thái không hoàn toàn (ấu trùng
phát triển chưa hoàn thiện, gần giống với con trưởng thành, trải qua nhiều lần lột xác
ấu trùng biến đổi thành con trưởng thành).
2.1.2. Khái niệm sinh sản
Sinh sản là một trong những tính chất phức tạp và đặc trưng nhất cho sự sống.
Trong sinh giới, có rất nhiều loài sinh vật mà sự sinh sản đồng nghĩa với sự sinh
trưởng. Ví dụ như ở các loài côn trùng như bướm, ruồi, thiêu thân, các dạng trưởng
7
- thành tồn tại vài ngày chỉ để thực hiện việc thụ tinh và đẻ trứng. Một số loài nhện
đực, con đực sau khi thụ tinh cho con cái thì trở thành nguồn thức ăn của con cái, mà
thực chất để nuôi dưỡng thế hệ sau. Sinh sản bao gồm ba yếu tố là tăng trưởng, di
truyền và phát triển [3]. Sự tăng trưởng là điều kiện cốt yếu của sinh sản, nếu không
có tăng trưởng sự sống dần đi đến kết thúc. Chính nhờ có sinh sản mà các yếu tố di
truyền của bố mẹ có cơ hội tái tổ hợp và truyền lại các đặc tính của mình cho thế hệ
sau. Phát triển là một loạt những biến đổi kế tiếp của cơ thể, nhờ có quá trình phát
triển mà cơ thể có thể sinh sản ra nhiều tế bào sinh dục có tổ chức cao, nhằm đảm
bảo hiệu quả sinh sản.
Ngoài ra sinh sản có thể hiểu là quá trình sinh học mà các sinh vật đơn lẻ mới
"con đẻ" được tạo ra từ "cha mẹ" của chúng. Có hai hình thức sinh sản: vô tính và
hữu tính. Trong sinh sản vô tính, một sinh vật mới được tạo ra sẽ mang những đặc
điểm giống hệt cá thể ban đầu mà không cần sự đóng góp vật liệu di truyền của một
cá thể khác. Sinh sản hữu tính là một quá trình sinh học tạo ra các sinh vật mới bằng
cách kết hợp vật liệu di truyền từ hai cá thể khác nhau của loài. Ở hầu hết các loài
động vật quá trình này bao gồm ba giai đoạn nối tiếp nhau: giai đoạn hình thành tinh
trùng và trứng, giai đoạn thụ tinh (giao tử đực kết hợp với giao tử cái tạo thành hợp
tử), giai đoạn phát triển phôi hình thành cơ thể mới.
2.2. Giới thiệu quá trình sinh sản ở cà cuống (Lethocerus)
2.2.1. Sự khác biệt giới tính
Để nghiên cứu về quá trình sinh sản ở cà cuống, việc đầu tiên cần làm là phân
biệt được sự khác biệt về giới tính giữa cà cuống đực trưởng thành và cà cuống cái
trưởng thành. Sự khác biệt này được thể hiện qua những sai khác về hình thái phân
loại cũng như hình thái cấu tạo của cơ quan sinh dục.
Các chỉ tiêu so sánh hình thái phân loại cà cuống được thực hiện theo theo Perez
Goodwyn (2006) gồm: Hình dạng chung, màu sắc, kích thước; hình thái phần đầu phần
phụ đầu; hình thái phần ngực và phần phụ ngực; hình thái phần bụng và cơ quan giao
phối đực cái [16]. Vũ Quang Mạnh, Lê Thị Bích Lam (2012) đã mô tả chi tiết đặc điểm
8
- hình thái phân loại của cà cuống trưởng thành và kết luận cà cuống đực và cà cuống
cái không sai khác nhiều về hình thái phân loại theo tỷ lệ cấu trúc các phần hay màu
sắc của cơ thể nhưng về kích thước, cá thể đực thường nhỏ hơn cá thể cái [12]. Ngoài
ra để phân biệt cà cuống đực và cái ta có thể dựa vào hình thái đốt bụng cuối, tấm
bụng và tấm lưng. Phần đỉnh của tấm bụng cuối của cá thể đực có hình dạng thuôn
nhọn, với chóp đỉnh hơi lồi; cá thể cái có tấm bụng bè rộng hơn và hơi lõm ở phần
đỉnh.
Bên cạnh sự sai khác về hình thái phân loại, hình thái và cấu tạo cơ quan sinh
dục là một đặc điểm quan trọng giúp phân biệt các cá thể cà cuống đực và cái (Hình 3),
(Hình 4).
A. Con đực B. Con cái
Hình 3. Hình thái cơ quan sinh dục của cà cuống L. indicus trưởng thành [15]
Hình 4. Hình thái cấu tạo cơ quan sinh dục cà cuống đực trưởng thành (hình trái)
9
- và cơ quan sinh dục của cà cuống cái trưởng thành (hình phải)
(a) Lethocerus indicus; (b) Kirkaldyia deyrolli
(Vũ Quang Mạnh, 2011)
Bộ phận sinh dục đực bao gồm một túi gốc (phallobase), một đôi gai bên (paramere),
cơ quan giao phối đực có dạng ống thuôn dài, phần đỉnh hơi cong xuống. Bộ phận sinh
dục cái gồm máng sinh dục cái (gonapophysis) có cấu trúc kép, là đôi ống nhỏ, thuôn
dài và mảnh mai, cong gập vào trong, bao lấy tấm van mở hình tam giác cân. (Hình 4)
[11]
2.2.2. Tập tính sinh sản
Tập tính là một khái niệm phức tạp, có thể hiểu là chuỗi những phản ứng của
động vật trả lời kích thích từ môi trường bên trong hoặc bên ngoài cơ thể. Có hai loại
tập tính là tập tính bẩm sinh và tập tính thứ sinh. Tập tính sinh sản là tập tính bẩm sinh
mang tính bản năng, gồm chuỗi các phản xạ phức tạp do kích thích của môi trường
bên ngoài (nhiệt độ) hoặc bên trong (hoocmon) gây nên hiện tượng chín sinh dục, tranh
giành con cái, làm tình, mang thai, sinh đẻ, nuôi con...Tập tính sinh sản đặc trưng cho
mỗi loài, có cơ chế và được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau.
Cà cuống là loài sinh sản hữu tính, ở tuổi trưởng thành các cá thể cà cuống đực
tiết tinh dầu thu hút con cái, chúng tìm đến nhau, giao phối và thực hiện quá trình sinh
sản. Thông thường cà cuống sinh sản từ tháng 6 đến tháng 9, đặc biệt là cuối tháng 7
đầu tháng 8, sau các trận mưa rào, nhiệt độ nước từ 26 – 300C, nhiệt độ không khí
khoảng 30 – 340C, pH trung tính khoảng 7,5 [8], [9]. Trong tự nhiên, cà cuống thường
có xu hướng lựa chọn, đẻ trứng ở một vài sinh cảnh: nước đọng (ao, hồ, đầm…),
ruộng lúa nước, nước đọng trong ruộng lúa nước. Trong đó số lượng ổ trứng tập trung
nhiều nhất ở sinh cảnh nước đọng trong ruộng lúa nước. Ở sinh cảnh nước chảy như
sông suối…không bắt gặp sự xuất hiện của ổ trứng nào [13].
Quá trình sinh sản của cà cuống sẽ diễn ra sau năm tuần kể từ khi giao phối. Cà
cuống Lethocerus indicus thường đẻ trứng thành đám, bao quanh các cọng cỏ thủy
sinh, lúa nước. Khi đẻ trứng, con cái sẽ hướng phần đuôi lên trên và tiết ra chất dính
dạng bong bóng giữ cho trứng bám vào cây hoặc giá thể, xếp trứng thành những hàng
10
- ngay ngắn. Trứng cà cuống dài trung bình 4mm, rộng 2,4 mm; hai đầu trứng có kích
thước khác nhau rõ rệt. Trong một ổ, các quả trứng nằm vuông góc với giá thể đỡ
trứng, đầu nhỏ dính vào giá thể, đầu to hướng ra phía ngoài [6], [8]. Số lượng trứng
được đẻ trong một ổ là từ 100 đến hơn 160 quả. Trứng mới đầu có màu vàng sáng,
trắng sữa, sau một thời gian khi trứng chuẩn bị nở sẽ chuyển sang màu sẫm (Hình 5).
Hình 5. Trứng cà cuống. [19]
Cà cuống đực có nhiệm vụ bảo vệ trứng cho đến khi nở, giữ ẩm và bảo vệ trứng khỏi
những kẻ săn mồi. Chúng thường quạt nước làm tăng lượng oxi cho trứng [15]. Trứng
nở sau khoảng 7 – 8 ngày với tỉ lệ trứng nở thành ấu trùng rất cao từ 90% đến gần
100% [13].
2.3. Giới thiệu quá trình phát triển ở cà cuống (Lethocerus)
2.3.1. Phát triển phôi
Giống như các côn trùng khác, trứng cà cuống là trứng trung hoàng: Noãn hoàng
phân bố ở trung tâm, bao bên ngoài khối noãn hoàng này là một lớp tế bào chất ngoại
vi. Nhân nằm ở trung tâm của trứng, xung quanh có một lượng nhỏ tế bào chất, giữa
tế bào chất trung tâm và tế bào chất ngoại vi thông nhau bằng cầu nối tế bào chất hay
nhiều thể sợi. Trứng phân cắt bề mặt: Các lần phân chia đầu tiên chỉ có phân chia nhân
mà không phân chia tế bào chất, các nhân sau khi được phân chia đi theo các cầu tế bào
11
- chất ra ngoại vi. Tại đây, các nhân nằm trong lớp tế bào chất bề mặt trứng xếp thành
một lớp nhân bao quanh khối noãn hoàng, sau đó xung quanh của nhân đồng loạt xuất
hiện các rãnh phân cắt tạo các vách ngăn quanh nhân. Trong quá trình phát triển phôi có
hình thành màng ngoài và màng trong (Hình 6).
Đến cuối giai đoạn dải phôi đã phân đốt để cho các đốt đầu, đốt ngực và đốt
bụng với các phần phụ tương ứng. Riêng phần bụng chỉ có mầm phần phụ, sau này
tiêu biến hoặc biến đổi [3].
2.3.2. Phát triển hậu phôi
Qúa trình phát triển của cà cuống gồm ba giai đoạn, bắt đầu từ trứng đến giai
đoạn thiếu trùng, sau đó mới đến con trưởng thành. Cánh của chúng phát triển cùng
với quá trình lột xác của thiếu trùng và thể hiện đầy đủ chức năng ở con trưởng thành.
Thời gian từ giai đoạn trứng tới khi trưởng thành khoảng 32 đến 43 ngày phụ thuộc
vào nhiệt độ (Pongsart, 1990). Vòng đời của cà cuống là một năm hoặc lâu hơn.
12
- Thiếu trùng khi mới nở ra từ trứng có màu vàng nhạt trong một vài giờ, sau đó
chuyển sang màu tối dần. Sau khi nở, thiếu trùng sẽ bò dọc thân cây, rồi xuống dưới
nước. Nhưng phần lớn thời gian sống của chúng ở gần bề mặt nước, do vậy chúng có
thể thở một cách dễ dàng . Ngay phía sau đầu của thiếu trùng có các ống nhỏ, hoạt
động như những ống thở, mang không khí đi khắp cơ thể chúng. Nếu số lượng các con
non tập trung nhiều trong cùng một thủy vực thì có thể xảy ra hiện tượng ăn thịt lẫn
nhau [7],[8].
Cà cuống phát triển qua biến thái không hoàn toàn: thiếu trùng mới nở đã nhác thấy
giống con trưởng thành tuy mới chỉ có mầm cánh, chưa có đặc điểm sinh dục thứ cấp
nhưng có thể có thêm các cơ quan riêng. Cà cuống lột xác khoảng năm lần trong giai
đoạn thiếu trùng, sau mỗi lần lột xác các sai khác với con trưởng thành sẽ giảm dần
cho đến khi giống con trưởng thành (Hình 7) [5], [8].Thời gian từ khi trứng cà cuống
nở tới khi trưởng thành khoảng 40 ngày.
PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Sự phát triển phôi: Trứng trung hoàng, phân cắt bề mặt. Trong quá trình phát
triển phôi có hình thành màng ngoài và màng trong. Đến cuối giai đoạn dải phôi đã
phân đốt để cho các đốt đầu, đốt ngực và đốt bụng với các phần phụ tương ứng.
Riêng phần bụng chỉ có mầm phần phụ, sau này tiêu biến hoặc biến đổi.
13
- 2. Sự phát triển hậu phôi: Cà cuống phát triển qua biến thái không hoàn toàn, lột
xác khoảng năm lần trong giai đoạn thiếu trùng, sau mỗi lần lột xác các sai khác với
con trưởng thành sẽ giảm dần cho đến khi giống con trưởng thành.
3. Qúa trình sinh sản: Cà cuống là loài sinh sản hữu tính, chúng giao phối và thụ
tinh trong. Trứng được đẻ thành từng đám, tỉ lệ trứng nở thành ấu trùng rất cao từ 90%
đến gần 100% .
14
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt
1. Thái Trần Bái, Hoàng Đức Nhuận, Nguyễn Văn Khang (1971), Động vật học không
xương sống, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Như Hiền, Vũ Xuân Dũng (2007), Sinh học cơ thể, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Mai Văn Hưng (2009), Sinh học phát triển cá thể động vật, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
4. Đỗ Tất Lợi (1995), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
5. Phạm Quỳnh Mai, Lê Xuân Huệ, Phạm Đình Sắc (2000). Một số đặc điểm sinh
sản và phát triển của cà cuống Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville, 1775). Tạp
chí Sinh học, 4, 6266.
6. Vũ Quang Mạnh (1998), Con cà cuống, loài côn trùng độc đáo, Khoa học đại chúng
phục vụ nông nghiệp và nông thôn, 6066, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Vũ QuangMạnh (1999), Nghiên cứu sinh thái, tập tính và gây nuôi cà cuống, Báo
cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp nhà nước, Mã số 6.17.98.,129, Hà Nội.
8. Vũ Quang Mạnh (Cb), Lê Xuân Huệ (1999), Tập tính động vật và ứng dụng trong
gây nuôi cà cuống và bọ cạp, 1180, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
9. Vũ Quang Mạnh (2000a), Đặc điểm hình thái và cấu tạo của cà cuống Lethocerus
indicus (Lepeletier et Serville, 1775) ở Việt Nam , Những vấn đề Nghiên cứu cơ bản
trong Sinh học, 414418, NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
10. Vũ Quang Mạnh (2007), Con cà cuống Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville,
1775), Sách đỏ Việt Nam, tập 1 phần Động vật, 453454, NXB KH và KT, Hà Nội.
15
- 11. Vũ Quang Mạnh (2011). Ghi nhận loài cà cuống Kirkaldyia deyrolli (Vuillefroy,
1864) (Lethocerinae, Belostomatidae) cho khu hệ Việt Nam, Hội nghị khoa học toàn
quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 4, 206213.
12. Vũ Quang Mạnh, Lê Thị Bích Lam (2012). Đặc điểm hình thái, giới tính loài cà
cuống Lethocerus indicus (Lepeletier et Serville, 1775) và môi trường sống của
chúng ở Việt Nam. Tạp chí Sinh học, 34, 166172.
13. Sonexay rasphone (2017). Nghiên cứu định loại, môi trường sống và tập tính sinh
sản của loài cà cuống (Lethocerus sp.) ở tỉnh Savannakhet, Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào, Luận văn thạc sĩ khoa học Sinh học.
II. Tài liệu nước ngoài
14. David Grimaldi, Michael S. Engel (2005). Evolution of the Insects, Cambridge
University Press. UK, pp. 1755.
15. Hasko Friedrich Nesemann & Gopal Sharma (2013). “Observations on the life history
of giant water bugs Lethocerus Mayr, 1853 (Heteroptera: Nepomorpha:
Belostomatidae) in the Gangetic plains of India and Nepal”. Journal of Threatened
Taxa. 5(10): 44744482.
16. PerezGoodwyn P. J., 2006. Taxonomic revision of the subfamily Lethocerinae Lauck
& Menke (Heteroptera: Belostomatidae). Stuttgarter Beiträge zur Naturkunde, Serie A
(Biologie), 695: 1 71+74 Abb.
17. Tieu, N. C. (1928). Notes sur les insectes comestibles au Tokin. Bull. Econ. de
l’Indochine, 31, 735744.
18. Smith R. J., 1997. In: Choe J. & B. Crespi (Eds) Social Behavior in insects and
Arachnids, Cambridge University Press. UK, pp. 116149.
III. Internet
16
- 19. https://danviet.vn/lamahaykiem2trieungaytunuoiconchetdenditvanconcay
7777824267.htm
20. http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/biologie/cacuong.htm
17
nguon tai.lieu . vn