Xem mẫu

TIỂU LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – HỌC THUYẾT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN LỜI NÓI ĐẦU Phép biện chứng là một khoa học triết học, là một trong những phương pháp chung nhất giúp con người nhận thức về sự vật, hiện tượng hay nhận thức về thế giới xét trên nhiều phương diện thì phép biện chứng là một hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triết học lịch sử phép biện chứng đã được hình thành và phát triển lâu đời có thể nói từ thời cổ đại khi mà triết học ra đời, đỉnh cao của nó là phép biện chứng duy vật hay biện chứng Macxít. Phép biện chứng duy vật Macxít là sự kế thừa những giá trị thức tinh hoa của nhân loại từ xưa cho đến thời điểm nó ra đời, dựa trên truyền thống tư tưởng biện chứng của nhiều thế kỷ phép biện chứng Macxít đã vạch ra những đặc trưng chung nhất của biện chứng khách quan, nghiên cứu những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của hệ nhiên, của xã hội loài người và của tư duy công lao to lớn và vĩ đại của Marx và Ph.Angghen là đã xây dựng cho loài người một phương pháp nhận thức thế giới khoa học, nó là chìa khóa để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới. Nắm vững và vận dụng đúng đắn những nguyên lý, những quy luật cũng như phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là nhân tố cơ bản để hình thành một thế giới quan khoa học. Việc học tập, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của phép biện chứng trong lịch sử là một nhu cầu hết sức cần thiết. Nó không những cho phép ta nắm vững nội dung những nguyên lý, những quy luật, những cặp phạm trù phản ánh quá trình con người nhận thức thế giới, phản ảnh nguồn gốc của sự vận động cách thức cũng như khuynh hướng của sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan của phép biện chứg duy vật mà còn giúp chúng ta thấu suốt những nguyên tắc, phương pháp luận từ các nguyên lý, các học thuyết đó. Đồng thời qua đó cũng giúp chúng ta nắm được bức tranh toàn cảnh, hiểu được nguồn gốc ra đời, sự hình thành và phát triển của quá trình đấu tranh gay gắt với những tư tưởng của phép siêu hình cũng như phép biện chứng duy tâm để khẳng định vị trí to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới của con người. Hiện nay nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước việc nghiên cứu phép biện chứng một cách tường tận, có hệ thống nhất là nắm vững bản chất của phép biện chứng duy vật Macxít càng là một nhu cầu bức thiết để đổi mới tư duy. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng là biện chứng chủ quan phản ánh biện chứng khách quan của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó đang là định hướng tư tưởng và là công cụ tư duy nhạy bén để đưa cách mạng nước ta tiến lên giành thắng lợi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Điều này đã thôi thúc tôi đến với đề tài “Phép biện chứng duy vật – học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển” Với sự hiểu biết của một sinh viên không chuyên ngành triết học, còn hạn chế trong thời gian đầu tư để hoàn thành tiểu luận chắc chắn có sự sai sót. Rất mong sự đóng góp của quý thầy cô. CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ NHỮNG HÌNH THỨC LỊCH SỬ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG I. Phép biện chứng là gì? Phép (phương pháp) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng HyLạp là methodos là cách thức mà con người tiến hành làm một việc gì đó để đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên theo nghĩa khoa học thì phương pháp được hiểu là hệ thống những nguyên tắc, yêu cầu được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong triết học, khi giải quyết mặt thứ hai trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không thì có 2 ý kiến khác nhau: + Phái bất khả tri: cho rằng con người không có khả năng nhận thức được thế giới bởi lẽ họ cho rằng nhận thức vận động và phát triển cho nên tại một điểm nhất định thì sự vật A là A nhưng lại không phải là A khi con người nhận thức được sự vật thì cũng là lúc sự vật đã biến đổi để trở thành các khác nó. + Phái khả tri: thì cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan, bởi lẽ con người biết sử dụng những phương pháp cách thức khoa học để nhận thức phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Do đó phương pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Trên cơ sở những điều kiện khách quan đã có, phương pháp càng đúng đắn thì kết qủa đạt được càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, quan niệm hoàn toàn khác nhau về nguồn gốc và bản chất của phương pháp chủ nghĩa duy tâm cho rằng phương pháp là những nguyên tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để tiện cho hoạt động nhận thức và hành động, họ xem phương pháp như là một phạm trù thuần túy, chủ quan trái lại với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng phương pháp hình thành không phải một cách chủ quan, tuỳ tiện mà nó phụ thuộc và đối tượng nghiên cứu và mục đích đặt ra để tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu đối tượng và mục đích cần đạt tới một cách khách quan. Nghĩa là phải vạch rõ những tính chất, chỉ tiêu về số lượng và chất lượng….Từ đó nhận thức rõ những quy luật của nó. Chỉ trên cơ sở đó, và sau đó thì chủ thể mới xác định được phải nghiên cứu và hành động như thế nào, cần phải sử dụng phương tiện, công cụ, biện pháp gì cho thích hợp. Trong thực tế có 3 phương pháp sau: Phương pháp ngành: Là phương pháp nhận thức được dùng cho một ngành nào đó tuỳ thuộc vào tính chất đặc thù của ngành đó. Chẳng hạn: phương pháp toán học, phương pháp vật lý học… Phương pháp chung: Là phương pháp nhận thức được sử dụng chung trong một số ngành nhất định, chẳng hạn phương pháp phân tích, phương pháp quy nạo… Phương pháp chung nhất là phương pháp mà bất cứ ngành nào cũng phải sử dụng, hoạt động nào cũng phải sử dụng. Đó chính là những phương pháp trong triết học ở góc độ triết học thì tri thức triết học là tri thức chung nhất đó chính là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình (hay còn gọi là phép biện chứng và phép siêu hình) Lịch sử phát triển của triết học là sự phát triển của tư duy triết học gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu hình. Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương pháp tư duy. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã góp phần quan trọng thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện chứng duy vật. Đặc trưng của phương pháp siêu hình là nhìn nhận sự vật hiện tượng, nhận thức đối tượng, nhận thức đối tượng trong trạng thái hoàn toàn không có sự vận động, biến đổi và phát triển. Bản thân mỗi sự vật là một hệ cô lập, tách rời và hoàn toàn không có sự liên hệ gì với các sự vật, hiện tượng khác trong thế giới khách quan chính vì vậy trong tác phẩm “Chống Đuyring” Ph.Angghen đã chỉ ra hạn chế của phương pháp siêu hình “chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa các sự vật đó, chỉ thấy sự tồn tại của các sự vật mà không thấy sự ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”. Angghen nhận xét tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hòa được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc là tồn tại hoặc là không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó. Tóm lại, quan điểm siêu hình là quan điểm luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng, tĩnh tại với tư duy cứng nhắc. Với tư cách đó tư duy siêu hình chỉ có ý nghĩa trong những giới hạn hết sức chật hẹp, nếu vượt ra ngoài giới hạn đó, tư duy siêu hình sẽ mắc sai lầm. Đặc trưng của phương pháp biện chứng là nhận thức đối tượng trong mối liên hệ, nhận thức đối tượng trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng. Như vậy, đối lập với phươngpháp siêu hình thì phương pháp tư duy biện chứng là tư duy linh hoạt, mềm dẻo. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là” còn có cái “vừa là… vừa là” nữa. Chẳng hạn, một vật hữu hình trong một lúc vừa là nó, vừa không phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A; cái khẳng định và cái phủ định loại trừ nhau lại vừa không thể lìa nhau. Theo V.I. Lênin, phép biện chứng là “học thuyết về sự phát triển dưới h2nh thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện“. Với tư cách là một học thuyết hoàn chỉnh và sâu sắc như vậy, học thuyết này (khác với quan niệm siêu hình về sự phát triển). Xem “sự phát triển… là sự thống nhất giữa các mặt đối lập ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn