- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Kinh tế chính trị: Những phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học được áp dụng trong tác phẩm của V.I.Lênin: “Bàn về chế độ hợp tác xã” - Ý nghĩa
Xem mẫu
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
MỤC LỤC
MỤC LỤC
....................................................................................................................
1
[1] X.A.Xêraiép, Về tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã” của V.I.Lênin,
Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1986;
............................................................................
36
[2] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 45, trang
421 – 429.
...................................................................................................................
36
[3] PGS, TSKH Trần Nguyễn Tuyên, Chính sách kinh tế mới của V.L.Lênin và
ý nghĩa thời đại, tạp chí Lý luận chính trị, 25/09/2017
.........................................
36
[4] Viện Kinh tế chính trị học, Giáo trình học phần khối kiến thức cơ sở bắt
buộc, Đề án 1677, Hà Nội, 2014
..............................................................................
36
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế chính trị học theo nghĩa rộng là một môn khoa học xã hội nghiên
cứu những quy luật chi phối việc sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng
của cải vật chất trong các xã hội khác nhau của loài người. Và theo nghĩa
hẹp, Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội nghiên cứu “những quy
luật đặc thù của từng giai đoạn phát triển của sản xuất và của trao đổi” chi
phối sự phát sinh, phát triển của một phương thức sản xuất nhất định.
Cũng như các ngành khoa học khác, Kinh tế chính trị có đối tượng nghiên
cứu riêng, đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị là quan hệ xã hội giữa
người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất trong mối quan hệ biện chứng
với lực lượng sản xuất, trong sự tác động qua lại với kiến trúc thượng
tầng…
Như vậy, là một ngành khoa học mang tính đặc thù với đối tượng nghiên
cứu riêng, khi nghiên cứu Kinh tế chính trị ta sẽ có những phương pháp
nghiên cứu tương ứng với đối tượng mà Kinh tế chính trị đã xác định. Nói
một cách khái quát, phương pháp nghiên cứu Kinh tế chính trị là sự vận dụng
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên
cứu khoa học Kinh tế chính trị, nhằm mục tiêu tìm ra quy luật vận động kinh
tế của xã hội.
Trên cơ sở đó, để nhận thức sâu hơn về các phương pháp nghiên cứu
của chuyên ngành Kinh tế chính trị, trong phạm vi tiểu luận học phần
Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Kinh tế chính trị, học viên thực
hiện tiểu luận với chủ đề: “Những phương pháp nghiên cứu của kinh tế
chính trị học được áp dụng trong tác phẩm của V.I.Lênin: “Bàn về chế
độ hợp tác xã”. Ý nghĩa”.
PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHUYÊN NGÀNH
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
1. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Khác với các môn khoa học tự nhiên, kinh tế chính trị không thể tiến
hành các phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm mà chỉ có thể thử
nghiệm trong đời sống hiện thực, trong các quan hệ xã hội hiện thực. Các thử
nghiệm về kinh tế đụng chạm đến lợi ích của con người, vì vậy kiểm tra
những giải pháp, thử nghiệm cụ thể chỉ được tiến hành trong những phạm vi
rất hạn chế. Do vậy, phương pháp quan trọng của kinh tế chính trị là trừu
tượng hoá khoa học.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học đòi hỏi gạt bỏ những yếu tố
ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và những hiện tượng được nghiên
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
cứu, tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng
và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản
chất cấp một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm
trù và những quy luật phản ánh những bản chất đó. Vấn đề quan trọng hàng
đầu trong phương pháp này là giới hạn của sự trừu tượng hoá. Việc loại bỏ
những cái cụ thể nằm trên bề mặt của cuộc sống phải bảo đảm tìm ra được
mối quan hệ bản chất giữa các hiện tượng dưới dạng thuần tuý nhất của nó;
đồng thời phải bảo đảm không làm mất nội dung hiện thực của các quan hệ
được nghiên cứu; không được tuỳ tiện, loại bỏ cái không được phép loại
bỏ, hoặc ngược lại, giữ lại cái đáng loại bỏ. Giới hạn trừu tượng hoá cần
thiết và đầy đủ này được quy định bởi chính đối tượng nghiên cứu.
Thí dụ, để vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản hoàn toàn có thể và
cần phải trừu tượng hoá sản xuất hàng hoá nhỏ, mặc dù nó thực sự tồn tại
với mức độ ít hoặc nhiều ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng không
được trừu tượng hoá bản thân quan hệ hàng hoá tiền tệ, bởi vì tư bản lấy
quan hệ hàng hoá tiền tệ làm hình thái tồn tại của mình; hơn nữa, càng
không được trừu tượng hoá việc chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, bởi
vì không có hàng hoá sức lao động thì chủ nghĩa tư bản không còn là chủ
nghĩa tư bản nữa.
Trừu tượng hoá khoa học gắn liền với quá trình nghiên cứu đi từ cụ thể
đến trừu tượng, nhờ đó nêu lên những khái niệm, phạm trù và vạch ra những
mối quan hệ giữa chúng, phải được bổ sung bằng một quá trình ngược lại
đi từ trừu tượng đến cụ thể. Cái cụ thể này không còn là những hiện tượng
hỗn độn, ngẫu nhiên mà là bức tranh có tính quy luật của đời sống xã hội. (ví
dụ: C. Mac chứng minh ở học thuyết giá trị t hặng dư : Tiền trở thành tư bản
nhờ hàng hóa sức lao động, tạo ra giá trị thặng dư; Thì ở học thuyết tích lũy,
C. Mac lại chứng minh giá trị thặng dư trở thành tư bản, làm cho dòng sông tư
bản ngày càng lớn). Từ phân tích chi phí tư bản chủ nghĩa, C. Mac chứng
minh nó làm nảy sinh khái niệm lợi nhuận, mà theo nhà tư bản nó là con đẻ
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
của toàn bộ tư bản ứng trước. (mặc dù bản chất của nó là từ giá trị t hặng dư,
do giá trị thặng dư chuyển hóa mà thành. Mặc dù vậy, các hình thái chuyển
hóa của nó thành lợi nhuận, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô trên bình
diện xã hội được người ta thừa nhận như một thực tế, mà từ nhà tư bản đến
người làm thuê đều thấy “có lý”
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học cũng đòi hỏi gắn liền với
phương pháp kết hợp lôgíc với lịch sử. Bởi lẽ, lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá
trình tư duy lôgíc cũng phải bắt đầu từ đó. Theo cách nói của Ph. Ăngghen, sự
vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một
hình thái trừu tượng và nhất quán về lý luận. Nó là sự phản ánh đã được uốn
nắn, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện
thực đã cung cấp.
Khái niệm: Trừu tượng hoá khoa học là tạm thời gạt bỏ khỏi đối
tượng nghiên cứu những hiện tượng ngẫu nhiên, cá biệt, thứ yếu, giữ lại để
nghiên cứu những hiện tượng phổ biến, điển hình phản ánh bản chất của đối
tượng nghiên cứu, nhờ đó mà quá trình nghiên cứu trở nên đơn giản, đễ hiểu
và tìm ra được quy luật vận động của nó.
Vì sao phải dùng phương pháp này?
Phải dùng phương pháp trừu tượng hóa duy vật biện chứng như vậy,
bởi vì hình thái kinh tế xã hội là vô cùng phức tạp, với vô vàn hiện tượng
muôn hình muôn vẻ, liên hệ chằng chịt với nhau, và chịu sự tác động của
nhiều nhân tố khác nhau. Không thể nghiên cứu đồng thời cùng một lúc tất cả
các hiện tượng, hoặc cùng một hiện tượng với tất cả những nhân tố chủ yếu
và thứ yếu, ngẫu nhiên và tất yếu, bên trong và bên ngoài, bản chất và không
bản chất.
Thí dụ:
+ Khi nghiên cứu phương thức sản xuất TBCN, phải biết trừu tượng hóa
gạt ra một bên sản xuất cá thể nhỏ là những sản xuất tuy còn tồn tại trong xã
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
hội tư bản, nhưng chiếm địa vị thứ yếu, để nghiên cứu phương thức sản xuất
này một cách thuần túy với hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư sản và vô sản.
+ Hay như để nghiên cứu bản chất của sản xuất TBCN, phải tách tư
bản công nghiệp khỏi các hình thái tư bản khác như tư bản thương nghiệp, tư
bản ngân hàng…; tạm thời trừu tượng hóa các hình thái tư bản này. Coi tư
bản công nghiệp như là một thể thống nhất của tư bản nói chung, đại diện
cho tất cả các hình thái tư bản, để vạch ra bản chất của tư bản nói chung.
Sau đó mới phân tích đến các hình thái tư bản khác và do đó mà vạch rõ đầy
đủ được bản chất của quan hệ sản xuất TBCN trong tất cả các lĩnh vực sản
xuất, lưu thông và phân phối của đời sống xã hội TBCN.
* LƯU Ý:
Nhưng sự trừu tượng hoá với nghĩa trên đây chỉ là giả định trên lý luận
để cho quá trình phân tích được đơn giản mà vẫn không làm xuyên tạc bản
chất của đối tượng nghiên cứu, khi giả định thay đổi thì kết luận cũng phải
thay đổi theo.
+ Khi giả định tiền là vàng và giá trị của vàng là một đại lượng nhất định
thì khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng giá cả hàng hóa đưa
vào lưu thông chia cho số vòng quay của những đồng tiền cùng tên gọi.
+ Nhưng khi thay đổi giả định: Giả định tổng giá cả của hàng hóa đưa
vào lưu thông và vòng quay của tiền đã xác định, thì "số lượng tiền hay vật
liệu tiền đang lưu thông sẽ phụ thuộc vào bản thân giá trị của vật liệu này".
Một số vấn đề cơ bản và giới hạn của trừu tượng hóa khoa học:
+ Cái gì có thể và nên trừu tượng hóa còn cái gì không thể trừu tượng
hóa được. Trừu tượng hóa của Mác phản ánh những cái có thực trong lịch sử.
Vì vậy, những sự trừu tượng hóa đó có tính chất vật chất;
+ Những sự trừu tượng của Mác đều mang tính chất cụ thể; cụ thể theo
nghĩa là những sự trừu tượng hóa ấy có quan hệ với một hình thái kinh tế do
lịch sử quy định;
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
+ Những sự trừu tượng hóa ấy không có tính chất tùy tiện, mà phải phản
ánh được lôgíc của sự phát triển trong lịch sử;
+ Trừu tượng hóa khoa học còn đòi hỏi phải biết chọn đúng điểm tiếp
cận. Không phải bắt đầu việc nghiên cứu từ bất kỳ hiện tượng kinh tế nào
cũng được.
+ Trừu tượng hóa khoa học khác với trừu tượng hóa duy tâm siêu hình.
Trừu tượng hóa khoa học là dùng phương pháp duy vật biện chứng và
quan điểm duy vật lịch sử, đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
phân tích và tổng hợp các hiện tượng và quá trình kinh tế, rút ra các phạm trù.
+ Kết quả của quá trình trừu tượng hóa khoa học là sự hình thành nên
những phạm trù kinh tế và những quy luật kinh tế chi phối sự vận động của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ KTCT Mác – Lênin nghiên cứu các phạm trù kinh tế và các quy luật
kinh tế để vạch rõ bản chất và sự vận động của một hình thái kinh tế xã hội
nhất định theo trình tự phát triển tự nhiên của chúng từ thấp đến cao từ phát
sinh phát triển đến chuyển sang hình thái khác cao hơn. Trừu tượng hóa khoa
học bắt đầu từ những hình thức đơn giản nhất đến những hình thức phức tạp
hơn, cũng chính là phương pháp nghiên cứu đi từ trừu tượng đến cụ thể.
2. Phương pháp biện chứng duy vật
Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin được sử dụng đối với nhiều môn khoa học. Trong kinh tế chính
trị, phương pháp này đòi hỏi: khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế
phải đặt trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động,
phát triển không ngừng, chứ không phải là bất biến. Quá trình phát triển là
quá trình tích luỹ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về
chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật cũng đòi hỏi
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế phải gắn liền với những điều
kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể…
3. Phương pháp Logic kết hợp với lịch sử
Phân biệt 2 phương pháp
Nếu phương pháp lịch sử đi vào cả những bước quanh co thụt lùi tạm
thời của lịch sử, thì … phương pháp logic chỉ phản ánh lịch sử một cách tóm
tắt, khái quát nắm lấy bước phát triển tất yếu, bản chất tức là quy luật của
sự phát triển.
Phương pháp logic thực chất cũng là phương pháp lịch sử đã thoát khỏi
hình thái lịch sử cụ thể, thoát khỏi hiện tượng ngẫu nhiên. Phương pháp logic
đòi hỏi phải nghiên cứu hiện tượng kinh tế, phát triển tương đối hoàn thiện
và chín muồi
Ví dụ: Tại sao Mác sống ở Đức nhưng lại nghiên cứu CNTB ở Anh? Vì
ở Anh là nước tư bản già cỗi, phát triển nhất, thể hiện đầy đủ các bản chất
của chủ nghĩa tư bản. Chính là như vậy.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất (T23) C.Mác viết: Trong
tác phẩm này, đối tượng nghiên cứu của tôi là phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức
ấy. Cho đến nay, nước Anh vẫn là nước cổ điển của phương thức sản xuất
này. Đó là nguyên nhân vì sao nước đó lại được dùng làm minh họa chủ yếu
cho sự trình bày lý luận của tôi. Nếu như bạn đọc người Đức nhún vai một
cách giả nhân giả nghĩa trước tình hình công nhân công nghiệp và nông
nghiệp ở Anh, hay muốn tự an ủi mình với một ý nghĩa lạc quan cho rằng tìn
hhình ở nước Đức đâu đến nỗi tồi tệ như thế, thì tôi sẽ buộc lòng phải nói
lên với người ấy: De te fabula narratur! [Câu chuyện nói về anh đó]
Ở đây, bản thân vấn đề không phải là trình độ phát triển cao hơn hay
thấp hơn của những đối kháng xã hội bắt nguồn từ những quy luật tự nhiên
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; vấn đề chính là bản thân những quy luật
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
ấy, những xu hướng ấy, những xu hướng đang tác động và đang được thực
hiện với một tất yếu gang thép. Nước phát triển hơn về công nghiệp chỉ nêu
lên cho nước kém phát triển cái hình ảnh tương lai của bản thân nước này mà
thôi.
3.1. Phương pháp lịch sử
Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có quá trình lịch sử
của nó, tức là có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Đó là một quá
trình vận động và biến đổi liên tục, hết sức cụ thể, đầy quanh co, phức tạp,
bao gồm cả những cái ngẫu nhiên lẫn cái tất yếu, muôn hình, muôn vẻ, trong
những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất định.
Khái niệm: Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện trung thực bức
tranh quá khứ của sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự thời gian và không
gian như nó đã từng diễn ra (quá trình ra đời, phát triển, tiêu vong).
Nhiệm vụ của phương pháp lịch sử: là thông qua các nguồn tư liệu để
nghiên cứu và phục dựng đầy đủ các điều kiện hình thành, quá trình ra đời,
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của các sự kiện, hiện
tượng,... đồng thời đặt quá trình phát triển đó trong mối quan hệ tác động qua
lại với các nhân tố liên quan khác trong suốt quá trình vận động của chúng,...
từ đó có thể dựng lại bức tranh chân thực của sự vật, hiện tượng như đã xảy
ra.
Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp lịch sử:
Thứ nhất, tính biên niên: nhà nghiên cứu phải trình bày quá trình hình
thành và phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự của nó như đã
diễn ra trong thực tế để thấy được tính liên tục trong quá trình vận động, phát
triển của nó.
Thứ hai, tính toàn diện: khi phục dựng quá khứ, nhà nghiên cứu phải
khôi phục đầy đủ tất cả các mặt, các yếu tố và các bước phát triển của sự
vật, hiện tượng, tránh tình trạng qua loa, đơn giản thậm chí cắt xén thông tin.
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần tránh tình trạng liệt kê, chất đống tư liệu,
phải biết lựa chọn các tư liệu tiêu biểu, điển hình về các sự vật, hiện tượng
cần nghiên cứu.
Ví dụ: nước Nga xô viết chuyển từ nền kinh tế dựa trên chính sách cộng
sản thời chiến…sang chính sách kinh tế mới (NEP) sau 4 năm thực hiện:
V. I. Lenin viết: “Thuế lương thực là một trong những hình thức quá độ
từ “chế độ cộng sản thời chiến”, một chế độ cộng sản đặc biệt do tình
trạng cùng khốn cực độ, tình trạng hoang tàn và chiến tranh buộc chúng ta
phải thi hành, sang chế độ trao đổi sản phẩm xã hội chủ nghĩa bình thường.
Và chế độ này lại là một trong những hình thức quá độ từ chủ nghĩa xã hội,
với những đặc điểm do tình trạng tiểu nông chiếm đại đa số trong dân cư tạo
nên, sang chủ nghĩa cộng sản
“Chế độ cộng sản thời chiến” có điểm đặc biệt là: trên thực tế, chúng
ta lấy của nông dân tất cả những lương thực thừa và thậm chí đôi khi cả
những lương thực không phải là thừa mà là một phần những lương thực cần
thiết cho sự sinh sống của họ, lấy để cung cấp cho quân đội và để nuôi công
nhân. Phần nhiều, chúng ta mua chịu, trả bằng tiền giấy. Nếu không, chúng ta
đã không thể thắng được bọn địa chủ và tư bản trong cái nước tiểu nông bị
tàn phá này. Nhưng đó lại là thành tích của chúng ta.
Tuy vậy, cũng cần phải biết đúng mức thành tích ấy. Chiến tranh và tình
trạng tàn phá đã buộc chúng ta phải thi hành “chế độ cộng sản thời chiến”.
Nó không phải và không thể là một chính sách phù hợp với nhiệm vụ kinh tế
của giai cấp vô sản. Nó là một biện pháp tạm thời. Đối với giai cấp vô sản
đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì
chính sách đúng đắn là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công
nghiệp cần thiết cho nông dân, để lấy lúa mì của nông dân.
Chỉ có chính sách lương thực ấy mới phù hợp với những nhiệm vụ của
giai cấp vô sản, chỉ có chính sách đó mới có thể củng cố được cơ sở của chủ
nghĩa xã hội và đưa chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn.
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
Thuế lương thực đánh dấu một bước chuyển sang chính sách ấy.
Việt Nam chuyển sang đổi mới: từ tư nhân, chuyển HTX, chuyển khoán
hộ và tới đây là gì, nếu không phải là tích tụ, tập trung ruộng đất để đi lên
sản xuất nông nghiệp xanh, sạch, công nghệ cao, hiện đại, hội nhập…???
Thứ ba, tính chi tiết: người nghiên cứu phải bám sát và phản ánh chi tiết
quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, kể cả các bước phát
triển quanh co, thụt lùi tạm thời của nó để đảm bảo tính trung thực và phản
ánh đúng tiến trình vận động của sự vật, hiện tượng.
Thứ tư, tính cụ thể: các sự vật, hiện tượng tồn tại luôn gắn liền với
không gian, thời gian và con người cụ thể.
(Ví dụ về khoán 10 có nguồn gốc từ khoán chui, khoán 100, rồi mới
đến khoán 10)
Do đó, người nghiên cứu cần chú ý nêu rõ địa điểm, thời gian xảy ra của
sự vật, hiện tượng.
Trong nghiên cứu khoa học, việc sử dụng phương pháp lịch sử chỉ giúp
người nghiên cứu dừng lại ở việc phục dựng quá khứ của các sự vật, hiện
tượng.
Để tìm ra bản chất, quy luật vận động và phát triển của chúng, người
nghiên cứu cần kết hợp vận dụng phương pháp logic và một số phương pháp
khác.
3.2. Phương pháp logic
Khái niệm Phương pháp logic: là phương pháp nghiên cứu tổng quát các
sự kiện, hiện tượng lịch sử, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, không cơ bản để
làm bộc lộ bản chất, tính tất yếu và quy luật vận động và phát triển khách
quan của sự kiện, hiện tượng lịch sử đang “ẩn mình” trong các yếu tố tất
nhiên lẫn ngẫu nhiên phức tạp ấy
Nhiệm vụ của phương pháp logic : “đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ
biến, cái lặp lại của các hiện tượng”; … “nắm lấy cái tất yếu, cái xương
sống phát triển, tức nắm lấy quy luật của nó (sự vật, hiện tượng)”; “nắm lấy
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
những nhân vật, sự kiện, giai đoạn điển hình và nắm qua những phạm trù,
quy luật nhất định”, từ đó giúp nhà nghiên cứu thấy được những bài học và
xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
3.3. Mối quan hệ giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp khác nhau,
nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình nghiên cứu khoa
học. Giải thích tính thống nhất giữa hai phương pháp, Ăngghen viết:
Về bản chất, phương pháp logic không phải là cái gì khác là phương
pháp lịch sử, chỉ có điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những
ngẫu nhiên pha trộn.
Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó. Và sự
vận động tiếp tục thêm nữa của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình
lịch sử dưới một hình thức trìu tượng và nhất quán về mặt lý luận.
Nó là phản ánh đã được uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo những quy
luật mà bản thân quá trình lịch sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa có thể xem
xét mỗi một nhân tố ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn
toàn thành thục và đạt đến hình thức điển hình
Thí dụ: Sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa ra đời từ sản xuất hàng hóa
giản đơn và mọi của cải trong xã hội tư bản chủ nghĩa đều là hàng hóa, nên
việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng phải bắt đầu
tư phân tích hàng hóa và tiền tệ.
Hai phương pháp này giúp nhà khoa học mô tả lịch sử của các sự vật,
hiện tượng, từ đó đi đến vạch ra bản chất, quy luật phát triển của chúng.
Nếu phương pháp lịch sử có nhiệm vụ khôi phục bức tranh quá khứ sinh
động và phong phú của hiện thực thì phương pháp logic sẽ có nhiệm vụ đi
tìm cái logic, cái tất yếu bên trong “bức tranh quá khứ” đó để vạch ra bản
chất, quy luật vận động, phát triển khách quan của hiện thực.
4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
Phân tích tổng hợp là một trong những thành tố quan trọng trong quy
trình xem xét hệ thống
Khái niệm: Phân tích lí thuyết là thao tác phân tài liệu lý thuyết thành các
đơn vị kiến thức, cho phép ta có thể tìm hiểu những dấu hiệu đặc thù, bản
chất, cấu trúc bên trong của lí thuyết. Từ đó mà nắm vững bản chất của từng
đơn vị kiến thức và toàn bộ vấn đề mà ta nghiên cứu. Trên cơ sở lý thuyết đã
phân tích ta lại tổng hợp chúng để tạo ra một hệ thống, từ đó thấy được mối
quan hệ biện chứng của chúng với nhau, vậy mà hiểu đầy đủ, toàn diện, sâu
sắc về lí thuyết đang nghiên cứu.
Ví dụ: Từ giá trị thặng dư, C. Mac phân tích ra các hình thái của chúng
biểu hiện trong thực tế là lợi nhuận, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô
TBCN.
Nếu xét ra một cách logic thì phải kể: Trong Quyển 1 Bộ Tư Bản:
Phần thứ nhất: Hàng hóa và Tiền tệ;
Phần thứ hai: Sự chuyển hóa Tiền thành Tư bản;
Phần thứ ba: Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối;
Phần thứ tư: Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối;
Phần thứ năm: Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng
dư tương đối;
Phần thứ sáu: Tiền công
Phần thứ bảy: Quá trình tích lũy tư bản
Trong Phần thứ bảy: Quá trình tích lũy tư bản; khi nói đến hồi kết, về
tích lũy nguyên thủy; khi nói đến ở thuộc địa, nếu không có người lao động
làm thuê người ta tự sản xuất lấy những sản phẩm đáp ứng nhu cầu cho
mình… thì: “Với những người kỳ dị như vậy thì nhà tư bản làm gì còn đất để
“nhịn ăn tiêu” nữa? C. Mac viết. (C.Mác Ăngghen toàn tập, tập 23, tr 1067).
Nghĩa là từ sự phân tích các hình thái của m, sau đó C. Mac đi đến tổng
hợp, để khẳng định rằng các hình thái đó (lợi nhuận, lợi nhuận thương
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
nghiệp, lợi tức, địa tô TBCN) đều có nguồn gốc từ tiền công lao động của
người lao động làm thuê, chứ không thể từ đâu khác!
Phân tích và tổng hợp trở thành phương pháp nhận thức đặc biệt, cho
phép ta xây dựng lại cấu trúc của vấn đề, tìm được các mặt, các quá trình
khác nhau của hiện thực giáo dục. Con đường phân tích tổng hợp cho phép ta
nhận thức được nội dung, xu hướng phát triển khách quan của lí thuyết và từ
đây tiến hành suy diễn hình thành khái niệm, tạo ra hệ thống các phạm trù, lí
thuyết khoa học mới.
Phương pháp phân tích có thể tìm ra cơ sở thống nhất của những hình
thức khác nhau ấy, nhưng phương pháp phân tích lại không thể nào rút ra
được những hình thức khác nhau từ cơ sở thống nhất ấy.
Điều đó chỉ có thể làm được bằng phương pháp tổng hợp, vì phương
pháp này xem xét cơ sở thống nhất trong sự phát triển của nó, do đó cũng xem
nó trong quá trình nó tạo ra những hình thức khác nhau.
Điểm kết thúc của sự phân tích là điểm xuất phát của sự tổng hợp.
Nhờ sự tổng hợp, chúng ta mới có thể “đi từ trừu tượng đến cụ thể”.
Ví dụ: Trong bộ "Tư bản", phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được miêu tả lại với toàn bộ tính cụ thể và tính nhiều mặt của nó.
Mác đã bắt đầu công trình nghiên cứu của mình từ hàng hóa (tức là đi từ
trừu tượng đến cụ thể)
Trong mỗi giai đoạn “đi từ trừu tượng đến cụ thể”, Mác đều vận
dụng cả phương pháp phân tích lẫn phương pháp tổng hợp.
5. Phương pháp quy nạp, diễn dịch
5.1. Quy nạp
+ Quy nạp là sự suy lý từ những trường hợp cá biệt đến những kết luận
chung.
+ Việc dùng quy nạp làm một phương pháp nghiên cứu nhất định, gọi là
phương pháp quy nạp.
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
+ Điểm xuất phát của phương pháp quy nạp là sự quan sát và miêu tả
một cách đúng đắn những sự việc hiện thực và hiện tượng cá biệt
5.2. Diễn dịch
+ Diễn dịch là một phương pháp ngược lại, nó áp dụng các nguyên lý
chung, các nguyên tắc chung vào những sự việc hiện thực và hiện tượng cá
biệt.
+ Ở đây, điểm xuất phát là cái chung; từ cái chung đó, người ta nghiên
cứu đi đến những trường hợp cụ thể cá biệt, cố gắng giải thích những
trường hợp đó trên cơ sở các nguyên tắc chung.
Phương pháp của bộ "Tư bản" vừa là phương pháp diễn dịch, vừa là
phương pháp quy nạp, nhưng về mặt hình thức thì tùy theo những vấn đề
nghiên cứu mà phương pháp này chiếm ưu thế, hoặc phương pháp kia chiếm
ưu thế.
6. Phương pháp mô hình hóa trong nghiên cứu kinh tế chính trị học
Mô hình hóa là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng khoa học và quá
trình vận động bằng cách xây dựng giả định về chúng và dựa vào trên mô
hình đó để nghiên cứu trở lại đối tượng. Trong quá trình nghiên cứu, các hiện
tượng và quá trình vận động phát triển được tái hiện thông qua hệ thống mô
hình thay thế nguyên bản. Mô hình đối tượng là hệ thống các yếu tố vật chất
và ý niệm (tư duy).
Hệ thống mô hình giống đối tượng nghiên cứu trên cơ sở tái hiện những
mối liên hệ cơ cấu – chức năng, nhân – quả của các yếu tố của đối tượng.
Đặc tính quan trọng là mô hình luôn tương ứng với nguyên bản. Mô hình thay
thế đối tượng và bản thân nó lại trở thành đối tượng nghiên cứu, nó phục vụ
cho nhận thức đối tượng và là phương tiện để thu nhận thông tin mới. Mô
hình tái hiện đối tượng nghiên cứu giáo dục dưới dạng đơn giản hóa, tri thức
thu được nhờ mô hình có thể áp dụng vào nguyên bản. Mô hình trong nghiên
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
cứu lí thuyết có nhiệm vụ cấu trúc thành cái mới chưa có trong hiện thực, tức
là mô hình cái chưa biết để nghiên cứu chúng, còn gọi là mô hình giả thuyết.
Mô hình hóa cũng có thể là một thực nghiệm của tư duy, một cố gắng
để tìm ra bản chất của các hiện tượng.
II. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ
CHÍNH TRỊ HỌC ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG TÁC PHẨM CỦA
V.I.LÊNIN: “BÀN VỀ CHẾ ĐỘ HỢP TÁC XÔ
1. Tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã” của V.I.Lênin
Cuối năm 1920, nước Nga xô viết ra khỏi nội chiến, chuyển sang xây
dựng chế độ xã hội mới trong điều kiện hậu quả của chiến tranh còn rất
nặng nề, kinh tế xã hội rối ren, nông dân ở nhiều nơi bất mãn với chính
sách “Cộng sản thời chiến”. Trước tình hình trên, tháng 31921, V.I.Lênin đã
vạch ra chính sách kinh tế mới thay cho chính sách cộng sản thời chiến.
Đảng Cộng sản và Nhà nước xô viết coi chính sách kinh tế mới không
phải là một cuộc vận động nhất thời, mà là một chính sách của giai cấp vô
sản đang thực hiện chuyên chính ở trong một nước tiểu nông. Chính sách kinh
tế mới – đó là chính sách kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa, dự định khôi
phục và phát triển lực lượng sản xuất của đất nước, giành thắng lợi cho các
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và dần dần thủ
tiêu các yếu tố tư bản chủ nghĩa trong khi áp dụng những quan hệ hàng hóa –
tiền tệ. Chính sách kinh tế mới góp phần thúc đẩy việc thực hiện những tiền
đề để thu hút rộng rãi quần chúng lao động, trước hết là toàn thể nông dân
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội XI
của Đảng vào mùa xuân năm 1922, V.I.Lênin nêu lên rằng những kết quả
công tác của năm đầu tiên trên cơ sở chính sách kinh tế mới đã khẳng định sự
đúng đắn của chính sách đó. Chính sách kinh tế mới đã thúc đẩy mạnh mẽ lực
lượng sản xuất trong nước phát triển. Trong các nhà máy và công xưởng, tại
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
hầm lò và các công trình khai thác bắt đầu một sự phấn đấu tích cực nhằm
nâng cao năng suất lao động, củng cố kỷ luật lao động. Nhà nước xô viết đã
giúp đỡ nông dân hạt giống, cho vay, tổ chức sửa chữa máy móc nông nghiệp.
Đã có một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm trạng của nông dân. Nông dân
lao động ngày càng đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng Cộng sản và Chính
quyền xô viết, lòng tin của nông dân đối với giai cấp công nhân đã tăng lên.
Đồng thời, Lênin cũng nhấn mạnh nhiệm vụ cải tạo nông nghiệp theo
những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội thuộc trong số những nhiệm vụ khó
khăn nhất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc chuyển những
nông hộ cá thể, phân tán sang nền kinh tế xã hội hóa xã hội chủ nghĩa là khó
khăn chính. Những thử nghiệm được tiến hành trong những năm nội chiến
nhằm thúc đẩy sự chuyển biến đó đã chứng tỏ rằng “các thí nghiệm và sáng
kiến về mặt kinh doanh nông nghiệp tập thể đã có thể có một tác dụng lớn
lao như thế nào”, và đồng thời cũng cho thấy rõ tác hại to lớn do những bước
đi thiếu chuẩn bị trong lĩnh vực này đem lại. Chỉ có thể giải quyết nhiệm vụ
tập thể hóa trên cơ sở kinh nghiệm chính trị của bản thân họ. Đồng thời cần
kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, bước đầu áp dụng những hình thức
và phương pháp đơn giản và dễ hiểu nhất đối với nông dân để chuyển sang
nền sản xuất nông nghiệp lớn, tập thể hóa.
Trước Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười, khi xem xét phương
hướng và cách thức cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, V.I.Lênin
đã chỉ ra rằng việc cải tạo đó sẽ được thực hiện với hai hình thức kinh tế
nhà nước và hợp tác xã. Trong những điều kiện của chính sách kinh tế mới,
vấn đề hợp tác xã với mọi hình thức của nó có một ý nghĩa đặc biệt. Khi tổng
kết kinh nghiệm xây dựng hợp tác xã trong những năm đầu của Chính quyền
xô viết, Lênin đã đi đến kết luận bảo đảm việc chuyển dần nông hộ nhỏ lên
chủ nghĩa xã hội, thống nhất họ lại trong những nông trang tập thể lớn.
Kế hoạch hợp tác hóa là một trong những bộ phần quan trọng bậc nhất
của cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô do V.I.Lênin trình bày
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
trong một loạt tác phẩm và bài phát biểu. Trong bài viết “Bàn về chế độ hợp
tác xã” do Người đọc cho ghi lại ngày 4 – 6 tháng Giêng năm 1923, V.I.Lênin
đã tổng kết về mặt lý luận kinh nghiệm đầu tiên vận dụng hợp tác xã trong
những điều kiện của chính quyền xô viết, vạch ra những khuynh hướng
chung cải tạo nó về mặt kinh tế xã hội thành hợp tác xã xã hội chủ nghĩa,
lần đầu tiên Người đưa ra kết luận về tính quy luật tồn tại của hình thức sở
hữu hợp tác xã, coi đó là một loại hình của sở hữu xã hội chủ nghĩa, chỉ ra
con đường dẫn tới chế độ hợp tã xã xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, luận
chứng tính hiện thực và tính quy luật của những con đường đó.
Bài viết “Bàn về chế độ hợp tác xã” không những hoàn thành việc soạn
thảo của Lênin về kế hoạch hợp tác xã, mà còn là yếu tố quyết định nội
dung của nó, trong đó đã nêu lên những giải đáp xác đáng cho những vấn đề
lý luận và thực tiễn có tính nguyên tắc về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
những nông hộ cá thể, manh mún nhờ vào chế độ hợp tác xã.
2. Đối tượng nghiên cứu của tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã”
của V.I.Lênin
Tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã” là sự tổng kết những ý tưởng về
hợp tác xã và chế độ hợp tác xã của Lênin từ những bài viết, bài nói trước và
trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới.
Đối tượng nghiên cứu của tác phẩm là phát triển lực lượng sản xuất
nước Nga trên cơ sở những quan hệ thị trường (quan hệ sản xuất mới)
3. Những phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học được
áp dụng trong tác phẩm của V.I.Lênin: “Bàn về chế độ hợp tác xã”
Có thể nói trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã”, V.I.Lênin đã sử
dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu mang tính đặc thù của kinh tế
chính trị học. Trong đó có thể thấy rõ được một số phương pháp sau:
Một là, phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Lênin viết: “Thật vậy, chính quyền nhà nước chi phối những tư liệu
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
sản xuất chủ yếu, giai cấp vô sản nắm chính quyền, giai cấp vô sản đó liên
minh với hàng triệu tiểu nông và tiểu tiểu nông, giai cấp vô sản nắm vững
quyền lãnh đạo nông dân, v.v..., phải chăng đó không phải là tất cả những
điều cần thiết để có thể xây dựng từ chế độ hợp tác xã, và chỉ riêng từ chế
độ hợp tác xã mà trước đây chúng ta khinh miệt nó vì coi đó là có tính chất
con buôn, và giờ đây, dưới chính sách kinh tế mới, về một vài mặt nào đó,
chúng ta vẫn có quyền coi như thế, phải chăng đó không phải là tất cả
những điều cần thiết để xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa toàn vẹn hay
sao?”1
Ở đây, Lênin đã trừu tượng hóa các giai cấp xã hội nhỏ khác đang tồn tại
ở nước Nga lúc bấy giờ thành giai cấp vô sản để có thể dễ dàng hơn trong
việc phân tích tình hình hiện tại.
Lênin viết thêm: “Và khi các tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội, khi
giai cấp vô sản, với tư cách là giai cấp, đã thắng giai cấp tư sản thì chế độ
của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”2
Hai là, phương pháp logic kết hợp với lịch sử
Ngay trong phần mở đầu tác phẩm, Lênin đã phần tích một cách logic
về ý nghĩa của chế độ hợp tác xã trên cơ sở so sánh giữa bối cảnh lịch sử
trước đây và hiện nay. Người viết: “Ch ưa chắc mọi người đều hiểu được
rằng sau Cách mạng tháng Mười và không vì chính sách kinh tế mới (trái
lại, về mặt này, phải nói: chính vì có chính sách kinh tế mới), chế độ hợp
tác xã ở nước ta đã có một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Trong những ước mơ
của những người đề xướng ra chế độ hợp tác xã trước đây, có khá nhiều ảo
tưởng. Những ảo tưởng đó thường buồn cười vì nó kỳ quặc. Nhưng kỳ
quặc ở chỗ nào? ở chỗ họ không thấy được ý nghĩa cơ bản, chủ yếu của
cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân để lật đổ sự thống trị của
bọn bóc lột. Hiện nay, ở nước ta đã lật đổ được sự thống trị của bọn bóc
1
Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 45, tr.422
2
Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 45, tr.425
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
lột, và nhiều ước mơ kỳ quặc, thậm chí lãng mạn, thậm chí tầm thường
của những người để xướng ra chế độ hợp tác xã trước đây, đã trở thành
một sự thật không có gì là giả tạo nữa”3.
Khi luận giải về tính tất yếu phải thực hiện chính sách kinh tế mới,
Lênin viết: “Đứng trên quan điểm của người châu âu "văn minh" (trước hết
là có học thức) mà nói thì chúng ta chỉ cần làm thêm rất ít nữa là toàn thể dân
cư sẽ tham gia tích cực, chứ không phải tiêu cực vào hoạt động hợp tác xã.
Thật ra, chúng ta "chỉ" còn cần làm cho dân cư nước ta "văn minh" đến mức
họ thấy rõ tất cả lợi ích của việc tham gia đó. "Chỉ" cần thế thôi. Tất cả sự
khôn ngoan mà chúng ta cần có lúc này để chuyển sang chủ nghĩa xã hội là ở
chỗ đó. Nhưng muốn làm được chữ "chỉ" đó, cần phải có cả một cuộc cách
mạng, cả một thời kỳ phát triển văn hoá của toàn thể quần chúng nhân dân.
Vì thế, quy tắc của chúng ta là phải hết sức ít dùng biện pháp cao xa và hình
thức mơ hồ. Về phương diện này, chính sách kinh tế mới là một bước tiến,
vì nó thích hợp với trình độ của người nông dân bình thường nhất, nó không
đề ra với nông dân những yêu cầu quá cao. Nhưng muốn thông qua chính
sách kinh tế mới mà làm cho toàn thể dân cư tham gia hợp tác xã thì cần phải
có cả một thời kỳ lịch sử”4.
Lênin chỉ ra một cách logic những nguyên nhân phải “nói đến chế độ hợp
tác xã” trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: “Nhưng còn một phương diện khác
của vấn đề, trong đó chúng ta có thể phải viện đến chủ nghĩa tư bản nhà
nước, hoặc ít ra cũng cần phải viện đến một cái gần giống như chủ nghĩa tư
bản nhà nước. Tôi muốn nói đến chế độ hợp tác xã. Rõ ràng là, trong một
nước tư bản chủ nghĩa, hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Cũng rõ
ràng là trong hoàn cảnh kinh tế hiện nay của nước ta, đương lúc chúng ta kết
hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân (nhưng chỉ xây dựng trên đất đai thuộc
về xã hội, và cũng chỉ dưới sự kiểm soát của chính quyền nhà nước thuộc về
3
Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 45, tr.421
4
Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 45, tr.424
- Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành KTCT Văn Công Vũ
giai cấp công nhân) với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống (tư
liệu sản xuất thuộc về nhà nước; đất đai xây dựng xí nghiệp và toàn bộ xí
nghiệp cũng thuộc về nhà nước) thì phát sinh ra vấn đề một kiểu xí nghiệp
thứ ba, tức là xí nghiệp hợp tác xã, là loại xí nghiệp, trước đây, về phương
diện nguyên tắc, chưa thành một loại riêng biệt. Dưới chủ nghĩa tư bản tư
nhân, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, cũng như xí
nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Dưới chủ nghĩa tư bản nhà nước,
xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản nhà nước, trước hết ở chỗ nó
là xí nghiệp tư nhân, sau nữa ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể. Dưới chế độ hiện
nay của chúng ta, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản tư nhân, ở
chỗ nó là xí nghiệp tập thể, nhưng nó không khác xí nghiệp xã hội chủ nghĩa,
nếu miếng đất trên đó nó được xây dựng và những tư liệu sản xuất đều
thuộc về nhà nước, nghĩa là về giai cấp công nhân”5.
Lênin phân tích thêm trong bối cảnh chính quyền đã thuộc về tay giai cấp
công nhân: “Xét về nhiệm vụ cơ bản của thời đại chúng ta, chắc chắn là
chúng ta có lý, vì không có đấu tranh giai cấp để giành lấy chính quyền nhà
nước thì không thể thực hiện chủ nghĩa xã hội được. Nhưng các bạn hãy
xem, tình hình đã thay đổi biết bao, khi chính quyền nhà nước đã thuộc về
giai cấp công nhân, quyền lực chính trị của bọn bóc lột đã bị lật đổ, và mọi tư
liệu sản xuất đã nằm trong tay giai cấp công nhân (chỉ trừ những tư liệu sản
xuất mà nhà nước công nhân còn tự nguyện giao cho bọn bóc lột, theo chính
sách tô nhượng, trong một thời gian và với những điều kiện nào đó).
Ngày nay, chúng ta có quyền nói rằng đối với chúng ta, sự phát triển đơn
thuần của chế độ hợp tác là đồng nhất (có tính đến ngoại lệ "nhỏ" đã nói trên
kia) với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội; và đồng thời chúng ta buộc phải
thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi
về căn bản”6
5
Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 45, tr.426 427
6
Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 45, tr.427 428
nguon tai.lieu . vn