- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận Quản lý nhà nước của các cơ quan quyền lực nhà nước: Tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Xem mẫu
- HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
***
TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CÁC CƠ QUAN
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Đề tài: TÍNH THỐNG NHẤT CỦA QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
Sinh viên thực hiện: Phạm Thành Nhân
Lớp: KHQLNN K40B Kiên Giang
- 2
KIÊN GIANG 2022
2
- 3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3. Đối tượng
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu của tiểu luận
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước
1.2. Quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước
CHƯƠNG II: NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc
2. Nguyên tắc tổ chức
2.1. Nguyên tắc lãnh đạo
2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
2.3 Nguyên tắc bình đẳng, công bằng
3.Nguyên tắc hoạt động
3.1. Nguyên tắc quyết định theo đa số
3.2. Nguyên tắc công khai
3.3. Nguyên tắc tranh luận
3.4. Sự tuân thủ quy trình, thủ tục
CHƯƠNG III: QUỐC HỘI CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CAO
NHẤT CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Vị trí, tính chất của Quốc hội
2. Chức năng nhiệm vụ của Quốc hội
- 4
CHƯƠNG IV: QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM CÓ TÍNH THỐNG NHẤT
CHƯƠNG V: NHẬN XÉT CHUNG
KẾT LUẬN
- 5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi con người khai sinh ra cho đến nay thì đã trải qua bốn kiểu nhà
nước các kiểu đó là: nhà nước đầu tiên là nhà nước chủ nô, thứ hai là nhà nước
phong kiến, thứ ba là nhà nước tư sản, thứ tư là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dù
ở kiểu nhà nước nào con người cũng muốn hướng đến bình đẳng cho các tầng
lớp trong xã hội và nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước đang được các nước
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng hướng đến đây có thể xem là nhà
nước tiến bộ nhất và cuối cùng trong lịch sử. Vai trò của nhà nước ở bất kỳ một
quốc gia nào cũng đều rất to lớn. Phương thức và hiệu quả quản lý của nhà
nước có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đối với sự phát triển về mọi mặt
của quốc gia đó. Chính vì thế chúng ta cần hiểu rõ về bộ máy nhà nước, đặc
biệt là bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa để từ đó đưa ra cách thức quản lý
cũng như điều hành nhà nước tốt hơn.
Bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, được tạo thành bởi các cơ
quan nhà nước gồm bốn hệ thống cơ quan chính: cơ quan lập pháp, cơ quan
hành chính, cơ quan toà án và cơ quan kiểm sát. Cơ quan quyền lực nhà nước là
bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước, được thành lập để thực hiện chức
năng quản lí nhà nước. Chủ thể quản lý nhà nước là các cá nhân hay tổ chức
mang quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước và thực hiện chức năng quản lý
hành chính nhà nước. Và có thể khẳng định rằng chủ thể quản lí nhà nước quan
trọng nhất là cơ quan quyền lực nhà nước. Để làm rõ nhận định trên, em chọn
nghiên cứu đề tài: Tính thớng nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản
lý nhà nước Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- 6
Việt Nam đã lựa chọn cho mình con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã
có quan điểm rõ ràng và đúng đắn về nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là: “Nhà
nước của dân, do dân, vì dân”. Từ khi đổi mới đất nước, Đảng ta lại càng chú
trọng vận dụng, phát triển, cụ thể hoá vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Do vậy, sự quản lý của nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội lại càng
ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển và bộ mặt của đất nước. Vấn đề
nâng cao vai trò của nhà nước là một vấn đề hết sức hệ trọng; luôn được Đảng,
Nhà nước ta quan tâm, chú ý và đưa ra trong các kỳ Đại hội Đảng. Mặc dù nhà
nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực
của đất nước, nhưng không phải không có những hạn chế. Vì vậy, chúng ta cần
nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu tính thống nhất của quyền lực nhà nước tìm ra những
mặt tích cực cũng như hạn chế nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước, khi quyền
lực nhà nước được thống nhất thì việc phát triển mọi mặt của đời sống xã hội
mới được cải thiện, phát triển bền vững và tốt đẹp hơn.
Đề tài nghiên cúu những quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình tổ chức,
thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước nói chung, của cơ quan
quyền lực nhà nước nói riêng và tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà
nước. Các khái niệm, các phạm trù cơ bản, các yếu tố, các bộ phận cấu thành
của hệ thống quản lý nhà nước của cơ qaun quyền lực nhà nước; mối quan hệ
giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành hệ thống quản lý nhà nước; nguyên tắc,
chức năng, nhiệm vụ, hình thức, phương pháp quản lý nhà nước của cơ quan
quyền lực nhà nước. Trên cơ sở đó, đề tài còn nghiên cứu quá trình đổi mới,
hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước
trong quá trình quản lý nhà nước để đi đến tính thống nhất chung.
3. Đối tượng
Đề tài nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận cơ bản của Chủ nghĩa Mác
Lênin, đồng thời sử dụng những kiến thức cơ bản của nhiều môn khoa học khác
- 7
như Lý luận về Nhà nước và pháp luật, Khoa học quản lý, Lý thuyết chung về
quản lý xã hội, ... để thực hiện nhiệm vụ của nó. Môn học quản lý nhà nước
cửa cơ quan quyền lực nhà nước góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung, tổ chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước nói riêng và đi đến
tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Môn học quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước lấy chủ nghĩa
duy vật biện chửng và chù nghĩa duy vật lịch sử; phép biện chứng duy vật làm
phương pháp luận nghiên cứu. Điều dó có nghĩa là:
Thứ nhất, nghiên cứu về cơ quan quyền lực nhà nước (cơ cấu tổ chức và
chức năng) phải xuất phát từ đời sống xã hội và sự tác động trờ lại đối với đời
sống xã hội.
Thứ hai, khi nghiên cứu cần xem xét sự tồn tại, phát triển cùa cơ quan
quyền lực nhà nước và tính thống của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản
lý nhà nước trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng khác của thượng
tầng kiến trúc.
Thứ ba, chú trọng mối quan hệ thống nhất, tác động giữa cơ cấu tổ chức
và chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước.
Ngoài ra, một sổ khoa học cụ thể khác nằm trong hệ thống các kiến thức
về quản lý đòi hỏi việc nghiên cứu môn học phải có sự kết hợp khoa học những
khái quát lý luận trong quá trình nghiên cứu.
5. Kết cấu của tiểu luận
Bao gồm 3 phần Mở đầu, Nội dung và Kết luận.
- 8
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƯ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA
CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước
Với tư cách là một phạm trù của khoa học chính trị, quyền lực đã được
nghiên cửu qua các thời kỳ. Từ cổ đại trong tác phẩm “Chính trị Aten” của
Arixtổt đển thời trung cổ bời các nhà thần học, các nhà phục hưng, các nhà
không tưởng, các nhà bách khoa đến các nhà chính trị hiện đại và các nhà bách
khoa triết học toàn thư Liên xô (cũ) vẫn chưa dưa ra được định nghĩa về quyền
lực mang tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất, nội hàm của
khái niệm quyền lực bao gồm:
Một là, quyền lực ra đời và tồn tại cùng với xã hội loài người. Sự tồn tại
của loài người, ngoài những hoạt động riêng biệt của từng cá thể người, con
người còn có hoạt động chung trong cộng đồng. Sự hoạt động chung giữa người
với người tạo ra quyền của người này đối với người khác. Hay nói một cách
khác là quyền lực chính là một loại quan hệ xã hội.
Hai là, quyền lực mang tính khách quan. Quyền lực tuy ra đời và tồn tại
cùng với hoạt động của xã hội loài người nhưng nó không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của con người mà đòi hỏi con người phải nhận thức và sử dụng đúng
như những gì nó có. Tính khách quan của quyền lực bắt nguồn từ bản chất xã
hội của con người mà suy đến cùng là tính quy định của sản xuất vật chất đổi
- 9
với sự tồn tại và phát triển của con người và loài người.
Ba là, quyền lực mang tính phổ biến. Song trong xã hội, mỗi người có
nhiều moi liên hệ giữa người với người mà mỗi quan hệ xã hội xác định một
quan hệ quyền lực tương ứng nên mỗi người tất phải tham gia nhiều quan hệ
quyền lực khác nhau. Từng quyền lực vừa tồn tại độc lập, vừa đan xen chồng
chéo lên nhau tạo nên một tổng hòa các quan hệ quyền lực theo yêu cầu của xã
hội.
Bốn là, quyền lực là quan hệ giữa người chỉ huy và người thi hành. Bất cứ
hoạt động chung nào cũng phải cỏ người tổ chức chi huy và người phục tùng sự
tổ chức chi huy đó. Chỉ huy và phục tùng chỉ huy là cội nguồn, điểm xuẩt phát, là
nội dung trung tâm của mọi quyền lực. Vì vậy, Ph.Ănghen đã cho rằng quyền uy
là ý chí của người khác buộc ta phải tiếp thu, quyền uy lấy sự phục tùng làm
tiền dề.
Từ đó, có thể hiểu: quyền lực là ý chí của người này được người khác thi
hành thể hiện mắi quan hệ giữa người chỉ huy với người chịu sự chi huy, giữa
người được giao quyền với người đã trao quyên; đó là quyên uy và thể lực đù để
quyết định việc điều hành người khác hoạt động theo ý chí của mình.
1.2. Quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với nhà nước, là quản lý công việc của
nhà nước (là sự quản lý cùa nhà nước đoi với xã hội và công dân). Nội hàm của
quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển
kinh tế xã hội cùa mỗi một quốc gia qua các giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, quản lý nhà nước xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập
pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành) và hoạt động tư pháp.
Trong hệ thống xã hội, tồn tại rất nhiều chủ thể tham gia quản lý xã hội
như: đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân, các hiệp
hội... Trong sự quản lý đó thì quản lý nhà nước có những điểm khác biệt, thể
hiện:
- 10
Thứ nhất, quản lý nhà nước là quản lý xã hội nhưng không phải bất cứ sự
quản lý xã hội nào cũng là quản lý nhà nước;
Thứ hai, chủ thể quản lý nhà nước là chủ thể duy nhất được quản lý toàn
diện xã hội;
Thứ ba, Nhà nước là chủ thể duy nhất được sử dụng quyền lực nhà nước
trong việc thực hiện chức năng quản lý của mình đôi với xã hội;
Thứ tư, Nhà nước là chù thể duy nhất sử dụng luật pháp là công cụ chủ
yếu để thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình.
Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang
tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi
hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời song xã hội do các cơ
quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thoả mãn nhu cầu hợp pháp của
con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động cùa các chủ thể mang
quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm
thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước.
Trong bộ máy của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc
hội được xác định là “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyển
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.'”. Các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều bắt nguồn từ cơ chế lập hiên của
Quốc hội. Quốc hội giữ quyền lập pháp và phân công các cơ quan khác (Chủ
tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
thực hiện quyền hành pháp và tư pháp.
CHƯƠNG II
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA
CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc
Trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà
- 11
nước, các nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ s ở
khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của ch ế độ, được quy định trong
pháp luật làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước c ủa cơ quan
quyền lực nhà nước.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và những nguyên tắc tổ chức
và quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước nói riêng đã được quy định
trong hiến pháp, luật, văn bản dưới luật, trong đó những nguyên tắc được quy
định trong Hiến pháp được xem là nguyên tắc cơ bản nhất. Xét về mặt bản chất,
các nguyên tắc này có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, các nguyên tắc tổ chức và quản lý nhà nước của cơ quan quyền
lực nhà nước mang tính chất khách quan bởi vì chúng được xây dựng, đúc kết từ
thực tế cuộc sống và phản ánh các quy luật phát triển khách quan. Tuy nhiên, các
nguyên tắc trên cũng mang yếu tổ chủ quan bời vì chúng được xây dựng bời con
người mà con người dựa trên những nhận thức chủ quan để xây dựng.
Thứ hai, các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định cao
nhưng không phải là nguyên tắc bất di bất dịch. Nó gắn liền với quá trình phát
triển của xã hội, tích lũy kinh nghiêm, thành quả của khoa học về tổ chức và
hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ ba, tính độc lập tương đối với chính trị. Hệ thống chính trị c ủa nhà
nước Việt Nam được thực hiện thông qua: các tổ chức chính trị xã hội (Đảng,
Mặt trận tổ quốc,..), và bộ máy nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp). Vì vậy,
ngoài tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan
quyền lực nhà nước, các nguyên tắc này còn đòi hỏi được xây dựng và thực hiện
đủng đắn các quan điểm chỉnh trị.
Thứ tư, mỗi nguyên tắc tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ
quan quyền lực nhà nước có nội dung riêng, phản ánh những khía cạnh khác
nhau của quản lý nhà nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc này có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất. Việc thực hiện t ốt nguyên tắc
- 12
này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả nguyên tắc khác. Vì thế nên
các nguyên tăc tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực
nhà nước luôn thê hiện tính hệ thống, tính thống nhất và đây là một thuộc tính
vốn có của chúng.
2. Nguyên tắc tổ chức
2.1. Nguyên tắc lãnh đạo
Thực tiễn lịch sử phát triển của đất nước ta đã chứng minh và khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên suốt chặng đường hơn 90 năm qua, Đảng
thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của
Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của
sự phát triển đất nước. Trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp nói riêng là một nhu cầu cấp bách để bảo đảm
đạt được mục đích xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội ch ủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
là vấn đề có tính nguyên tắc đã được Hiến pháp quy định. Trải qua quá trình hình
thành và phát triển của Nhà nước ta, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện chính trị
quan trọng hàng đầu bảo đảm cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoạt động đúng
theo đường lối, quan điểm của Đảng, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp Quốc hội và Hội đồng nhân dân hoàn thành
mọi nhiệm vụ của mình.
Nguyên tác này đòi hỏi một mặt tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Quốc hội và Hội dồng nhân dân và mặt khác, phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của
mỗi cơ quan này trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- 13
2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung trong tổ chức thực hiện quy ền lực chính trị nói chung, quyền
lực nhà nước nói riêng là một dấu hiệu đặc trưng của các thổ chế chính trị. Tuy
nhiên, phụ thuộc vào chổ độ xã hội mà nội dung của tập trung có khác nhau.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, tập trung của nhà nước mang tính chất quan
liêu, chỉ thể hiện quyền lợi của số ít người giai cấp thống trị, mà không t ính đến
quyền lợi của đại da số nhân dân bị thống trị. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tập
trung của Nhà nước phải mang tính chất dân chủ thể hiện quyền lợi c ủa đại đa
số nhân dân.
Nguyên tắc tập trung dân chủ, về bản chất, thể hiện sự thống nhất biện
chứng giữa chế độ tập trung lợi ích của Nhà nước, sự trực thuộc phục tùng c ủa
các cơ quan nhà nước cấp dưới đối với cơ quan nhà nước cấp trên và chế độ
dân chủ tạo điều kiện cho việc phát triển sáng tạo, chủ động và quyền tự quản
của các cơ quan nhà nước cấp dưới.
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nguyên tắc tập trung
dân chủ thể hiệở p nhiều lĩnh vực, nhưng tập trung cao nhất là cách tổ chức và
phân công quyền lực giữa các cơ quan cấp cao của nhà nước, ở sự phân công
giữa chính quyền trung ương và địa phương, ở chế độ giao quyền tự chịu trách
nhiệm về sản xuất kinh doanh giữa cơ quan nhà nước với tổ chức kinh tế nhà
nước.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
cùa bộ máy nhà nước thường được thể hiện ở các mặt sau đây: các cơ quan nhà
nước được thành lập bằng bầu cử, bằng bổ nhiệm; trong hoạt động các cơ quan
nhà nước thực hiện chế độ bàn bạc tập thể, cá nhân chịu trách nhiệm về phần
việc được phân công theo chế độ thủ trưởng; quyết định của các cơ quan nhà
nước cấp trên buộc các cơ quan nhà nước cấp dưới phải thi hành; khi ra quyết
định, các cơ quan nhà nước cấp trên phẩi tính đến lợi ích của các cơ quan nhà
nước cấp dưới; trong phạm vi quyền hạn của mình các cơ quan nhà nước được
- 14
quyền quyết định, không có sự can thiệp vào công việc thuộc phạm vi của các
cơ quan nhà nước cấp dưới.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào trình độ quản lý,
trình độ dân trí, phù hợp với từng ngành, tùng cấp, từng loại cơ quan nhả nước.
Trong từng địa phương và ở mỗi thời điểm khác nhau, cần định ra liều lượng
kết hợp giữa chế độ tập trung và chế dộ dân chủ thích hợp, tạo nên sự thống
nhất hai mặt của nguyên tắc. Nếu như trước đây, dựa trên cơ sở sở hữu chung
của Nhà nước, chúng ta nhấn mạnh khía cạnh tập trung của nguyên tắc, thì ngày
nay, trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, thực hiện nguyên tắc này chúng
ta cần thiết phải nhấn mạnh khía cạnh dân chủ để có thể tính hết mọi lợi ích
của các thành phần xã hội, kể cả lợi ích của những người mà quan điểm của họ
là thiểu sổ.
Trong mỗi loại cơ quan nhà nước, sự vận dụng những dấu hiệu trên của
nguyên tắc tập trung dân chủ phụ thuộc vào nhiệm vụ, chức năng của từng cơ
quan phải đảm nhiệm.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước c ó quyền quyết định những
vẩn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân cả nước và đời sống của nhân
dân từng địa phương, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải do cơ quan
nhân dân trực tiếp bầu ra và phải hoạt động theo chế độ tập thể. Mỗi quyết định
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải được các đại biểu bàn bạc dân
chủ và quyết định theo đa số. Tại các kỳ họp, nguyên tắc tập trung dân chủ và
các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước được
tuân thủ. Từ việc xem xét, thông qua luật, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội, quyết định về tồ chức bộ máy nhà nước, về nhân sự c ấp cao cho đến
việc quyết định các công trình, dự án quan trọng quốc gia, giám sát tối cao tại kỳ
họp, chất vấn và trả lời chất vấn đều được thực hiện đúng quy trình.
2.3 Nguyên tắc bình đẳng, công bằng
- 15
Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan quyền lực nhà nước. Theo Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội
và Hội đồng nhân dân được nhân dân cả nước và nhân dân ở địa phương bầu ra
dựa trên bốn nguyên tắc là bầu cử phổ thông, bàu cử bình đẳng, bầu cử trực tiếp
và bò phiếu kín. Như vậy, nguyên tắc bình đẳng, công bằng là một trong bốn
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức cơ quan Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Về hoạt động, theo tinh thần của nguyên tắc này, mọi chủ thể trong Quốc
hội và Hội đồng nhân dân có những điều kiện và khả năng làm việc như nhau.
Mọi thành viên đều bình đẳng với nhau. Sự bình đẳng được bảo đảm bởi thủ
tục và nội quy hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
3.Nguyên tắc hoạt động
3.1. Nguyên tắc quyết định theo đa số
Nguyên tắc quyết định theo đa số thể hiện trên hai phương diện:
Thứ nhất, số lượng đại biểu tối thiểu cần thiết có mặt tại phiên họp để
bắt đầu cuộc thảo luận và biểu quyết.
Thứ hai, quyết sách của Quốc hội và nghị quyết của Hội đồng nhân dân
phải được đa số đại bĩểu đồng ý tán thành mới có giá trị.
Đây là những yêu cầu xuất phát từ tính chất đại diện của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân: mỗi quyết định đều thể hiện ý chí cùa toàn dân tộc, bổi vậy phải
được đa số tán thành.
3.2. Nguyên tắc công khai
Quốc hội và Hội đồng nhân dân họp công khai là nguyên tắc được quy
định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và ủy ban nhân dân. Giá trị của kỳ họp cũng thể hiện ở tính công khai, mình
bạch. Nội quy kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân có những quy định cho phép
công chúng, các phương tiện thông tin đại chúng, đại diện các cơ quan khác tham
dự. Một số phiên họp nhất định được truyền hình trực tiếp, các phiên họp đều
dược ghi âm và được lưu giữ, đưa lên mạng của Quốc hội và Hội đồng nhân
- 16
dân. Đặc biệt, với sự tham gia của truyền hình, báo chí, hoạt động của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân càng trở nên minh bạch hơn. Nhờ có sự minh bạch, hoạt
động giám sát thi hành pháp luật của các cơ quan này thực sự mang lại lợi ích
cho người dân.
3.3. Nguyên tắc tranh luận
Ý nghĩa của kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn thể hiện ở
việc nó hợp thức hóa các quyết sách thông qua tranh luận, đối thoại. Các phiên
họp toàn thể tại các kỳ họp là diễn đàn quan trọng nhất về chính sách và pháp
luật ở nước ta. Kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân tạo điều kiện để
các đại biểu của nhân dân thảo luận và thông qua mọi lợi ích và quyết sách một
cách cấn trọng và dân chủ. Tranh luận ở kỳ họp cho phép mỗi bên thể hiện
những luận chứng thuyết phục nhất của mình và bảo vệ quan điểm của mình.
Khi đã được thảo luận thấu đáo bởi tất cả các bên, quyết định cuối cùng sẽ
được đa số trong Quốc hộỉ, Hội đồng nhân dân, những người đại diện cho cử tri
cả nước và ở từng địa phương thông qua. Kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân với các phiên thảo luận, chất vấn cũng là nơi tập trung, phần nào phản
ánh các luồng quan điểm đến từ bên ngoài (từ cử tri, từ các tổ chức xã hội, báo
chí...). Sự tranh luận chính là sự trao đổi, đối thoại từ nhiều phía, nhiều góc độ.
3.4. Sự tuân thủ quy trình, thủ tục
Với số lượng thành viên lớn (đặc biệt là sổ lượng đại biểu Quốc hội), các
cơ quan quyền lực nhà nước không thể làm việc được nếu những thành viên
tham gia không tuân theo các thủ tục — những khuôn khổ để làm việc. Hơn nữa,
là cơ quan đại diện của nhân dân, Quốc hội và Hội đồng nhân dân chứa trong
mình nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội, bởi vậy, có thể tiềm ẩn những khác
biệt nhất định về lợi ích cần phải được giải quyết trên cơ sở lợi ích chung của
quốc gia, của địa phương. Do đó, hơn mọi cơ quan nhà nước khác, cơ quan đại
diện đòi hỏi tất cả các thành viên phải tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục làm
việc.
- 17
Mặt khác, quy trình, thủ tục nhằm đảm bảo cho tính chuyên nghiệp trong
hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. về mặt kỹ thuật, quá trình
hoạch định chính sách đòi hỏi phải có những bước đi tuần tự, từ sự kiện đển
vấn đề và cuối cùng là chính sách. Trong quá trình đó, tất yếu phải có những quy
tắc điều chỉnh từng công đoạn một và liên kết các công đoạn với nhau phân
tích chính sách, xây dựng chính sách, thông qua chính sách và thực hiện chính
sách. Đặc biệt, quan trọng là cần nhận thức được điểm xuất phát cho mọi quy
trình là phân tích chính sách. Chính vì vậy, trong mỗi hoạt động của các cơ quan
này đều có rất nhiều quy trình, thủ tục phải tuân theo như quy trình lập pháp,
quy trình ngân sách, quy trinh giám sát, quy trình thủ tục bỏ phiếu, chất vấn...
CHƯƠNG III
QUỐC HỘI CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CAO NHẤT CỦA
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Vị trí, tính chất của Quốc hội
Trong bộ máy Nhà nước, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Theo
Hiến pháp 2013, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân không thể trực tiếp, thường xuyên
sử dụng quyền lực Nhà nước cho nên phải bầu ra các cơ quan đại biểu để thay
mặt mình sử dụng quyền lực Nhà nước. Vì vậy, các cơ quan này được gọi là cơ
quan quyền lực Nhà nước, ở nước ta, các cơ quan này bao gồm Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp.
Hiến pháp 2013 đã nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có quyền quyết định
những vấn đề quan thọng nhất của đất nước thông qua Hiến pháp, các đạo luật,
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển
kinh tế, văn hóa, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm những chức danh cao cấp nhất của bộ máy Nhà nước; giám sát tối cao
- 18
hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Khác với Nghị viện tư sản, Quốc hội nước ta thực sự đại diện cho ý chí,
lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là cơ quan đại biểu của nhân dân theo kiểu công xã Pari mà C.Mác coi là một
tập thể làm việc "vừa lập pháp, vừa hành pháp". Đây l à một tô chức chính quyền
thể hiện rất rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Các dại biểu Quốc
hội là những công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động ưu tú thuộc
các dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm
trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt ch ẻ với quần chúng, nắm
vững tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Do đó, quyết định mọi vấn đề được
sát và hợp với quần chúng, đồng thời cỏ điều kiện thuận lợi để vận động quần
chúng thi hành tốt các quy định của Nhà nước. Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 nãm,
việc tuyển cử cảc đại biểu Quốc hội mới bảo đảm cho nhân dân có thể lựa
chọn và bổ sung những đại diện mới vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của mình. Mọi quyền lực Nhà nước tập trung vào Quốc hội. Mọi công việc quan
trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc đều do Quốc hội quyết
định.
2. Chức năng nhiệm vụ của Quốc hội
Lập pháp là chức năng quan trọng nhất của Quốc hội với tư cách là cơ
quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp. Làm tốt nhiệm vụ này chẳng
những bảo đàm phát huy vai trò “quyền lực tối cao” cùa Quốc hội mà còn thực
hiện tốt nguyên tắc thống nhất quyền lực của bộ máy Nhà nước, đặc trưng cơ
bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội xuất phát từ vị trí tính chất của
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Vì vậy, chỉ có Quốc hội mới có quyền
định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan
hệ xã hội cơ bàn nhất của xã hội ta. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà
nước khác ban hành không được trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp và
- 19
luật.
Ở một số nước tư bản có sự phân biệt Quốc hội lập hiến và Quốc hội
lập pháp. Quốc hội lập hiến được bầu ra để làm hiến pháp, khi hiến pháp được
ban hành thì Quốc hội lập hiến giải thể. Còn Quốc hội lập pháp không có quyền
làm hiến pháp mà chỉ căn cứ vào hiến pháp để ra các đạo luật c ần thiết nhằm thi
hành hiến pháp và các đạo luật bổ sung hiến pháp.
Ở nước ta, quyền lập hiến cũng như quyền lập pháp đều thuộc về Quốc
hội. Quốc hội giữ quyền làm hiến pháp thì cũng có quyền sửa đổi hiến pháp;
Quốc hội có quyền làm luật thì cũng có quyền sửa đổi luật.
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 qui định chỉ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền
hạn làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết định
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà
nước, quy định các vấn đề quan trọng nhất về quyền lực Nhà nước và cách thức
tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn
hóa xã hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước, về quan hệ giữa Nhà nước và
cá nhân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... Hiến pháp và Luật thể hiện
đường lối cơ bản và những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể
chế hóa và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Luật là văn bản có
hiệu lực pháp lý cao sau Hiến pháp. Các văn bản qui phạm pháp luật khác do các
cơ quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội và không được trái với tinh thần, nội dung cùa Hiến pháp, Luật và
Nghị quyết của Quốc hội.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hi ến pháp, luật
và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Hội đồng bầu cừ quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do
Quốc hội thành lập.
Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, ủy ban thường vụ
- 20
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
Quốc hội quyết định những vấn đề cơ bản nhất và quan trong nhất của
nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng
và an ninh. Theo Hiến pháp năm 2013 Quốc hội có quyền “quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước". Những vấn đề quan trọng của đất nước do Quốc
hội quyết định gồm có:
Về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương. Quốc
hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và phát triển
bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Quốc hội quyết định những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt dộng của bộ máy nhà nước về quan hệ
xã hội và hoạt động của công dân. Các cơ quan được tổ chức theo mô hình nào,
hoạt động ra sao đều do Quốc hội xem xét, lựa chọn, quyết định tại kỳ họp
Quốc hội và được thể hiện trong Hiến pháp và các văn bản luật tổ chức. Quy
định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước,
chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chù tịch Quốc hội, Phó
Chủ tịch Quốc hội, ủy viên ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân
tộc, Chủ nhiệm ủy ban cùa Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trường Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội
đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác
do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc
phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia; Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người
giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ,
cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
nguon tai.lieu . vn