Xem mẫu

  1. MỤC LỤC                                                                                                  Trang MỞ ĐẦU 2 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ  LUẬN   VÀ   THỰC  TRẠNG   CỦA   MỐI  ĐE   DỌA   AN   NINH  PHI   TRUYỀN  THỐNG   Ở   VIỆT  NAM 5 1.1. Một số vấn đề lý luận  về mối đe dọa an ninh  phi truyền thống và tác  động của nó đến độc  lập dân tộc 5 1.2. Thực trạng mối đe dọa  an   ninh   phi   truyền  thống   ở   Việt   Nam   từ  năm 2015 đến nay  11 Chương 2 QUAN     ĐIỂM,     NỘI  DUNG,   HÌNH   THỨC,  BIỆN PHÁP   BẢO  VỆ  ĐỘC  LẬP  DÂN  TỘC  TRƯỚC MỐI ĐE DỌA  AN   NINH   PHI  TRUYỀN THỐNG  TỪ  NĂM 2015 ĐẾN NAY 16 1
  2. 2.1. Quan   điểm   của   Việt  Nam   về   độc   lập   dân  tộc   trước   các   mối   đe  dọa an ninh phi truyền  16 thống 2.2. Nội   dung,   hình   thức,  biện pháp bảo vệ  độc  lập   dân   tộc   trước   các  mối đe dọa an ninh phi  truyền thống 20 KẾT LUẬN 26 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của tiểu luận Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế  giới có nhiều thay đổi, xu thế  hòa bình   hợp tác phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc   tế, nền độc lập dân tộc của các quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức   mới từ mối đe dọa “an ninh phi truyền thống”. Tính chất nguy hiểm của mối đe dọa   an ninh phi truyền thống không chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó   đối với cuộc sống của con người, mà còn đối với sự ổn định xã hội, đối với độc lập  2
  3. dân tộc của các quốc gia, sự  an nguy của chế  độ  chính trị, sự  tồn vong của cộng   đồng nhân loại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Các thảm họa thiên tai, động  đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu,  nước biển dâng… ngày càng thách đố các thành tựu của khoa học, kỹ thuật hiện đại  và sự nỗ lực cố gắng của con người. Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm   công nghệ  cao, những vấn đề  tài chính, năng lượng, lương thực…ngày càng thử  thách nghiệt ngã năng lực điều hành của các chính phủ. Đối với Việt Nam, mối đe doạ  an ninh phi truyền thống ngày càng trở  nên   nghiêm trọng. Mối đe doạ  an ninh phi truyền thống đã và đang thách thức nền độc  lập dân tộc của đất nước, đặc biệt là tính độc lập tự chủ và sự vững chắc của nền  kinh tế, sự ổn định chính trị ­ xã hội, độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh đất nước   và cuộc sống của nhân dân. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều chủ  trương, biện pháp không chỉ  để  đối phó với mối đe doạ  an ninh phi truyền thống,   mà còn để bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền quốc gia, thể  chế chính trị, nền kinh tế đất nước trước các mối đe dọa đó.  Từ  những lý do nêu trên, tác giả  chọn tiểu luận  “An ninh phi truyền thống   và tác động của nó tới độc lập dân tộc ở Việt Nam hiện nay”  để viết tiểu luận  môn giáo dục quốc phòng an ninh. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu  2.1. Đối tượng nghiên cứu  Tiểu luận nghiên cứu quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước   mối đe dọa an ninh phi truyền thống.  2.2. Phạm vi nghiên cứu  ­ Về  nội dung: Tiểu luận tập trung nghiên cứu những chủ  trương, nội dung,   3
  4. biện pháp của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong bảo vệ độc lập dân tộc trước mối   đe dọa an ninh phi truyền thống.  ­ Về  không gian: Nghiên cứu quá trình bảo vệ  độc lập dân tộc  ở  Việt Nam   trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bao gồm: biến đổi khí hậu; an ninh  kinh tế, tài chính; an ninh năng lượng; an ninh lương thực; tội phạm công nghệ cao;   tội phạm xuyên quốc gia.  ­ Về  thời gian: Nghiên cứu quá trình bảo vệ  độc lập dân tộc của Việt Nam  trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2015 đến nay.  3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu  3.1. Cơ sở lý luận  Tiểu luận nghiên cứu vấn đề bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước các  mối đe dọa an ninh phi truyền thống dựa trên quan điểm của Chủ  nghĩa Mác ­  Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về độc   lập dân tộc, bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc…  3.2. Phương pháp nghiên cứu  Sử  dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và kết hợp chặt chẽ  hai   phương pháp lịch sử, logic là chủ yếu; đồng thời sử dụng một số phương pháp khác   như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, .... để nghiên cứu. 4. Ý nghĩa của tiểu luận  ­ Tiểu luận làm rõ quan niệm về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và luận   giải tác động của nó đến độc lập dân tộc. ­ Phân tích thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam. ­ Làm rõ quan niệm, nội dung, hình thức, biện pháp, trong bảo vệ độc lập dân  4
  5. tộc trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2015 đến nay.  5. Kết cấu của tiểu luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu  luận gồm 2 chương, 4 tiết.  Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM 1.1. Một số  vấn đề  lý luận về  mối đe dọa an ninh phi truyền thống và  tác động của nó đến độc lập dân tộc 5
  6. 1.1.1. Khái niệm về mối đe dọa an ninh phi truyền thống  An ninh, hiểu theo nghĩa chung nhất của ngôn ngữ chính trị quốc tế, “An ninh”  là khái niệm dùng để chỉ “Trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm  đe   dọa   sự   tồn   tại   và   phát   triển   bình   thường   của   cá   nhân,   của   từng   tổ   chức,   của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội”. Mặt khác, nội hàm của  khái niệm an ninh không chỉ  giới hạn  ở  tình trạng như  đã nêu, mà còn bao hàm cả  những biện pháp để mang lại tình trạng đó, tức là hành động để thực hiện an ninh.   Cách hiểu về khái niệm an ninh như vậy phản ánh nhu cầu và quan niệm chung của  cộng đồng quốc tế  đồng thời nó bao hàm đầy đủ  nội hàm của khái niệm an ninh   trong giai đoạn hiện nay. An ninh truyền thống: lấy Nhà nước làm đơn vị (quốc gia) và chủ yếu đề cập   những quan hệ  chính trị, tương quan sức mạnh quân sự  giữa các quốc gia. Các lợi  ích đều phải đặt dưới lợi ích quốc gia. An ninh truyền thống là để bảo vệ toàn vẹn   lãnh thổ, chủ quyền, thể chế và giá trị của đất nước, trong đó cốt lõi là bảo vệ đất  nước trước các mối đe dọa từ bên ngoài bằng tấn công quân sự. Do đó, quốc gia là  chủ thể duy nhất đảm bảo sự sống còn của mình thông qua việc tăng cường quyền   lực quốc gia bằng sức mạnh quân sự và khả năng phòng thủ.  An ninh phi truyền thống: Là một quan niệm mới về  một trạng thái an ninh   khác với an ninh truyền thống, nó phản ánh sự thay đổi nhận thức của con người về  an ninh và sự  mở  rộng nội hàm khái niệm an ninh quốc gia. Nếu an ninh truyền   thống coi an ninh quốc gia là bảo vệ đất nước các mối đe dọa hoặc tấn công bằng  chính trị, quân sự  từ  bên ngoài và bên trong thì an ninh phi truyền thống không chỉ  bảo vệ chủ quyền quốc gia mà còn bảo vệ con người, bảo vệ cộng đồng, nó mang   tính xuyên quốc gia do những mối uy hiếp, đe dọa của các nhân tố bên trong và bên  ngoài đối với môi trường sinh tồn và phát triển của cộng đồng xã hội và công dân   6
  7. của mỗi quốc gia trong mối quan hệ chặt chẽ với khu vực và thế giới. Sự xuất hiện an ninh phi truyền thống không làm phai nhạt và biệt lập với an   ninh truyền thống vì hai vấn đề  này luôn đan xen nhau và có thể  chuyền hóa lẫn  nhau trong điều kiện nhất định. Trong thế giới hiện đại, an ninh của mỗi quốc gia   vừa bao hàm an ninh chính trị, quân sự  truyền thống và đang đối mặt với nhiều  thách   thức   phi   truyền   thống   như   kinh   tế,   văn   hóa,   xã   hội,   thông   tin,   môi   trường,   tài   nguyên,   chủ nghĩa khủng bố, v.v… Đến nay, việc nhận thức và xác định khái niệm, cũng như nội dung vấn đề an  ninh phi truyền thống vẫn chưa có sự thống nhất.  Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Các yếu tố đe dọa an ninh  phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu   như  an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu,  thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp”. “Những căng thẳng, xung đột  tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ,  khủng bố  vẫn sẽ  diễn ra gay gắt; tội phạm công nghệ  cao trong các lĩnh vực tài  chính ­ tiền tệ, điện tử ­ viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng”. ̣ ̣ ̣ ̣ ̉   Đai hôi XII đăt an ninh phi truyên thông bên canh an ninh truyên thông, chi ra ̀ ́ ̀ ́ ̣ môt sô vân đê toan câu nh ́ ́ ̀ ̀ ̀ ư  an ninh tai chinh, an ninh năng l ̀ ́ ượng, an ninh nguôn ̀  nươc, an ninh l ́ ương thực, biên đôi khi hâu, thiên tai, dich bênh, an ninh mang, xung ́ ̉ ́ ̣ ̣ ̣ ̣   ̣ ́ ̣ ́ ̉ đôt săc tôc, tôn giao, khung bô. Đông th ́ ̀ ơi co l ̀ ́ ưu y đên “cac hinh thai chiên tranh kiêu ́ ́ ́ ̀ ́ ́ ̉   mơi” v ́ ơi ham y kha năng chuyên hoa gi ́ ̀ ́ ̉ ̉ ́ ưa an ninh phi truyên thông va an ninh truyên ̃ ̀ ́ ̀ ̀  thông ́ .  ̉ ̣ ̣ Trong cuôn “Tim hiêu môt sô thuât ng ́ ̀ ́ ữ trong Văn kiên Đai hôi đai biêu toan ̣ ̣ ̣ ̣ ̉ ̀  ́ ̀ ứ XII cua Đang” do Phung H quôc lân th ̉ ̉ ̀ ưu Phu, Nguyên Văn Đăng, Nguyên Viêt ̃ ́ ̃ ̣ ̃ ́  7
  8. ̉ ̣ ́ ̉ ̉ ̀ ̣  Thông lam đông chu biên đinh nghia: “An ninh phi truyên thông co thê hiêu la môt ̀ ̀ ̃ ̀ ́ ̣ ̀ loai hinh an ninh xuyên quôc gia do nh ́ ưng yêu tô phi chinh tri va phi quân s ̃ ́ ́ ́ ̣ ̀ ự gây ra,   ́ ̉ co anh hưởng trực tiêp đên s ́ ́ ự  ôn đinh, phat triên va an ninh cua m ̉ ̣ ́ ̉ ̀ ̉ ỗi nươc, ca khu ́ ̉   vực va toan câu. Nôi dung cua an ninh phi truyên thông la nh ̀ ̀ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ ̀ ững vân đê b ́ ̀ ức thiêt́  ̉ ̣ đang nôi lên hiên nay như: can kiêt tai nguyên, bung nô dân sô, môi tr ̣ ̣ ̀ ̀ ̉ ́ ương sinh thai ̀ ́  ̣ ̣ ̣ ́ ̣ ̀ ́ ̣ ̣ ̣ ̣ ửa tiên,… An ninh can kiêt, xung đôt tôn giao, dân tôc, ngheo đoi, bênh tât, tôi pham r ̀   ̀ ́ ̀ ̀ ́ ̉ ̣ ̣ phi truyên thông ngay cang co biêu hiên sâu đâm trong đời sông quôc tê va thanh vân ́ ́ ́ ̀ ̀ ́  ̀ ̀ ̀ ̀ ̀ ́ ̀ ̀ ̀ ̀ ́ ̉ đê toan câu, an ninh toan câu. Qua trinh toan câu hóa cang phat triên thi theo đo, an ̀ ́   ̣ ninh phi truyên thông cang lan rông h ̀ ́ ̀ ơn va đâm net h ̀ ̣ ́ ơn”.   Các   quan   niệm   nêu   trên   dù   không   hoàn   toàn   giống   nhau,   nhưng   đã   xác   định được các vấn đề  cơ  bản về  an ninh phi truyền thống. Kế  thừa những quan   niệm nêu trên, với cách tiếp cận tổng hợp và bám sát vào sự phát triển của vấn đề,  luận   án   đưa ra khái niệm: An ninh phi truyền thống là khái niệm nhằm phân biệt với an ninh   truyền thống, dùng để  chỉ  các mối đe dọa phi truyền thống đối với an ninh quốc   gia, cuộc sống con người và cộng đồng nhân loại không xuất phát trực tiếp từ yếu   tố quân sự, nảy sinh từ các yếu tố tự nhiên và xã hội, diễn ra và tác động trên nhiều   lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thông tin, môi trường...,   mang tính tổng hợp, xuyên quốc gia và có tính nguy hiểm cao đe dọa tới độc lập dân   tộc, chủ quyền quốc gia.  Đối với Việt Nam, căn cứ  vào quan điểm của Đảng và Nhà nước; xuất phát  từ  thực tiễn vấn đề  an ninh phi truyền thống cùng các mối đe dọa của nó từ  năm  2015 đến nay, tiểu luận tập trung vào các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đối   với độc lập dân tộc của Việt Nam trên sáu nội dung chính: Biến đổi khí hậu; an   ninh kinh tế, tài chính; an ninh năng lượng; an ninh lương thực; tội phạm công nghệ  cao; tội phạm xuyên quốc gia được trình bày ở chương 2. 8
  9. 1.2.1. Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân  tộ c Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân tộc là  sự tác động tổng hợp, toàn diện đến toàn bộ nội dung cấu thành độc lập dân tộc. Ở  đây, luận án tập trung nghiên cứu tác động trên những vấn đề chính sau:  Một là, tác động đến độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia  Đây là một hướng tác động sâu sắc, gây nhiều  ảnh hưởng đối với độc lập   dân tộc của đất nước. Một loạt các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như khủng   bố, tội phạm công nghệ  cao, tội phạm xuyên quốc gia, rửa tiền, di dân trái phép,  buôn bán người, dịch bệnh, an ninh lương thực, các vấn đề  môi trường, sinh thái,  thảm họa thiên nhiên... đe dọa trực tiếp đến độc lập, chủ  quyền và an ninh quốc  gia. Trên thực tế, vấn đề  khủng bố  không chỉ  gây hậu quả  trực tiếp đến an ninh  quốc gia, mà việc giải quyết nó, việc chống khủng bố nhiều khi lại là “cái cớ” cho   sự  can thiệp của các thế  lực bên ngoài vào công việc nội bộ, kể  cả  sự  can thiệp   bằng vũ lực.  Độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện đó bị uy hiếp nghiêm  trọng, thậm chí bị  xâm phạm. Các nước, đặc biệt là các nước nhỏ  có thể  bị  “cuốn  theo” một cách tự phát vào vòng xoáy của chống khủng bố, dễ dẫn đến bị lệ thuộc   và phụ thuộc vào các nước lớn trong các quan hệ quốc tế. Thậm chí cả những việc   cộng đồng quốc tế “góp sức” vào giải quyết các vấn đề dịch bệnh, khắc phục thảm  họa thiên nhiên  ở  một nước nào đó, khu vực nào đó, cũng là “điều kiện” để  các  nước lớn can thiệp sâu vào đời sống chính trị ­kinh tế ­ xã hội đất nước. Hai là, tác động đến thể chế chính trị đất nước và con đường phát triển của dân   tộc.  Sự tác động và uy hiếp của mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến thể chế  9
  10. chính trị đất nước và con đường phát triển của dân tộc thể hiện trên những vấn đề  chính là: thứ nhất, nó buộc nước phải có sự “điều chỉnh” về thể chế chính trị, điều  chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng mang tính “quốc tế” hơn ; thứ hai, nó đặt ra và  “yêu cầu” các nước phải xem xét lại mô hình, thậm chí con đường phát triển của   dân tộc mình; thứ ba, nó “đòi hỏi” phải du nhập những khuôn khổ, mô hình của bên   ngoài, trên thực tế  là từ  các nước phương Tây, Mỹ. Chủ  nghĩa khủng bố  tác động   mạnh mẽ  đến tâm lý của người bị  hại, tạo nên tâm lý hoảng sợ  của con người,   khiến cho người ta có thể phải từ bỏ sự ủng hộ đối với chính phủ. Trong điều kiện toàn cầu hóa, trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống   các vấn đề tác động trên càng trở  nên rõ ràng và cụ  thể, thường gắn với sự  chống   phá của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình”, đặc biệt đối với các nước  như  Việt Nam. Những “yêu cầu”, “khuyến nghị” đối với Việt Nam rằng, cần phải   từ  bỏ  sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải thực hiện “đa nguyên, đa  đảng”; xây dựng nhà nước pháp quyền theo kiểu phương Tây; thực hiện “xã hội   dân sự”; cần phải đi theo con đường và mô hình dân chủ  tư  sản... trong thời gian   gần đây, đã cho thấy sự tác động, đặc biệt là sự lợi dụng những tác động từ các mối  đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập dân tộc là rất to lớn.  Ba là, tác động đến nền kinh tế độc lập tự chủ của quốc gia.  Trước tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, tính độc lập tự  chủ  của nền kinh tế  đất nước bị  uy hiếp, dễ  rơi vào phụ  thuộc, lệ  thuộc vào bên  ngoài. Tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đến độc lập tự  chủ  của kinh tế là tác động trực tiếp trên các vấn đề: lợi ích kinh tế; chủ quyền kinh tế;   định hướng phát triển kinh tế; thể chế kinh tế; sự ổn định kinh tế, đặc biệt là về tài   chính, tiền tệ  và quan hệ  hợp tác kinh tế  thương mại quốc tế  của quốc gia. Nền   kinh tế đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ lợi ích kinh tế  quốc gia bị đe doạ;   phương hướng phát triển nền kinh tế có thể bị xáo trộn.  10
  11. Khủng hoảng tài chính tiền tệ còn làm nảy sinh những nguy hại xã hội rất to  lớn, với những hậu quả  khó lường, khiến cho các quốc gia đang phát triển có thể  trở  thành kiệt quệ và dẫn đến mất  ổn định xã hội cục bộ, hoặc xung đột giữa các   dân tộc, tôn giáo và đoàn thể  xã hội khác nhau. Chính điều này lại tác động mạnh  mẽ và đe dọa trực tiếp, dù là khách quan hay chủ quan, đến sự  ổn định và tính độc  lập tự chủ và cả thể chế của nền kinh tế đất nước. Thông qua các khoản viện trợ  kinh tế, cho vay  ưu đãi, hiệp định thương mại và các quan hệ kinh tế khác để  tăng  cường gây sức ép về  chính trị, can thiệp nội bộ, từng bước chuyển hoá theo quỹ  đạo tư bản chủ nghĩa. Chúng còn dùng sức mạnh kinh tế thông qua hợp tác để thực  hiện   ý   đồ   chuyển   hoá   chế   độ chính trị; thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Đầu vào kinh tế, đầu ra chính trị”. Bốn là, tác động đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường, sinh thái.  Tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái là những nhân tố dễ bị tác động   bởi sự tác động từ  các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có nguồn gốc từ  chính  con  người.  Vấn  đề   môi   trường,  cạn  kiệt  nguồn  tài  nguyên,  khan   hiếm  nguồn   nước sạch, vấn đề  biến đổi khí hậu, nước biển dâng… đôi khi lại đe dọa nhiều  hơn đối với cuộc sống của người dân ở những quốc gia không phải là “thủ  phạm”   gây   ra   những   biến   đổi,   cạn   kiệt   đó.   Sự   khai   thác   thiếu   kiểm   soát,   tình   trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, “hiệu  ứng nhà kính”, khí hậu nóng lên, tầng  ôzon bị  phá hoại và tổn hao, tính đa dạng sinh vật giảm, đất hoang mạc hoá, tình  trạng nước biển dâng, bão, lụt, sóng thần không những chỉ là xuất phát từ tự nhiên,   bởi tự  nhiên, mà chúng còn nói lên rất rõ sự  trừng phạt của tự  nhiên đối với con   người, đối với những hành động ứng xử thiếu văn hóa và thiếu trách nhiệm của con  người đối với chính tự nhiên.  Năm là, tác động đến việc giữ  gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.   Giữ  gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nội dung, một yêu cầu   11
  12. đặc biệt quan trọng của việc giữ gìn và củng cố  độc lập dân tộc của các quốc gia   trong thời đại ngày nay. Sự lợi dụng của các thế lực bên ngoài đối với vấn đề  dân  tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền trong quá trình hợp tác quốc tế ứng phó với các   mối đe dọa an ninh phi truyền thống, đã đe dọa nhiều giá trị dân tộc và bản sắc văn  hóa dân tộc. Sự  hình thành, phát triển của mọi nền văn hoá cũng đều là sự  thống   nhất của tính riêng và tính chung trong nền văn hoá đó. Tính dân tộc không chỉ là đặc  trưng cơ bản của một nền văn hoá, mà nó còn là nội hàm cốt lõi của sức sống của   nền văn hoá ấy. Giữ gìn tính dân tộc của văn hoá là điều kiện cơ bản của phát triển   văn hoá dân tộc, đồng thời nó cũng là động lực nội tại của sự sinh tồn và phát triển   dân tộc. 1.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống  ở  Việt Nam từ  năm 2015 đến nay 1.2.1. Biến đổi khí hậu  Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị  ảnh hưởng nặng nề  nhất của biển đổi khí hậu, trong đó đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng   bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất. Biến đổi khí hậu hiện hữu ở Việt Nam có  nguy cơ tác động ngày càng lớn hơn. Biểu hiện của biến đổi khí hậu  ở  Việt Nam tương đối rõ nét trong vòng   50 năm qua, đặc biệt trong 15 năm gần đây. Nhiệt độ  trung bình hàng năm tăng 0,5  độ C; mực nước biển dâng cao hơn 0,2 m; thiên tai, bão, lũ gia tăng cường độ và tính   cực đoan. Do biến đổi khí hậu, nhiều công trình chắn sóng, chắn cát, đê sông, đê  biển dễ bị phá vỡ trước lũ lụt, thiên tai.Các hệ sinh thái tự nhiên cũng bị ảnh hưởng  nghiêm trọng, nhất là miền Trung, nam Trung bộ  và đồng bằng sông Cửu Long.  Ngập triều tăng mạnh  ở  Cần Thơ, Thành phố  Hồ  Chí Minh, tỉnh Cà Mau và tỉnh   Vĩnh   Long.   Diện   tích   đất bị  hoang mạc hóa ngày càng mở  rộng, thậm chí có thể  bị  sa mạc hóa. Riêng ở  12
  13. đồng bằng sông Cửu Long, dự báo vào năm 2030, nếu không có giải pháp ứng phó  quyết liệt thì khoảng 45% diện tích của khu vực này sẽ  bị  nhiễm mặn cục bộ. Từ  đầu thế kỷ XXI đến nay, dưới tác động của biến đổi khí hậu, tần suất và cường độ  thiên tai đối với Việt Nam ngày càng tăng, gây tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ  sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường, sinh thái. Từ năm   2015 đến nay,  ở  Việt Nam các loại thiên tai như: bão, lũ, lũ quét, sạt lở  đất, úng  ngập,   hạn   hán,   xâm   nhập   mặn   và   các thiên tai khác đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản, làm chết và mất tích  hơn 10.711 người, thiệt hại về tài sản khoảng 1,5% GDP/năm. 1.2.2. Vấn đề kinh tế, tài chính Hiện nay, Việt Nam đang nằm trong danh sách cảnh báo về  thị  trường tài   chính gặp nhiều rủi ro trong giao dịch tài chính quốc tế.  Mối đe dọa an ninh tài chính kinh tế  đối với Việt Nam bao gồm:  Một là,  từ  những yếu tố  bên ngoài tác động;  hai là,  từ  các yếu tố  đe dọa đổ  vỡ  của hệ  thống tổ chức tín dụng, ngân hàng trong nước;  ba là, từ các loại tội phạm liên quan  đến lĩnh vực tài chính tiền tệ. Do tác động của những khó khăn về  kinh tế ­ xã hội   và ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài, tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, tiền  tệ  diễn biến phức tạp với tính chất và mức độ  nguy hiểm hơn so với trước đây.   Tình hình tội phạm kinh tế, tham nhũng, lãng phí, nhất là trên lĩnh vực tài chính, tiền   tệ  xảy ra rất phức tạp với nhiều phương thức, thủ  đoạn tinh vi, xảo quyệt, gây  thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân. Nguyên nhân tình   trạng trên có nhiều, nhưng chủ yếu là chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ vị trí, tầm   quan trọng của công tác đảm bảo an ninh kinh tế, tài chính, còn chủ quan, mất cảnh   giác, chưa chú trọng bảo vệ bí mật nhà nước; đạo đức, lối sống của một bộ  phận  cán bộ, nhân viên bị suy thoái, thậm chí móc nối với bên ngoài để phạm tội. Vì thế, vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế, tài chính, tiền tệ và phòng, chống tội   13
  14. phạm trong lĩnh vực này là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa là nhiệm vụ cấp bách  vừa là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi quyết tâm cao, sự kiên trì, bền bỉ, sự  phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng. 1.2.3. Từ vấn đề năng lượng  Sự phát triển kinh tế “nóng” của các quốc gia châu Á đi kèm với nhu cầu về  năng lượng tăng cao. Việt Nam là một nước có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, nhưng  tiêu hao năng lượng nhiều. Điều chú ý là tiêu hao năng lượng cho một đơn vị  sản   phẩm trong nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam cao hơn so với các nước khu  vực. Cường độ  năng lượng trong công nghiệp của Việt Nam cao hơn Thái Lan và  Malaysia khoảng 1,5 ­ 1,7 lần. So với các nước phát triển, tỷ  lệ giữa nhu cầu năng  lượng so với tăng trưởng GDP của Việt Nam cao gấp gần 2 lần, trong khi  ở các   nước phát triển tỉ lệ này là dưới 1. Các đơn vị nhà nước được giao nhiệm vụ đầu tư  sản xuất cung cấp điện như EVN, PVN, cũng gặp khó khăn về hoàn vốn, đảm bảo   đủ chi phí hoạt động điện lực…  Năng lượng là huyết mạch cho phát triển kinh tế  và nâng cao đời sống nhân  dân, với bối cảnh chung toàn cầu và điều kiện cụ  thể của Việt Nam, an ninh năng   lượng ngày càng trở  nên quan trọng và cấp thiết hơn. Chính phủ  Việt Nam đã có   những cơ chế năng động và hiệu quả để năng lượng được đảm bảo cung cấp ngày  càng đầy đủ  với giá cả  hợp lý, đảm bảo đủ  năng lượng cho công cuộc đẩy mạnh   công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.  1.2.4. Vấn đề lương thực  Việt Nam là một nước nông nghiệp, với hơn 70% dân số  là nông dân, lao  động nông nghiệp chiếm hơn 76% lao động của cả  nước, đóng góp từ  25% ­ 27%   GDP của cả nước…; vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân có tầm quan trọng   đặc biệt. 14
  15. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, chính sách đất đai cùng với việc di dân  tự  do đang có diễn biến phức tạp, đặt ra những vấn đề  nổi cộm, bức xúc.  Ở  các  thành phố  lớn, các tỉnh có tốc độ  đô thị  hoá nhanh, số  hộ  nông dân không có đất   chiếm tỷ  lệ  lớn hơn so với cả  nước, như  Thành phố  Hồ  Chí Minh, Hà Nội, Hải  Phòng, Hải Dương, Đà Nẵng… Hiện trạng đất đai nhiều nơi đang bị  thoái hoá và   thu hẹp dần. Cả  dẻo đất miền Trung từ  Quảng Bình đến Bình Thuận đang bị  sa   mạc hoá. Đất  ở  đồng bằng và thành thị  đang bị  thu hẹp do quá trình công nghiệp  hoá, đô thị  hoá. Đất  ở  miền núi lại càng khan hiếm do nạn chặt phá rừng bừa bãi  làm   đất   đai   bị   suy   thoái,   môi   trường   bị  ô nhiễm, nguồn nước dần bị  cạn kiệt. Đất canh tác nông nghiệp, đất rừng tự  nhiên, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ bị thu hẹp dần diện tích do bị chuyển đổi mục   đích sử dụng đất nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ­ xã hội. Trong điều kiện đó, vấn đề  bảo đảm diện tích đất nông nghiệp; khai hoang,  phục hóa hơn 1,6 triệu ha đất chưa sử  dụng; cải tạo một bước các vùng đất bị  ô   nhiễm; không để mở rộng thêm diện tích đất bị thoái hóa, bạc màu, hoang mạc hóa  theo Đề  án của Chính phủ, sẽ  gặp nhiều khó khăn, thách thức. Việc  ổn định diện  tích đất nông nghiệp là nhân tố  quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo an ninh   lương thực quốc gia hiện nay.  1.2.5. Tội phạm công nghệ cao  Trên thế giới, tội phạm công nghệ cao thực sự là mối đe dọa đến độc lập chủ  quyền quốc gia và thể chế chính trị đất nước. Những biến động chính trị, bạo loạn,  xung đột, dẫn đến lật đổ  chế  độ   ở  một số  quốc gia Bắc Phi và Trung Đông năm  2011­ 2013, bắt nguồn từ  những lời kêu gọi được truyền đi trên các trang mạng xã   hội, và người ta đã nói đến các cụm từ: “cách mạng xã hội trên internet”, “cách   mạng từ  internet” như  là đặc điểm nổi bật của các “phong trào” biến động, bạo   loạn này, cho thấy mối đe dọa an ninh phi truyền thống của tội phạm công nghệ  15
  16. cao.  Tội phạm công nghệ  cao xuất hiện  ở  Việt Nam cùng với quá trình phát   triển công nghệ  thông tin, hệ  thống máy tính phát triển mạnh mẽ, loại tội phạm  công nghệ cao cũng có sự  phát triển. Tình hình mất an toàn thông tin số diễn biến   phức tạp, xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến việc ứng dụng công  nghệ  thông tin phục vụ  phát triển kinh tế  ­ xã hội và đảm bảo quốc phòng, an   ninh. Xu hướng tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam chuyển dần từ phá hoại sang   trục lợi một cách tinh vi. Điều chú ý là, tội phạm công nghệ  cao còn được thực hiện với ý đồ  chống   phá cách mạng Việt Nam thông qua hệ  thống truyền thông hiện đại, các mạng xã   hội; các hacker nước ngoài tiến công vào hệ  thống mạng của các cơ  quan Đảng,  Nhà nước Việt Nam. Trong Báo cáo gửi Bộ  Ngoại giao Mỹ, Jon Aloisi (cựu Phó   Đại sứ Mỹ tại Việt Nam) cho rằng: “Thành công lớn nhất là đã thực hiện việc đưa  vào Việt  Nam mạng lưới Internet.  Đó  là phương tiện hữu hiệu cho chiến dịch   truyền bá các tư tưởng phương Tây nằm trong chiến lược nhằm thay đổi chính thể  ở quốc gia này”. Hiện nay, có trên 400 trang mạng, 380 tờ bào, tạp chí, 60 đại phát  thanh tiếng Việt ngày đêm chĩa vào chống phá Việt Nam. Theo Hiệp hội An toàn   thông tin (VNISA), tình trạng tin tặc xâm nhập, cài đặt virút gián điệp vào hệ thống   mạng của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương có kết nối với mạng internet để  đánh cắp thông tin, bí mật quốc gia diễn ra khá nghiêm trọng. 1.2.6. Tội phạm xuyên quốc gia  Sau   khi   là   thành   viên   WTO   và   hội   nhập   ngày   càng   sâu   rộng,   Việt   Nam   có nhiều yếu tố, điều kiện thuận lợi bảo đảm ANQG, nhưng các cá nhân và tổ   chức tội phạm quốc tế  lợi dụng xu thế  hội nhập, hợp tác của Việt Nam tiến   hành các hoạt động tội phạm ngay trên lãnh thổ  Việt Nam hoặc lợi dụng lãnh   thổ Việt Nam làm địa bàn trung gian. Trong các loại tội phạm xuyên quốc gia ở Việt   16
  17. Nam, đáng chú ý: Tội phạm buôn bán phụ  nữ, trẻ  em ra nước ngoài, sử  dụng hộ  chiếu giả để  đưa phụ  nữ  và trẻ  em ra nước ngoài hoạt động mại dâm, bán làm vợ  người   nước   ngoài, bóc lột sức lao động... tập trung một số  nước, vùng lãnh thổ, như  Nga,   Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Campuchia, Malaixia... Tội phạm  đưa người ra nước ngoài trái phép, tội phạm ma túy, tội phạmsản xuất, buôn bán   tiền giả, hàng giả, gian lận thương mại, buôn lậu, lừa đảo kinh tế, trốn thuế xuất   nhập khẩu  ở khu kinh tế thương mại tự do, thương mại điện tử, hoạt động khủng  bố liên quan đến Việt Nam. Trong những năm tới, tình hình tội phạm có tổ chức, tội   phạm   xuyên   quốc gia ở Việt Nam sẽ diễn biến phức tạp. Tội phạm có tổ  chức xuyên quốc gia  đang là một thách thức lớn trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tiểu kết chương 1 An ninh phi truyền thống là một khái niệm mới xuất hiện và được bàn đến  khá nhiều trong thời gian gần đây, có những quan điểm, cách nhìn nhận khác nhau.  Luận án quan niệm: An ninh phi truyền thống là khái niệm nhằm phân biệt với an  ninh truyền thống, dùng để  chỉ  các mối đe dọa phi truyền thống đối với an ninh  quốc gia, cuộc sống con người và cộng đồng nhân loại, không xuất phát trực tiếp từ  yếu tố quân sự, nảy sinh từ các yếu tố  tự  nhiên và xã hội, diễn ra và tác động trên  nhiều   lĩnh  vực   của  đời   sống   kinh  tế,   chính   trị,  văn   hóa,   xã  hội,   thông   tin,  môi   trường..., mang tính tổng hợp, xuyên quốc gia và có tính nguy hiểm cao đe dọa tới   độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.  Đối phó tốt các mối đe dọa an ninh truyền thống, thì mới tạo điều kiện thuận   lợi cho việc đối phó có hiệu quả  với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, và   ngược lại. Sự khác nhau và mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa an ninh phi truyền   thống và an ninh truyền thống đòi hỏi các chủ thể phải nhận thức và xử lý tốt trong   17
  18. bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc. Chương 2 QUAN ĐIỂM, NỘI DUNG, HÌNH THỨC, BIỆN PHÁP BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC TRƯỚC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG TỪ NĂM 2015 ĐẾN NAY 2.1. Quan điểm của Việt Nam về  bảo vệ  độc lập dân tộc trước các mối đe   dọa an ninh phi truyền thống  2.1.1 Quan điểm về bảo vệ độc lập dân tộc  Bảo vệ độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Bảo   vệ   độc lập dân tộc là tổng thể  những hoạt động của các chủ  thể  nhằm “phòng ngừa,   phát   hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm”, các hoạt động phá  hoại để giữ gìn, bảo vệ độc lập dân tộc. Đó là việc huy động sức mạnh nội sinh, sức  mạnh tổng hợp của cả dân tộc, kết hợp với ngoại lực để bảo vệ độc lập, chủ quyền  quốc gia, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động  xâm phạm, phá hoại. Đó  là hành vi “tự  bảo vệ” trước sự tác động của tình  hình và mọi sự đe dọa, uy hiếp,   xâm phạm độc lập, chủ  quyền, an ninh quốc gia từ  bên ngoài. “Tự  bảo vệ” vừa là  “phương thức” vừa là “phương châm” chỉ đạo trong bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ  Tổ quốc. Bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc không có nghĩa chỉ bằng nỗ lực và  sức mạnh của bản thân mình, mà phải kết hợp tốt với sức mạnh bên ngoài, tạo nên  sức   mạnh   tổng   hợp   lớn   nhất   để   bảo   vệ, đặc biệt trong điều kiện tác động mạnh mẽ của mối đe dọa an ninh phi truyền  thống.  Hiện nay, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong hai nhiệm  vụ   18
  19. chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nhiệm vụ  trọng yếu thường xuyên của   Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Bảo vệ  Tổ  quốc là bảo vệ  toàn diện   trên tất cả  các nội dung cấu thành Tổ  quốc, cả  phương diện tự  nhiên ­ lịch sử   và cả  phương diện chính trị  ­ xã hội trong mối quan hệ  chặt chẽ  với mặt nhau,   không thể tách rời trong mục tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.  Năm 2003, Hội nghị  Ban Chấp hành Trung  ương lần thứ  tám khoá IX  của  Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình  hình mới: Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn  lãnh thổ;  hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội  chủ nghĩa; ba là, bảo vệ sự  nghiệp đổi mới, công nghiện hoá, hiện đại hoá đất nước; bốn là, bảo vệ lợi ích quốc  gia, dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá;   sáu   là, giữ vững  ổn định chính trị  và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định  hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 2006, Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định: Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ  quyền, thống nhất, toàn  vẹn lãnh  thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ  xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh  chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự,  kỷ  cương, an toàn xã hội; giữ  vững  ổn định chính trị  của đất nước, ngăn ngừa,  đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá, thù địch, không để  bị  động, bất ngờ.  Năm 2011, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã  hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: Mục tiêu, nhiệm vụ  của quốc phòng, an ninh là bảo vệ  vững chắc độc lập,  chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân  19
  20. dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm anh ninh  quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và  hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự  nghiệp cách mạng của  nhân dân ta.  Năm 2013, Hội nghị  Ban Chấp hành Trung  ương lần thứ  tám khóa XI  của  Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tiếp tục thực hiện những mục tiêu, quan điểm,  phương hướng, phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc  mà Nghị quyết Ban  Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa IX năm 2003 đã  đề  ra, đồng thời bổ  sung,  phát triển Chiến lược bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình. Hội nghị chỉ rõ những  vấn đề rất cơ bản của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, là phải: “Nắm  vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta: “Dựng nước đi đôi với giữ  nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ  chiến   tranh,   xung   đột   từ sớm, từ xa”. Phải thực hiện cho bằng được: “kinh tế phải vững, quốc phòng phải  mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị ­ xã hội ổn định,  cả dân tộc là  một khối đoàn kết thống nhất”.  2.1.2 Quan điểm về bảo vệ độc lập dân tộc trước các mối đe dọa an ninh phi  truyền thống  Bảo vệ  độc lập dân tộc  Việt Nam trước các mối đe dọa  an ninh phi truyền  thống  là một bộ  phận  cấu thành của mục tiêu, nhiệm vụ  bảo vệ  Tổ  quốc trong  tình hình mới, đặt trong điều kiện trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.  Theo đó, có thể quan niệm: Bảo vệ  độc lập dân tộc trước mối đe dọa an ninh phi  truyền thống là tổn thể hoạt động của quốc gia nhằm huy động sức mạnh tổng hợp  của đất nước kết hợp với sức mạnh bên ngoài để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,  khắc phục những tác động tiêu cực từ an ninh phi truyền thống và đấu tranh làm thất  bại mọi hoạt động lợi dụng các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, nhằm giữ gìn,  20
nguon tai.lieu . vn