Xem mẫu
- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Tiểu luận
"Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức
cách mạng"
- MỤC LỤC
1. Tìm hiểu về đạo đức cách mạng. ............................................................... 3
a. Đạo đức là gì? ............................................................................................ 3
b. Đạo đức cách mạng là gì?.......................................................................... 3
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng của
con người Việt Nam mới.................................................................................. 3
Quan niệm về vai trò đạo đức Cách Mạng. ..................................................... 3
3. Nguồn gốc tư tưởng đaoh đức Hồ Chí Minh. ........................................... 4
4. Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ............................. 4
5. Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
theo quan điểm Hồ Chí Minh........................................................................... 4
Chí công vô tư ..................................................................................................... 7
- Phần mở đầu vào bài.
1. Tìm hiểu về đạo đức cách mạng.
a. Đạo đức là gì?
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội,
nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong quan
hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm quan hệ lợi ích của cá
nhân và cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Đạo
đức nảy sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và hình thức biểu
hiện là nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực này định hướng, đánh giá điều chỉnh hành vi của con
người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội nhất định, góp phần bảo vệ kỷ
cương xã hội. Bất cứ một chế độ xã hội nào cũng đặt ra việc điều chỉnh
hành vi con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, đạo đức được
xem là tiến bộ khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ của xã hội.
b. Đạo đức cách mạng là gì?
Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra
thuật ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa
khái niệm đạo đức cách mạng, phân tích nội dung bản chất của đạo đức
cách mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của đạo đức truyền
thống Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo đức phục
vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức
cách mạng của con người Việt Nam mới.
Quan niệm về vai trò đạo đức Cách Mạng.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách
mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. người không để lại
những tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về
đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt
rất cô đọng hàm súc theeo phong cách phương Đông, rất quen thuộc
với on người Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện trước nhất và
nhiều nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói,
lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được
thế giới biết đến và ghi nhận.
- 3. Nguồn gốc tư tưởng đaoh đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam, đã được hình thành trong thời kì lịch sử, đồng
thời kế thừa tư tưởng đạo đức Phương Đông, những tinh hoa đạo đức
của nhân loại, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của
Mác- Lenin, cũng như những tấm gương đạo đức trong sáng mà ông
kể lại.
Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng
quen thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời, đưa vào đó những nội dung
mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức mới
của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức mới đã hòa
nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, làm cho mỗi
người dân Việt Nam đều cảm thấy gần gũi. Việc tiếp thu những tinh hoa
nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được
đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam
trong nhân loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng
nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những
giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
4. Phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Nhưng vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minhxem xét một cách toàn
diện:
- Đối với mọi đối tượng – từ công nhân nông dân đến trí thức, văn
nghệ sĩ, từ các cụ phụ lão đến thanh thiếu niên nhi đồng, đồng bào
các dân tộc, tôn giáo… Cùng với việc đề cập đạo đức công dân,
Người đặc biệt quan tâm đến đạo đức của các cán bộ Đảng viên.
- Trên mọi lĩnh vực hoạt động của Người- từ đời tư đến đời công,
cũng như sinh hoạt học tập lao động, chiến đấu lãnh đạo quản lý…
- Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng- từ gia đình đến xã hội, từ giai
cấp đến dân tộc, từ các vùng miền địa phương đến cả nước, từ
quốc gia đến quốc tế.
5. Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam trong
thời đại mới theo quan điểm Hồ Chí Minh.
a, Trung với nước hiếu với dân.
- Trung - Hiếu là những khái niệm đã có trong đạo đức truyền thống
Việt Nam và Phương Đông, khái niệm này ăn sâu bám rễ trong tâm hồn
ngưới Việt Nam.
+Trung là trung với Vua, Khổng Tử đưa ra một cặp mệnh đề
“Vua Minh, Tôi Trung” nói lên quan hệ hai chiều và tác động lẫn nhau,
đến Đổng Trọng Thư thời nhà Hán với chế độ phong kiến TW tập quyền
thì Trung với vua là một yêu cầu vô điều kiện, “Quân xử thần tử thần bất
tử bất trung” vua có tàn bạo thì vẫn phải nghe lệnh.Đạo đức phong kiến
trong thời này nhằm bảo vệ tôn ti trật tự của nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền.
Trong lịch sử Việt Nam,tư tưởng Trung quân cũng tồn tại như ở
những nước Phương Đông chiụ ảnh hưởng của Nho giáo , song tư tưởng
Trung Quân của Việt nam gắn bó rất chặt chẽ với tư tưởng Ái Quốc (vì
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị cao nhất trong bảng thang các
giá trị, nếu như vua hèn, vua Rước Voi Giày Mả Tổ ,Vua “cõng rắn cắn
gà nhà” thì lòng trung quân sẽ tan vỡ, đó cũng là một đặc điểm của tư
tưởng trung quân ở Việt Nam.“Dãy Trường Sơn thăm thẳmNước Đại
Hải đại ngàn .Vua An Nam theo giặc .Cho dân tình cơ hàn”.(Vè Nghệ
Tĩnh),
Kế thừa khái niệm Trung của phương Đông nói chung và Việt
Nam nói riêng. Hồ Chí Minh đã nâng lên tầm nội dung của khái niệm
này “Trung với nước” – Trung với nước được coi là phẩm chất cao nhất
của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới.
+ Hiếu:
Hiếu là một phẩm chất đạo đức quan trọng được hình thành trong
gia đình ở mối quan hệ giữa cha mẹ – con cái, nêu lên nghĩa vụ của con
cái đối với cha mẹ. Hiếu là điều kiện để duy trì mối quan hệ gia đình.Cha
mẹ nào ở bất kỳ thời đại nào cũng cần những người con có hiếu, Khổng
Tử có cặp mệnh đề: “Phụ tử – Tử hiếu” (Cha hiền – con hiếu thảo) -
cũng nói lên mối quan hệ hai chiều giữa cha – con. Đến Đổng Trọng Thư
– thời nhà Hán – quan hệ cha – con trong đạo tam cương được hiểu một
chiều khắc khe ‘Phụ xử tử vong – tử bất vong bất hiếu”. Trong lịch sử
Việt Nam chưa có nghe thấy, chưa có trường hợp nào ghi nhận, cha bắt
con chết vì ý thích vô lý của cha và cũng chưa thấy con nào bằng lòng
chết vì mong muốn vô lý của cha. Quan hệ của cha con Việt Nam gắn
kết hài hòa giữa nhân nghĩa với hiếu để.
Hồ Chí Minh kế thừa, khái niệm Hiếu và phát triển lên với nội
dung mới “ Hiếu với dân”.Hiếu với cha mẹ mình và hiếu với cha mẹ cùa
tất cả mọi người.
Thế nào là Trung với nước, Hiếu với dân?
- Trung với nước là trung với sự nghiệp xây dựng nước và giũ nước,
nước ở đây là nước với dân, nhân dân là chủ của đất nước, Hiếu với dân
là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ. Cán bộ đảng viên phải là
người đầy tớ trung thành với nhân dân. phẩm chất “trung với nước, hiếu
với dân” là phẩm chất bao trùm và quan trọng nhất chi phối các phẩm
chất khác. Hồ Chí Minh yêu cầu cao phẩm chất này ở tất cả các đối
tượng.
Chữ Trung chữ Hiếu là những chữ ăn sâu bám rễ vào tâm hồn
con người Việt Nam. Hồ Chí Minh sử dụng từ này và nâng lên một nội
dung mới phù hợp với giai đoạn lịch sử mới vừa thể hiện tốt truyền
thống, vừa thể hiện tính cách mạng,dễ hiểu, dễ nghe, dễ tiếp nhận.
b, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
(đối với người dân và đối với người cán bộ có những nội dung khác
nhau)
Đối với người dân , Người giải thích:
Cần: “Là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai… Tục ngữ ta có
câu: “Nước chảy đá mòn, kiến tha lâu đầy tổ. Dao siêng mài thì sắc bén,
Ruộng siêng làm cỏ thì lúa tốt… Mọi người điều phải cần, cả nước đều
phải cần.” [T5-234]Song người cũng lưu ý.Cần không có nghĩa cần là “
làm cố sống, cố chết trong một ngày, một tuần, một tháng đến nổi sinh
ốm đau, phải bỏ việc như vậy không phải là cần” [T6-226]như vậy quan
niệm của Hồ Chí Minh về chữ cần là bao hàm cả cái trí,nghĩa là phải lao
động có kế hoạch,sáng tạo và có năng xuất cao.
Kiệm: tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm
tiền của của nhân dân,của nước và của bản thân mình.“tiết kiệm là không
xa xí, không hoang phí bừa bãi. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn… Việc
đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là kiệm”.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ kiệm là bao hàm cả cái trí,tiết
kiệm một cách khôn ngoan hợp lý.
Quan hệ giữa cần và kiệm ,Người viết “Cần với kiệm phải đi đôi với
nhau như hai chân của một con người. Cần không kiệm thì làm chừng
nào xào chừng ấy cũng như cái thùng không đáy, nước đổ vô chừng nào,
chảy ra hết chừng ấy, không lại hòan không … Kiệm mà không cần …
như cái thùng chỉ đựng một ít nước không tiếp tục đổ thêm vào lâu ngày
chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến khi khô kiệt” [T5-238]
“Liêm: Liêm trong liêm khiết là trong sạch, không tham lam …
Ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục
khoét dân thì gọi là Liêm. Chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp … Ngày nay,
nước ta là dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người
đều phải Liêm. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm
- phải đi đôi với chữ cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham
lam” [T5-243]
( HCM từng nhắc một câu nói của Khổng tử: Người không Liêm không
bằng súc vật”)
“Chính, nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn … cần
kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ lại cần có
nhành lá, hoa, quả, mới là cây hòan tòan. Một người phải cần, kiệm, liêm
nhưng còn phải chính mới là hoàn toàn”.
Đối với những người trong các công sở Hồ Chí Minh giải thích
nội dung của Cần - kiệm - liêm - chính như sau:
“Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho
chóng – cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày
mai. Phải nhớ rằng: dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta
trong những thì giờ đó, ai lười biếng tức là lường gạt dân.”
“Kiệm - giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của chính phủ, tức là của
dân, ta cần phải tiết kiệm … Nhờ các công sở tiết kiệm mà lợi cho dân
rất nhiều.
“Liêm – những người ở các công sở, từ làng cho đến chính phủ
trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của chính phủ, hoặc
đục khoét nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt mất hết cả danh giá, mà của
phi nghĩa đó không được hưởng. Vì vậy, những người trong công sở phải
lấy chữ Liêm làm đầu.”
“Chính – mình là người làm việc công, phải có công tâm, công
đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc
công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư
huệ, hoặc tư thù tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những
người có tài năng làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào
chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn
mình, phải trung thành với chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm
quan cách mạng”{t4-336}
. Những người trong các công sở tức trong bộ máy nhà nước “tức đều có
nhiều hoặc ít quyền hành nếu không gữi đúng cần, kiệm, liêm, chính dễ
trở nên hủ bại, biến thành sâu mọi của dân” [T4-326]
Cần kiệm liêm chính là thước đo văn minh tiến bộ của một
dân tộc. Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về
vất chất, mạnh mẽ tinh thần là một dân tộc văn minh tiến bộ, là đặc điểm
của một xã hội hưng thịnh, trái lại là đặc điểm của một xã hội suy tàn.
Chí công vô tư
- Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn “mọi người vì mình”
mà không biết “mình vì mọi người” nó là một thứ nội xâm, còn nguy
hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất
độc, đẻ ra hàng trăm thứ nguy hiểm khác: quan liêu, bè phái, tham ô,
lãng phí, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chính
quyền.
Tuy nhiên cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân đâu là lợi
ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng
sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân của mỗi gia đình. Nếu
những lợi ích cá nhân đó không không trái với lợi ích của tập thể thì
không phải là xấu. Mỗi người hãy phát huy sở trường và tính cách riêng
của mình
Cần kiệm liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư, ngược lại đã chí
công vô tư một lòng vì nước vì dân, vì Đảng, không nghĩ đến bản thân
trước “thì nhất định sẽ thực hiện được cần kiêm liêm chính và có nhiều
tính tốt khác. “Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà
những tính tot như sau ngày càng thêm … Nói tóm tắt, tính tốt ấy có 5
điều: Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm” [T5-251].
c, Yêu thương con người, sống có tình nghĩa.
Yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp mà Hồ Chí Minh
đòi hỏi phải có trong đạo đức cách mạng. Nếu không có tình yêu thương
con người thì không thể nói đến cách mạng,càng không thể nói đến
CNXH hayCNCS.Con người ở đây là những người cùng khổ, bạn bè,
đồng chí, những người lầm đường lạc lối đã hối cãi, tù binh chiến tranh
… Năm 1946, trước khi đi Pháp, Hồ Chí Minh viết thư căn dặn các chiến
sĩ và nhân dân Nam bộ rằng “Đối với những người lính Pháp bị bắt, phải
chú ý hai điều: một là phải canh phòng cẩn mật, hai là phải đối xử nhân
đạo với họ, để cho nhân dân Pháp hiểu rằng dân tộc Việt Nam là một dân
tộc văn minh, văn minh gấp trăm lần bọn xâm lược nước ta”.
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của
nhân loại chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con
người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã
hội.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương với đại
đa số nhân dân, nhưng người lao động bình thường trong xã hội, những
người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi
việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu đạt cho
được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với chính mình thì chặt
chẽ, nghiêm khắc với người thì khoan dung, đọ lượng, rộng rãi, nâng con
người lên, kể cả với những người lầm đường lạc lối, mắc sai lầm, khuyết
điểm. Cùng giúp đỡ nhau để ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Lòng yêu thương quý trọng con người được thể hiện trong các
quan hệ hàng ngày với mọi người ,chẳng những đòi hỏi ứng xử với con
người theo tinh thần “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” mà còn đòi hỏi mọi
người phải nghiêm khắc chặt chẽ với mình, rộng rãi , độ lượng với người
khác , đòi hỏi phải nâng phẩm giá con người lên, phát huy cái tốt để đi
đến hạn chế cái xấu. Không được hạ thấp ,kìm hãm khả năng vươn lên
chân thiện mỹ của con người.Sự yêu thương con người trong đạo đức
cách mạng có một sức thu hút mạnh mẽ,chính tình yêu đó đã đánh thức
những gì tốt đẹp mà HCM tin rằng ở mỗi người đều có,dù nhiều ít khác
nhau .
d, Có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Tư tương Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện giữa chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Nội dung của củ nghĩa đế quốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng
lớn và sâu sắc. Đó là sự tự tôn và yêu thương tất cả các dân tộc, nhân dân
các nước, chống sự hằn thù bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng
tộc. Người khẳng định: Bốn phương vô sản, bốn bề đều là anh em, giúp
bạn là giúp mình. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình
đoàn kết quốc tế, tạo ra khẩu hiệu quanhệ quốc tế mới: đối thoại thay đối
đầu, kiến tạo một nền văn hóa hòa bình trên thế giới.
Quan niệm đạo đức Hố Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong sáng
của Hồ Chí Minh thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu
tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một
mục tiêu chung “bốn phương vô sản đều là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã
hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu
nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống
lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc…
I. Nguyên tắc xây dựng đạo đức của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất giữa tư
tưởng đạo đức và mục tiêu chính trị; giữa tư tưởng đạo đức và hành vi
- đạo đức; giữa đạo đức và tài năng; giữa đạo đức cách mạng và đạo đức
đời thường; giữa ba mối quan hệ: với mình- với người- với công việc. Vì
vậy con người HCM, phong cách HCM, đạo đức HCM đã trở thành biểu
tượng và niềm tin của dân tộc. Niềm tin đó, biểu tượng đó đã xâm nhập
vào quần chúng nhân dân và đã chuyển hóa thành sức mạnh vật chất,
góp phần tạo nên những chiến công hiển hách của dân tộc; nâng vị thế
dân tộc ta lên một tầm cao mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mỗi người dân Việt Nam mà
trước hết là người cán bộ Đảng viên, cần phải thấm nhuần đạo đức cách
mạng nêu cao tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh..
1. Thứ nhất, nói đi đôi với làm nêu gương về đạo đức.
Nói đi đôi với làm là một truyền thống, một chuẩn mực hành vi
đạo đức của dân tộc Việt Nam. Nói đi đôi với làm xa lạ với lối sống nói
suông, nói nhiều làm ít “làm láo báo cáo thì hay” thậm chí “nói một
đường làm một nẻo”. Theo Hồ Chí Minh ở phương Đông “một tấm
gương sáng còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Nói
không đi đôi với làm là vì “cái tâm” mình không chính, nói nhiều làm ít,
nói một đường làm một nẻo là “những cán bộ dở”, cán bộ thiếu cái tâm
là cán bộ dở, cán bộ thiếu cái tâm là một điều nguy hại của Đảng cầm
quyền. Vì vậy, nói đi đôi với làm lý thuyết phải đi đôi với thực hành, lý
luận phải gắn với thực tiễn.
Cuộc sống chính là nguyên tắc nhất quán một giá trị đạo đức của
người cán bộ cách mạnh chân chính. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu người
cán bộ phải thực hiện lời nói đi đôi với việc làm. Đây là một trong những
đặc trưng nổi bật về phong cách làm việc của người cán bộ cách mạng.
Mối quan hệ giữa nói đi đôi với làm thể hiện ở nhiều cấp độ khác
nhau, trước hết là “miệng nói tay làm mới được” cấp độ cao hơn nữa là
mình phải làm trước, làm nhiều, làm gương “muốn hướng dẫn nhân dân
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Nói đi đôi với làm
của người cán bộ là làm sao cho dân tin, dân yêu, dân phục một thái độ
“tâm phục, khẩu phục” thật sự qua lời nói và việc làm của người cán bộ.
Nói đi đôi với làm là đạo làm gương, một phẩm chất, một giá trị đạo đức
thực tiễn của người cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng nói không đi đôi với làm chỉ nói suông là
đạo đức giả “đứng chỉ tay năm ngón là đồng bào không tin, cho là quan
liêu” nó đối lập với bản chất của đạo đức mới. Người yêu cầu cán bộ
phải thống nhất giữa nói và làm, tư tưởng phải chuyển hóa thành hành
động cụ thể, hoàn thành nhiệm vụ, thực hiện nhiệm vụ lý tưởng cao cả
của Đảng và nhân dân giao phó. Vì vậy, có thể nói trong hoạt động “kết
hợp lý luận với thực tiễn”; “biết với làm”; “lời nói đi đôi với hành
- động”… là một đặc trưng của phong cách, phương pháp, tác phong Hồ
Chí Minh.
2. Thứ hai, xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần
chúng rộng rãi.
Xây là xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chống là chống sự vi phạm đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, chống tư tưởng vụ lợi ích kỉ “gầy người béo mình”. Hồ Chí Minh
cho rằng, người cán bộ cách mạng không ngừng “nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” vì “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng
trăm thứ xấu…” Người nhấn mạnh “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất
gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc và thế mà
càng nguy hiểm”. Vì vậy, người cán bộ cách mạng phải gọt rủa chủ
nghĩa cá nhân, cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân một cách mạnh mẽ
và thường xuyên.
Hiện nay khi đất nước xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng một bộ phận không nhỏ cán
bộ, Đảng viên đang nặng chủ nghĩa cá nhân, xa rời lợi ích của Đảng của
nhân dân, lợi dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích cá nhân, gia đình, khu
biệt lợi ích bộ phận. Biểu hiện về sự suy thoái đạo đức nổi bật nhất của
một bộ phận cán bộ, Đảng viên hiện nay là nạn quan liêu, tham nhũng,
hối lộ, lãng phí của công, ăn chơi xa đọa, chạy theo lối sống thực dụng
đang diễn ra phổ biến. Như Đảng đã nhận định, tham nhũng, lãng phí là
“’giặc nội xâm” trái với bản chất của Đảng, làm giảm niềm tin của Đảng
trong nhân dân. Vì vậy, trách nhiệm của người cán bộ, Đảng viên phải
nêu cao đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” kiên
quyết đấu tranh lối sống chủ nghĩa cá nhân, quyets sạch tệ tham nhũng,
làm cho Đảng thật sự trong sạch.
3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
“Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì có tài mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân”. Người nhấn mạnh: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là
do cán bộ cs thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”.
Theo Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi
xuống mà do con người đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát
triển củng cố một cách thường xuyên, cũng như “ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy, việc rền luyện dạo đức phải
thực sự tự giác và rèn luyện suốt đời ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh
cụ thể không được nhụt chí, không chút lơi là cho dù có bất cứ hoàn cảnh
nào chi phối. Hồ Chí Minh cho rằng “ tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá
nhân ví như lúa với cỏ dại, lúa phải chăm bón rất khó nhọc mới tốt được
- còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải
rèn luyện gian khổ mới có được, còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ
dại sinh sôi nảy nở rất dễ”. Vì thế phải luôn luôn rèn luyện tư tưởng là
rèn luyenj đạo đức; phải luôn tự phê bình và tiếp nhận những ý kiến phê
bình đúng đắn của quần chúng nhân dân, của người tiến bộ chung quanh
để “làm cho phần tốt trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu mất đi”.
Có thể khẳng định, tư tưởng đạo đức và tấm gương rèn luyện đạo
đức cách mạng của Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng kim chỉ
nam cho mọi hành động đối với mọi người Việt Nam, nhất là đội ngũ
cán bộ, Đảng viên. Trong sự nghiệp
II. Vận dụng tư tưởng vào xây dựng đạo đức, lối sống của sinh
viên hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Gần 40 năm đã qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản "Di chúc"
căn dặn toàn Đảng, toàn dân và thế hệ trẻ những điều hệ trọng, những
việc cần phải làm vì sự nghiệp cách mạng. Những lời dặn của Người
trong đó có tư tưởng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vẫn giữ
nguyên giá trị to lớn, có ý nghĩa sâu sắc.
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. Đó không chỉ là lực lượng trực
tiếp gánh vác và giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn là đội ngũ
kế cận, nguồn bổ sung có đủ năng lực để kế thừa và tiếp tục phát triển sự
nghiệp của những thế hệ đi trước. Trong 'Di chúc', Người nhắc nhở toàn
Đảng, toàn dân phải luôn ghi nhớ rằng, 'Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết'(1). Luận điểm đó chứa
đựng thế giới quan khoa học của một lãnh tụ cách mạng, phản ánh tầm
nhìn xa trông rộng của một nhà hiền triết, một nhà văn hóa lớn; nó đã trở
thành một chân lý của cách mạng.
1 - Vì sao phải chăm lo xây dựng, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau?
Sự nghiệp đấu tranh cách mạng nhằm biến xã hội cũ xấu xa, bất công và
phi nhân tính thành một xã hội mới, tốt đẹp và công bằng cho tất cả mọi
- người là một quá trình đầy cam go, thử thách. Trong 'Nhà nước và cách
mạng', khi đề cập đến tính chất phức tạp của những nhiệm vụ cách mạng,
chẳng hạn như vấn đề chính quyền, V.I.Lênin từng nói rằng, đấu tranh
giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền cách mạng còn
khó hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, có độc lập, tự do mà
nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì độc lập, tự do cũng chẳng có ý nghĩa
gì; nhân dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc
ấm... Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân tất thảy những
quyền con người hết sức tự nhiên và chân chính ấy. Nhưng, chủ nghĩa xã
hội không phải muốn là tức khắc có ngay, mà chỉ có thể là kết quả của
cuộc đấu tranh rất bền bỉ của con người.
Nhắc lại những điều đó để thấy, sự nghiệp cách mạng là một quá trình
lâu dài, bao gồm nhiều nhiệm vụ, nhiều giai đoạn khác nhau và do vậy,
đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến quên mình của nhiều thế hệ cách mạng.
Thực vậy, trong tiến trình ấy, những lớp người hiện tại đã trực tiếp giải
quyết thành công nhiều nhiệm vụ, nhưng cũng có không ít công việc còn
dang dở; hơn nữa, thực tiễn cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề mới đòi
hỏi phải tiếp tục giải quyết. Theo đó, nếu thiếu lực lượng kế cận xứng
đáng thì chẳng những sự nghiệp cách mạng sẽ gặp khó khăn, mà ngay cả
những gì đã có cũng khó được gìn giữ, bảo tồn.
Tư tưởng về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể hiện sự vĩ đại,
sâu sắc trong tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với tư tưởng này,
Người không chỉ thấy hiện tại mà còn thấy cả tương lai; không chỉ dành
tâm huyết trước mắt cho sự nghiệp cách mạng mà còn chăm lo vun trồng
cái gốc của sự nghiệp đó để nó trở nên vững bền. ở đây, quan điểm biện
chứng duy vật về sự phát triển mà Người tiếp thu từ chủ nghĩa Mác -
Lênin được vận dụng một cách sáng tạo: tương lai đang ở ngay trong
hiện tại.
Đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh viết: 'Một năm khởi
đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của
xã hội'(2). Đầy nhiệt huyết, có sức sống tràn trề và năng lực sáng tạo...,
đó là thế mạnh, là vốn quý của tuổi trẻ. Với tư cách là đội ngũ dự bị, lực
lượng kế cận hùng hậu của cách mạng và là những người chủ tương lai
của nước nhà, các thế hệ trẻ - trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế
tục sự nghiệp cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà lớp
người đi trước đã chuyển giao vào tay mình. Coi vận mệnh của nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên, Hồ Chí
- Minh khẳng định, thanh niên phải trở thành một lực lượng to lớn, vững
chắc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải 'là người tiếp sức
cách mạng cho thế hệ thanh niên già,... là người xung phong trong công
cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội'(3).
Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh có lòng tin mãnh liệt vào sức mạnh vô địch cũng như
năng lực sáng tạo phi thường của quần chúng nhân dân, trong đó có thế
hệ trẻ. Thế hệ trẻ nói chung và trẻ em nói riêng luôn ở trong trái tim và
tâm trí của Người. Lúc nào Người cũng dành muôn vàn tình thương yêu
cho các thế hệ trẻ. Hơn thế nữa, Người còn gửi gắm niềm tin khi đặt trọn
tương lai của cách mạng, của dân tộc vào họ. Nhân ngày khai trường của
năm học đầu tiên dưới chế độ mới, Người đã gửi thư khích lệ và động
viên học sinh cả nước: 'ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ
mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước
khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong
chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở
công học tập của các em'(4).
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định, như một lô-gíc tất yếu, việc
'bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau' là nhiệm vụ rất quan trọng và
rất cần thiết.
2 - Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau như thế nào?
Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình, kết hợp với lý luận
cách mạng, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ rằng, một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Do vậy, ngay từ những ngày đầu mới
thành lập chính quyền cách mạng, Người đã coi việc xóa mù chữ, tiêu
diệt giặc dốt và nâng cao dân trí là nhiệm vụ thứ hai trong số sáu nhiệm
vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ. Đặc biệt, Người đã đưa ra một
quan điểm vừa mang tính chiến lược, vừa mang giá trị nhân văn sâu sắc
mà đến nay, đã trở thành phương châm hành động của toàn xã hội nói
chung, của ngành giáo dục Việt Nam nói riêng: 'Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người'(5). Bởi vậy, dù
bận trăm công nghìn việc, Người vẫn thường xuyên quan tâm và chăm lo
sự nghiệp giáo dục của nước nhà, coi giáo dục xã hội chủ nghĩa là
- phương thức quan trọng nhất của sự nghiệp 'trồng người', là một mắt
xích không thể thiếu trong chiến lược bồi dưỡng thế hệ trẻ. Nói cách
khác, trọng trách to lớn của ngành giáo dục là đào tạo những người kế
tục sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, theo Người, dù khó khăn đến đâu cũng
phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt; các ngành, các cấp Đảng và chính
quyền địa phương phải quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm
sóc nhà trường về mọi mặt, nhằm đẩy sự nghiệp giáo dục của nước ta lên
những bước phát triển mới. Có thể nói, 'trồng người' là một tư tưởng có ý
nghĩa to lớn, bởi đó là kế lâu bền để phát triển đất nước. Ngày nay, khi
con người được coi là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta càng cảm nhận thấy chiều
sâu trong tư tưởng đó của Người.
Đối với sinh viên và học sinh, để xứng đáng là thế hệ cách mạng của đời
sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi họ phải ra sức học tập: học tập trong
nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội; học tập qua sách vở và từ
chính thực tiễn cuộc sống. Học không phải để 'làm quan' như trong xã
hội cũ, mà là 'Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân
giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước
nhà'(6).
Một trong những triết lý sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học phải đi
đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn. Vì vậy, bên cạnh quan điểm
xác định giáo dục, học tập như một phương thức chủ yếu để bồi dưỡng
thế hệ trẻ, Người còn đòi hỏi thế hệ trẻ phải luôn tự rèn luyện, tu dưỡng
trong thực tiễn nhằm xây dựng, phát triển các phẩm chất, năng lực cần
thiết để sau này có thể cống hiến được nhiều nhất cho quê hương, cộng
đồng và xã hội. Theo Người, việc tự rèn luyện, tu dưỡng đó cần tuân
theo nguyên tắc nhất quán: điều gì phải thì cố làm cho kỳ được; điều gì
trái thì hết sức tránh, dù nó là nhỏ.
Cách đây 60 năm (năm 1947), trong 'Thư gửi thanh niên', Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà...
Thanh niên muốn làm chủ tương lai một cách xứng đáng thì ngay từ bây
giờ phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích cực
làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Việc giáo dục thanh niên không thể
tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội,
nhằm giúp họ tránh những cái độc hại, tiêu cực và tiếp thu, học hỏi
những cái hay, tiến bộ trong cuộc sống. Thanh niên phải có tinh thần sẵn
sàng: 'đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm';
- phải đoàn kết chặt chẽ, kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học
tập và lao động sản xuất, góp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
3 - Để thanh niên học sinh, sinh viên xứng đáng là thế hệ cách mạng của
đời sau, họ cần được bồi dưỡng những gì?
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Muốn làm
tròn trọng trách người chủ tương lai của đất nước, thế hệ trẻ phải được
giáo dục, bồi dưỡng một cách thường xuyên và toàn diện. Có như vậy,
họ mới hội đủ các phẩm chất, năng lực cần thiết, cả về trí tuệ lẫn bản lĩnh
chính trị, cả về nhân cách, đạo đức lẫn sức khỏe, để đáp ứng những yêu
cầu của công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo
đó, việc bồi dưỡng thế hệ trẻ phải tập trung vào những nội dung cơ bản
sau:
Một là, bồi dưỡng đạo đức cách mạng: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, nội dung quan trọng hàng đầu là xây
dựng đạo đức cách mạng, giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa và gột rửa
chủ nghĩa cá nhân. Không phải ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo
đức của người cách mạng là nội dung trước tiên của cuốn sách 'Đường
kách mệnh'. Tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng chứa đựng nhân
sinh quan và giá trị quan hết sức sâu sắc đối với việc xác lập nhân cách,
lý tưởng cũng như chuẩn mực lối sống cho thế hệ trẻ. Đạo đức cách
mạng là đạo đức mới, là phẩm chất không thể thiếu và là cái gốc của con
người xã hội chủ nghĩa. Bởi, 'Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân'(7).
Hai là, bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật: Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì,
người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà
không có đức sẽ trở nên vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong
những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển: 'Dốt thì dại, dại thì
hèn'(8). Vì vậy, để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài,
bên cạnh việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh niên còn phải hăng hái
học tập, trong đó có học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên
- cứu, học tập lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm trang bị và nâng
cao trình độ lý luận cách mạng - ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động
thực tiễn.
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực
học tập văn hóa, khoa học - kỹ thuật...; sử dụng những tri thức đó để xây
dựng xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ này quan
trọng hơn bao giờ hết, bởi chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu. Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp
với từng cấp học, Người viết: 'Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học
với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước
bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công
cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những
tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ
xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống
thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công'(9). Có như vậy,
thế hệ trẻ mới có thể tích lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền đề
phát huy năng lực sáng tạo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc.
Ba là, bồi dưỡng thể chất: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra
rằng, tương lai của loài người hoàn toàn tùy thuộc vào việc giáo dục thế
hệ trẻ phát triển toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
sự phát triển toàn diện của thanh, thiếu niên và nhi đồng Việt Nam, trong
đó có sự phát triển về mặt thể chất. Theo Người, việc giữ gìn dân chủ,
xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới... tất thảy đều phải có sức
khỏe thì mới thành công. Bởi vì, 'Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả
nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh
khỏe'(10). Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương sáng về rèn
luyện thể dục, thể thao; đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người, dù gái hay
trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn luyện thân thể, coi 'luyện tập
thể dục, bồi bổ sức khỏe' vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận của mỗi
người dân yêu nước. Đặc biệt, đối với thanh niên, Người mong muốn họ
phải có sức sống dẻo dai, thể chất cường tráng, tinh thần mạnh mẽ và
nghị lực lớn. Để có được như vậy, không có cách nào khác ngoài việc
hăng hái, tích cực rèn luyện thể dục, thể thao.
Thấm nhuần và thực hiện những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc nói trên của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều thế hệ cách mạng đã nhanh chóng trưởng
- thành, đóng góp công lao to lớn vào sự phát triển của dân tộc. Họ đã
chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu
nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã
hội; đã và đang tích cực 'xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng
hơn', như mong ước cháy bỏng của Người trước khi từ biệt thế giới này.
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thế hệ trẻ Việt Nam luôn kiên định
lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công
vun trồng. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh
thần dám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và
rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa
học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh
niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh
niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã
hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những thanh niên, sinh
viên và học sinh tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ
Việt Nam ngày nay vẫn xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ
vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung
là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí
tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào
tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa 'hồng'
vừa 'chuyên''(11).
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền
kinh tế thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do
không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh, thiếu
niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai
nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng
đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu
lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp
luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của
chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh,
tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng,
các thế lực thù địch đang 'chờ đợi' và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những
hiện tượng đó để tiến hành chiến lược 'diễn biến hòa bình' hòng chống
- phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hơn
bao giờ hết, toàn Đảng và toàn dân ta càng phải chăm lo giáo dục, bồi
dưỡng thế hệ trẻ; coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, bởi nó
liên quan trực tiếp đến tương lai của đất nước. Đó cũng là một biểu hiện,
một nội dung quan trọng của chiến lược 'lấy dân làm gốc'. Có thể khẳng
định, cùng với những biện pháp tích cực và đồng bộ khác, cuộc vận động
'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh' mà Đảng ta vừa
phát động chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu
vươn lên.
nguon tai.lieu . vn