Xem mẫu
- BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài "Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
- MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Sau năm 1991 cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa(XHCN) ở Đông Âu, nền kinh tế – chính trị thế giới
đã chuyển từ trạng thái hai cực đối đầu sang nền kinh t ế chính tr ị đa c ực,
đa phương hoá, đa dạng hoá theo xu hướng hoà bình, đối thoại, h ợp tác
phát triển cùng có lợi.
Trong bối cảnh đó, từ việc nhận thức đúng đắn trong thực tiễn và
lý luận với mục tiêu đưa nước ta phát triển hội nhập với khu vực và th ế
giới. Ngay từ đại hội Đảng VI, Đảng ta đã xác định “Chuy ển đ ổi mô hình
kinh tế chỉ huy mang nặng tính bảo thủ trì trệ sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN ”. Hiện nay nền kinh tế nước ta bao
gồm 6 thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, cùng với các thành phần kinh tế tập thể tạo nên một n ền
tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Sau 17 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, nền kinh tế hàng hoá phát triển rất sôi động mở ra cho nước ta
nhiều vận hội mới, đồng thời cũng phát sinh không ít khó khăn và thách
thức. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và những khó khăn trước
mắt. Báo cáo chính trị đại hội Đảng IV một lần nữa khẳng đ ịnh quy ết
tâm của Đảng và Nhà Nước ta “thực hiện nhất quán chính sách phát tri ển
kinh tế nhiều thành phần” và nói rõ thêm “Các thành phần kinh t ế kinh
- doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Là những nhà kinh tế, là những cán bộ quản lý kinh t ế trong t ương
lai thì việc sinh viên kinh tế tìm hiểu về kinh t ế Nhà n ước (KTNN) và vai
trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam là hết sức quan trọng và cần thiết bởi qua đó s ẽ nâng cao đ ược trình
độ và nhận thức về KTNN đồng thời tạo hành trang vững chắc cho những
tư duy và hoạt động kinh tế của mình sau này.
Với tư cách là một sinh viên của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân
tôi xin đưa ra đề án của mình trong việc nghiên cứu Kinh tế nhà nước và
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên do lần đầu tiên tiếp xúc với m ột v ấn đ ề kinh
tế có tính chất khá rộng và quy mô nên trong đề án này không thể tránh
khỏi những thiếu sót nhất định.
Tôi rất mong có sự nhận xét, đóng góp ý kiến nhiệt tình của thày cô bộ
môn và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
- PHẦN NỘI DUNG
I – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
1- Thành phần kinh tế Nhà nước
Hiện nay có nhiều ý kiến và có nhiều quan điểm khác nhau quan
niệm về kinh tế nhà nước (KTNN), tuy nhiên chúng ta không th ể đ ồng
nhất một cách giản đơn KTNN với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). B ởi
lẽ, ta biết rằng khu vực KTNN bao gồm mọi hoạt động của Nhà nước mà
trong đó DNNN là bộ phận không thể tách rời và hoạt động c ủa nó là m ột
trong những hoạt động chủ yếu. Đây là lực lượng vật chất cơ bản, đảm
bảo cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của Nhà nước.
1.1 Khái niệm thành phần kinh tế nhà nước
Do tính chất rộng lớn và đa dạng của thành phần KTNN bao chùm
nền kinh tế nên khái niệm về thành phần KTNN cũng mang tính chất
tương đối. Nên xét về khía cạnh hình thức tổ chức, thì khu vực KTNN bao
gồm:
- Các DNNN hoạt động kinh doanh và các DNNN ho ạt đ ộng công
ích
- - Các doanh nghiệp có cổ ph ần Nhà n ước chi ph ối ho ặc có c ổ ph ần
đặc biệt của Nhà nước (theo quy định của Luật DNNN)
- Các doanh nghiệp có vốn đóng góp của Nhà nước
- Các tổ chức sự nghiệp kinh tế của Nhà nước
Còn nếu xét về khía cạnh của lĩnh vực hoạt động trong nền kinh t ế thì
khu vực KTNN bao gồm các hoạt động của Nhà nước trong việc.
- Quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên
- Đầu tư, quản lý và khai thác các công trình h ạ tầng kỹ thuật
(đường xá , bến bãi, cảng, các khu công nghiệp tập trung vv…)
- Các tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, thương mại, dịch vụ, trong lĩnh vực tài chính, tính dụng, ngân
hàng …
1.2 Cơ sở hình thành kinh tế nhà nước
KTNN mà trước tiên là các DNNN được hình thành trên cơ sở:
- Nhà nước đầu tư xây dựng
- Quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư bản tư nhân
- Góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp tư nhân
Ngoài ra với bản chất XHCN của mình Nhà nước ta đã xác đ ịnh:
Đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng …Do Nhà nước nắm
giữvà quản lý với mục đích chi phối và điều tiết dịnh hướng s ự phát tri ển
kinh tế xã hội
1.3 Đặc điểm của TPKTNN
Đặc điểm cơ bản, nổi bật nhất của thành phần KTNN là nó thuộc
sở hữu của Nhà nước. Tuy nhiên ở đây ta phải phân biệt ro ràng giữ phạm
trù sở hữu Nhà nước với phạm trù quyền sử dụng của thành phần KTNN.
Sở hữu Nhà nước là một phạm trù rộng lớn hơn nếu ta đem so sánh với
phạm trù KTNN với lý do: Đã nói đến thành phần KTNN thì tr ước h ết nó
- phải thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nhưng sở h ữu của Nhà n ước có
thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng, ví dụ như đất đai là tài sản
mà Nhà nước đại điện cho toàn dân về sở hữu, nhưng kinh t ế h ộ gia đình
(cá thể tiểu chủ), các hợp tác xã nông nghiệp, hay doanh nghi ệp thu ộc
thành phần kinh tế khác vẫn được Nhà nước giao quyền sử dụng đất lâu
dài, chính việc này đã giải thích được việc mua bán đất đai trên th ị trường
hiện nay. Về thực chất thì đây chỉ là việc mua bán quy ền sử d ụng đất b ởi
vì đất đai là sản phẩm của tự nhiên con người không thể tiến hành sản
xuất ra nó được. Và ngược lại những tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước thì không hẳn đã phải là do thành phần KTNN sử dụng, mà các
thành phần kinh tế khác vẫn có thể sử dụng. Ví dụ như việc Nhà nước
góp vốn, cổ phần ở các thành phần kinh tế khác thông qua việc liên
doanh, liên kết mà từ đó hình thành nên thành phần kinh t ế t ư b ản Nhà
nước.
Đặc điểm thứ hai của thành phần KTNN là các doanh nghiệp Nhà
nước được tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh theo nguyên t ắc h ạch
toán kinh tế, xoá bỏ dần sự bao cấp của Nhà nước.
Đặc điểm thứ ba nữa là trong thành phần KTNN thực hiện phân
phối theo lao động và theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây là một đ ặc
điểm rất quan trọng của các doanh nghiệp thuộc thành ph ần KTNN, là
hình thức phân phối can bản và là nguyên tắc phân ph ối ch ủ y ếu, thích
hợp với các thành phần dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở
nước ta hiện nay.
2. Sự khác nhau giữa KTNN và kinh tế tư bản (KTTB) độc
quyền.
Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoas phát triển theo cơ
chế thị trường đang có bước tiến mạnh mễ đem lại hiều thành tựu về
- kinh tế, văn hoá, xã hội, cải thiện cuộc sống con người. Tuy nhiên song
hành với nó là những tiêu cực hạn chế vốn thuộc về bản ch ất c ủa c ơ ch ế
thị trường. Điều đó đòi hỏi cần có một chủ thể kinh tế đủ vững m ạnh đ ể
đứng ra điều tiết nền kinh tế phát huy những mặt tích cực khắc phục
những quyết điểm của cơ chế thị trường và Nhà nước chính là một chủ
thể kinh tế quan trọng có khả năng nhận thức và vận dụng nh ững quy
luật kinh tế khách quan vào nền kinh tế, đồng thời Nhà nước đưa ra các
chính sách vĩ mô nhằm khắc phục nhưng hạn chế của cơ chế thị trường
tạo ra động lực mới cho phát triển kinh tế vv…Vì thế mà Samuelson đã
nhận định “Thiếu sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh t ế ch ẳng khác
nào vỗ tay bằng một bàn tay”. Dựa trên nh ững ch ế độ chính trị xã h ội
khác nhau mà vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế và nh ững công cụ
điều tiết nền kinh tế của Nhà nước cũng khác nhau. Nếu KTNN ở Việt
nam là đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì
KTTB độc quyền Nhà nước lại là đặc trương của nền kinh t ế th ị tr ường
của các nước TBCN. Giữa chúng có những điểm khác nhau căn bản sau
đây:
Thứ nhất, quan điểm lý luận của các nước XHCN thừa nh ận rộng
rãi tính chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế là đặc trưng cơ bản để phân
biệt thể chế kinh tế thị trường XHCN và kinh tế thị trường TBCN. Trên
cơ sở đó KTNN hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng,
then chốt của xã hội. Không những thế KTNN còn nắm vai trò chủ đạo
trong những ngành hoạt động khác, vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu là
phục vụ cho lợi ích toàn xã hội như: quốc phòng, giáo dục, y tế vv…Ở
các nước TBCN ở thời kỳ độc quyền Nhà nước thì Nhà nước luôn ph ụ
thuộc vào các tổ chức độc quyền, các hoạt động của Nhà nước tác động
vào các quá trình kinh tế nhằm đêm lại lợi nhuận độc quy ền, các t ổ ch ức
- này luôn hoạt động trong lĩnh vực độc quyền của mình và thu đ ược l ợi
nhuận độc quyền cao.
Thứ hai, nếu xét về bản chất sự ra đời của tư bản độc quy ền Nhà
nước không làm thay đổi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà ch ỉ là s ự
kết hợp về con người giữa tổ chức độc quyền và Nhà nước, các tổ chức
độc quyền chỉ đem lại lợi ích chủ yếu cho một số người trong xã h ội.
Còn KTNN ở nước ta là thành phần kinh tế dựa trên ch ế đ ộ công h ữu v ề
tư liệu sản xuất trong đó Nhà nước là người đứng ra đại di ện s ở h ữu cho
toàn dân. Do đó các thành phần KTNN được tổ ch ức sản xu ất kinh doanh
theo nguyên tắc hạch toán kế toán kinh tế, phân phối theo lao động và theo
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời thành phần KTNN còn có vai trò
hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tạo ra cơ sở và tiền đề
vững chắc cho sự phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KTNN Ở VIỆT NAM
Sau cách mạng tháng tám nước ta quá độ từ ch ế độ nửa phong ki ến
thực dân lên XHCN bỏ qua giai đoan TBCN. V ới ch ủ nghĩa Mác Lenin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam.
Cùng với công cuộc xây dựng đất nước. KTNN đã được ra đời với
mục đích:
- Quốc hữu hoá XHCN. Xoá bỏ toàn diện triệt để ch ế độ t ư h ữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tịch thu,
quốc hữu hoá đất đai tài sản của địa chủ, tư bản. Th ực nguyên tắc tài s ản
thuộc về giai cấp công dân và nhân dân lao động.
- - Cải tạo XHCN: cải tạo, xoá bỏ tàn dư của chế độ cũ xây dựng
một Nhà nước của dân do dân và vì dân.
- Đầu tư xây dựng mới: trong giai đoạn qua độ lên CNXH thì KTNN
là lực lượng lòng cốt chủ lực đi đầu trong công cuộc công nghi ệp háo
hiện đại hoá đất nước, xây dưng cơ sở vật chất cho XHCN.
Từ đó đến nay KTNN ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển qua
các giai đoạn:
1. Giai đoạn 1945-1960
Sau khi hoà bình lặp lại ở miền Băc, Đảng và Nhà nước ta đã l ựa
chọn con đường xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải
phóng miền Nam. Theo chủ trương đó công cuộc cải tạo XHCN bắt đầu
được thực hiện ở miền Bắc với nhiệm vụ thủ tiêu kinh tế tư nhân, xây
dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.điều đó đã dẫn đễn việc thu
hẹp và xoá bỏ kinh tế tư nhân và chuy ển sang hình th ức s ở h ữu toàn dân,
xây dựng các xí nghiệp quốc doanh, tiến hành hợp tác hoá nông nghi ệp và
sản xuất nhỏ ở thành thị. Kết quả đến năm 1960 đã có:
-Trong công nghiệp:
+ Số xí nghiệp quốc doanh thuộc KTNN: 1012
+ Các xí nghiệp quốc doanh tạo ra 53,3% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp.
- Trong nông nghiệp:
+ Số nông trường quốc doanh: 56
+ Sử dụng 74800 ha đất nông nghiệp.
+ Kinh tế quốc doanh tạo ra 2% giá trị tổng sản lượng nông
nghiệp.
- Thương nghiệp quốc doanh chiếm:
+ 93,6% tổng mức bán buôn.
- + 51% tổng mức bán lẻ.
Kinh tế quốc doanh đã thu hút và sử dụng lực lượng lao động gồm
477000 người. Như vậy, kinh tế quốc doanh từ chỗ rất nhỏ bé vươn lên
trở thành lực lượng kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Với chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đi lên CNXH, vai trò chủ
đạo, chủ lực đã được giao cho kinh tế quốc doanh.
2. Giai đoạn từ 1960-1975
Với chủ trương công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc “ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý” nhà nước tiếp tục đầu t ư xây
dựng kinh tế quốc doanh ngày càng lớn mạnh về số lượng. Bên c ạnh các
khu công nghiệp cũ đã được cải tạo ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, 1
loạt các khu công nghiệp mới ra đời như Thượng Đình, mỏ Minh Khai,
Đông Anh Hà Nội, Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh…Trong giai đoạn này
KTQD phát triển mạnh mẽ trong các ngành điện lực, cơ khí, hoá chất khai
thác. Đến năm 1975 lĩnh vực sản xuất công nghiệp đã có 1357 xí nghiệp
quốc doanh, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có 72 nông trường quốc
doanh, tổng số cán bộ công nhân viên là 1753400 người. Lực lượng kinh
tế quốc doanh đã cùng với kinh tế tập thể đã ra 84,4% thu nhập quốc dân.
Xét trên phương diện kinh tế, vai trò của kinh tế quốc doanh trong
giai đoạn này được thể hiện không chỉ như là một công cụ quan trọng đ ể
nhà nước thực hiện chủ trương công nghiệp hoá XHCN ở miền B ắc theo
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đáp ứng các nhu cầu của sản
xuất và chiến đấu cho cả hậu phương và tiền tuyến mà còn như là một
tấm gương phản ánh sự thành công của quá trình xây dựng CNXH ở nước
ta. Còn xét trên phương diện chính trị, xã hội, kinh t ế qu ốc doanh luôn
được quan niệmk là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên phong trong
- việc tăng cường và mở rộng quan hệ sản xuất mới và quan hệ sản xuất
XHCN.
3.Giai đoạn từ 1975 đến đầu những năm 80.
Cùng với chủ trương tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ sản
xuất XHCN và công nghiệp hoá XHCN công cuộc cải t ạo XHCN ở mi ền
Nam đã làm cho số lượng xí nghiệp quốc doanh ở tất cả các lĩnh v ực s ản
xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp đều tăng lên một cách
nhanh chóng, đến năm 1980 nước ta đã có:
+ Công nghiệp: 2627 xí nghiệp quốc doanh.
+ Nông nghiệp: 232 nông trường quốc doanh.
+ Thương nghiệp: 10915 điểm bán hàng của thương nghiệp quốc
doanh.
Trong giai đoạn này kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trò quan trọng
trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng và phát tri ển quan
hệ sản xuất mới XHCN, cũng như trong công cuộc phát triển kinh t ế. Tuy
nhiên, xét trên giác độ kinh tế, sức đóng góp của kinh tế quốc doanh đã
giảm so với trước. Đến năm 1980 công nghiệp quốc doanh chỉ tạo ra
được 68,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, thương nghiệp quốc
doanh chiếm 29,8% tổng mức bán lẻ.
4. Giai đoạn từ 1980-1985.
Trong những năm 1980-1985 mặc dù nền kinh tế nước ta gặp rất
nhiều khó khăn so với trước, năng lực sản xuất của kinh tế quốc doanh
nói riêng và sức sản xuất xã hội nói chung không được sử dụng h ết do
thiếu vật tư một cách nghiêm trọng song xuất phát từ quan niệm truy ền
thống về quan hệ sản xuất XHCN nên các giải pháp tháo gỡ trong giai
đoạn này vẫn tập trung chủ yêu vào cải tiến quản lý đối với xí nghi ệp
quốc doanh. ở giai đoạn này cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý đã
- được cải tiến dần trên nguyên tắc phi tập trung hoá trong quản lý kinh t ế,
song kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò tuyệt đối đối với sự phát tri ển
kinh tế xã hội của đất nước, các xí nghiệp quốc doanh nắm toàn bộ các
nghành then chốt như : điện, luyện kim, khai thác, xi măng, gang thép, hoá
chất cơ bản…Tuy nhiên đóng góp của các xí nghiệp quốc doanh vào t ổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đã giảm, tính đến năm 1985 kinh
tế quốc doanh chỉ tạo ra được 37% tổng sản phẩm xã h ội và 28% thu
nhập quốc dân.
5. Giai đoạn từ 1985-1990.
Giai đoạn bắt đầu thực hiện đổi mới kinh tế, tư tưởng xây dựng
một nền kinh tế nhiều thành phần được đưa ra. Trong quá trình hình thành
kinh tế nhiều thành phần công tác quản lý kinh tế quốc doanh vẫn ti ệp
tục được cải tiến theo hướng phi tập trung hoá, k ế ho ạch hoá và qu ản lý
đối với kinh tế quốc doanh. Điểm nổi bật trong cải tiến quản lý ở giai
đoạn này là việc tách bạch giữa quyền quản lý nhà nước về kinh t ế và
quyền quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên c ạnh đó, quan
điểm mới nổi bật ở giai đoạn này là quan niệm không phải nền kinh t ế
quá độ nên CNXH ở nước ta chỉ có kinh tế quốc doanh, chủ trương của
đảng và nhà nước ta không chỉ bó hẹp trong ph ạm vi c ải ti ến qu ản lý đ ối
với kinh tế quốc doanh mà còn phát huy sức sản xuất của kinh t ế t ư nhân,
cá thể cũng như các thành phần kinh tế khác. Trong cơ chế kinh tế mới đó
kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trò chủ đạo nhưng không phải độc tôn.
Năm 1990, kinh tế quốc doanh tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội.
6.Giai đoạn từ năm 1990 đến nay.
Chúng ta khẳng định chủ trương lâu dài là xây dựng nền kinh t ế
hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Chủ trương này được biến thành thực tế bởi quá trình ban hành và
- hoàn thiện hệ thống luật pháp, đặc biệt là pháp luật về kinh t ế, nh ằm t ạo
ra hành lang pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghi ệp. Đ ặc tr ưng
cơ bản của giai đoạn này là doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận
hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Đến năm 1996, Trong công nghiệp còn 6032 DNNN số doanh
nghiệp này tạo ra 41% GDP (doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra 59%).
Trong cơ chế kinh tế mới DNNN vẫn giữ vai trò ch ủ đạo và ch ủ l ực:
Trên giác độ kinh tế, DNNN nắm giữ toàn bộ nh ững ngành trọng y ếu nh ư
điện, than sạch, thép cán, xi măng, dầu thô, giấy…
Như vậy, lịch sử phát triển của KTNN từ sau cách mạng tháng tám
đến nay đã hình thành một hệ thống DNNN trên khắp đất nước. Hệ thống
các doanh nghiệp nhà nước này nhiều về số lượng, nắm gi ữ các lĩnh v ực
then chốt của nền kinh tế quốc dân, sử dụng lực lượng lao động k ỹ thu ật
có trình độ cao, lực lượng DNNN đã đóng vai trò rất quan trọng, mở
đường và hướng dẫn đối với việc phát triển nền kinh tế nước ta trước
đây và ngày nay. Trong nền kinh tế nhiều thành ph ần, h ệ th ống DNNN
vẫn đóng vài trò chủ đạo đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh t ế
quốc dân.
- III. VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà
nước
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại đồng thời nhiều
thành phần kinh tế những nền kinh tế nhiều thành phần ở nh ững nước có
chế độ chính trị khác nhau lại mang những đặc điểm khác nhau rất căn
bản. Nếu như trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thành phần
kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị thì trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN như ở nước ta thì thành phần KTNN giữ vai trò ch ủ
đạo và KTNN cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho sự đi lên và phát tri ển c ủa xã
hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sở dĩ
thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo bởi vì những lý do chính sau:
Thứ nhất, chúng ta đều biết “chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế ”. Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo với mục tiêu dưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện “dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thành ph ần KTNN c ủa n ước
ta mà trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước cũng ph ải ph ục v ụ cho
nhiệm vụ này.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta do hạn ch ế của
trình độ lực lượng sản xuất phát triển còn thấp, các quan hệ sở hữu còn
tồn tại dưới nhiều hình thức, do đó nền kinh tế nước ta ở giai đoạn này là
một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn
hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà không ai có th ể phủ nh ận
- thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu nghèo
trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… đi ều đó đòi h ỏi
cơ chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và
công cụ hữu hiệu nhất mà thông qua nó nhà nước thể hiện vai trò đi ều
tiết của mình đó là thành phân KTNN. Chỉ có KTNN mới có th ể b ảo đ ảm
vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo cho lợi ích của người lao động,
khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường,
phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy
phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đ ời s ống nhân
dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó của KTNN đã được chứng
minh qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã h ội ở nước ta sau đ ổi
mới đến nay:
Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó
khăn, khắc nghiệt như: thể chế xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu
sụp đổ. Mĩ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, kh ủng hoảng kinh t ế,
tài chính khu vực 1997 – 1998 tác động mạnh, thiên tai liên ti ếp x ảy ra
việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh t ế th ị tr ường
định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới nhưng bao hàm cả
những khó khăn thách thức. Song chúng ta vẫn đạt đ ược nh ững thành t ựu
to lớn và rất quan trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990, tình hình
chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các t ầng lớp nhân dân đ ược
cải thiện, quốc phòng an ninh được tăng cường, sức mạnh về mọi mặt
của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Kết qu ả trên có đ ược
là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó KTNN góp ph ần rất to
lớn. Năm 2000 DNNN làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu
ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu DNNN là đối tác ch ủ y ếu
trong hợp tác đầu tư nước ngoài, chiếm 98% số dự án liên doanh với
- nước ngoài. DNNN có năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu ngày
càng hoàn thiện và từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
Các tổng công ty có quy mô lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng số DNNN
nhưng nắm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động, trình đ ộ công ngh ệ
quả lý có nhiều tiến bộ. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN
được nâng lên, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện được vai trò chủ
đạo, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội. Đây cũng là lực lượng quan trọng
thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đ ảm b ảo
sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an ninh quốc phòng. Có th ể kh ẳng đ ịnh
KTNN nói chung và các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào
thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước thoát ra kh ỏi kh ủng
hoảng kinh tế – xã hội. Đứng vững trước những tác động của khủng
hoảng kinh tế quốc tế, khu vực. Tạo tiền đề cho thời kỳ đ ẩy m ạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN.
Thứ hai là KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu
trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN mới có kh ả năng chi ph ối,
dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các m ục tiêu phát
triển KT-XH, thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trường vẫn ch ưa
hoàn thiện, người dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ t ạo ngu ồn đ ầu
tư cơ bản, kinh tế tư nhân còn nhỏ bé thì DNNN có vai trò huy đ ộng vốn
đầu tư xây dựng những công trình lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát
triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt
để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và b ền v ững. Nh ưng
thường thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu t ư l ớn, th ời gian thu
hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp như các ngành: giao thông v ận tải,
giáo dục, y tế, năng lượng vv…Để thực hiện được điều đó đòi hỏi Nhà
nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội
- lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục đích: dẫn dắt nền kinh tế
phát triển theo định hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh t ế phát tri ển
một cách toàn diện, vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa
những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lượng vật
chất chủ lực để nhà nước can thiệp, bình ổn thị trường, hạn chế ảnh
hưởng xấu của ngành nghề độc quyền tự nhiên có tác hại lớn cho n ền
kinh tế.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh t ế qu ốc t ế, ch ỉ có
DNNN là những đơn vị tổ chức kinh tế lớn của quốc gia là có đ ủ kh ả
năng hợp tác liên doanh với các công ty lớn quốc t ế đ ồng th ời làm đ ối
trọng với họ trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, góp
phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của đất nước.
Không chỉ riêng Việt Nam mà Trung Quốc cũng là nước ch ủ trương
xây dựng CNXH thông qua phát triển nền kinh tế th ị trường mà KTNN
giữ vai trò chủ đạo, với tỉ trọng trên70% của chế độ công hữu trong toàn
bộ nền kinh tế song Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng kinh t ế vào
loại cao nhất thế giới, đạt khoảng trên dưới 10% liên tục trong nhiều năm
và đang có dự báo cho rằng trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ trở
thành nền kinh tế số một thế giới, lớn hơn cả Mỹ về giá trị tuyệt đ ối.
Ngay chính ở các nước tư bản, DNNN cũng còn có vai trò không nhỏ.
Theo đánh giá của UNDP, DNNN trong các nước tư bản phát tri ển v ẫn
còn chiếm khoảng 10%.
Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trò ch ủ đ ạo
và sự tồn tại của KTNN là một tất yếu khách quan và ch ỉ có phát huy vai
trò chủ đạo của KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc l ập t ự
chủ. Bởi vì KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh t ế cho nên t ạo
ra khối lượng hàng hoá dịch vụ công cộng lớn chi phối giá cả th ị trường,
- dẫn đát giá cả thị trường bằng chính chất lượng, giá cả của sản ph ẩn
dịch vụ do mình cung cấp. Thông qua đó Nhà nước có th ể ki ểm soát đ ược
thị trường, xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành một n ền kinh t ế v ững
mạnh toàn diện luôn chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và có
sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
1.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Như chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan và trong thời kỳ
quá độ hiên nay vai trò ấy lại được thể hiên sâu sắc và c ấp thi ết h ơn bao
giờ hết. Đại hội Đảng VIII đã khẳng định KTNN có 4 vai trò:
- Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quy ết các v ấn
đề xã hội.
- Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng
phát triển.
- Là lực lượng vật chất để thực hiện chức năng quản lý điều tiết vĩ
mô.
- Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi rộng khắp ở các lĩnh v ực kinh
tế trong nền kinh tế đất nước. Tính chất chủ đạo của KTNN thể hiện qua
các nội dung chính sau đây:
Nội dung thứ nhất cũng là nội dung quan trọng nhất của KTNN đó
là KTNN thực hiện chức năng điều tiết hệ thống kinh tế xã h ội thông qua
các công cụ xã hội khác nhau trong đó DNNN là công cụ thiết yếu.
Ở nước ta các DNNN được hình thành ở các lĩnh vực sản xu ất – kinh
doanh được coi là không hấp dẫn bởi khả năng sinh lời thấp. Ch ẳng h ạn
là khu vực sản xuất sản phẩm công cộng. Th ực hiện ch ức năng đi ều ti ết
của DNNN theo hướng này tạo ra tính cân đối giữa các ngành c ủa n ền
- kinh tế quốc dân. Với tư cách là công cụ điều tiết, việc hình thành và t ồn
tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó không c ố
định, luôn được nhà nước thực hiện theo ph ương châm: ở đâu, khi nào
nền kinh tế kinh quốc dân dang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một
mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không đủ
sức kinh doanh hoặc chối từ thì ở đó và khi đó cần có sự có mặt của
DNNN. Đến một lúc nào đó khi các doanh nghiệp dân doanh đã đ ủ s ức
đáp ứng nhu cầu thị trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó nh ường
chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh, quá trình đó diễn ra một cách liên
tục, lặp đi lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế hình thành vai trò đi ều
tiết của DNNN.
Chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết kinh
tế trong phạm vi từng vùng. Ở từng vùng cũng diễn ra hiện t ượng các
doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh
lợi nhuận nên dẫn đến những mất cân đối trong sản xuất kinh doanh c ủa
từng vùng. Chính DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà nh ững vùng
kinh tế của đất nước đang đòi hỏi nhằm điều tiết cung cầu ở các vùng đó.
Chức năng điều tiết vùng của DNNN đặc biệt quan trọng đối với các
vùng xa, vùng sâu và vùng nông thôn.
Nội dung thứ hai. Do KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền
kinh tế nên tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối
được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng
và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp đồng th ời t ạo ra các
sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúcđẩy các ngành và các thành ph ần
kinh tế khác phát triển.
Nội dung thứ ba. KTNN kiểm soát các hoạt động của thị trường
vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô c ủa
- nhà nước. Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu
của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Như vậy, thành phần KTNN thể hiện vai trò ch ủ đạo ở ch ỗ: chi
phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành ph ần kinh t ế
khác theo đặc tính của mình (dẫn dắt các thành ph ần kinh t ế khác phát
triển theo định hướng XHCN) tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh t ế hàng
hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm
đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã h ội.
Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội.
Do đó xác định nội dung chủ đạo của khu vực KTNN theo các tính chất
nêu trên sẽ giúp chúng ta trong việc định hướng đúng việc sắp xếp l ại các
tổ chức kinh tế hiện có, định hướng cho hoạt động đầu tư của Ngân Hàng
Nhà Nước và thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung
IV. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
1. Quy mô và tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước
Chỉ tính trong 10 năm từ 1990 – 2000. Chúng ta đã 3 lần thực hiện
việc cải cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào nh ững năm t ừ
1990 – 1993 với mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh c ủa các doanh
nghiệp quốc doanh. Lần thứ hai từ năm 1994 – 1997, chúng ta đã thành
lập 18 Tổng công ty 91 và 77 Tổng công ty 90. Lần thứ ba chúng ta th ực
hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó là việc giao bán, khoán và cho
thuê các DNNN.
Sau 3 lần cải cách đổi mới DNNN thì năm 2000 so với năm 1990
quy mô của các doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 12300 doanh nghiệp
xuống còn 5280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới
76,1%. Tuy có sự giảm sút về quy mô nh ưng các DNNN v ẫn đ ạt
được mức tăng trưởng mạnh. Trong 5 năm từ 1991-1995 tốc độ tăng
nguon tai.lieu . vn