Xem mẫu

  1. 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP KHOA SƯ PHẠM KHOA HỌC XàHỘI MỘT SỐ VẤN ĐỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á MàMÔN: HI4228 CHỦ ĐỀ: TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP ĐẾN VIỆT NAM ̣ ̀ Ho va tên học viên: Kră Jăn Ha Huy Mã số sinh viên:  422440579   Lớp: ĐHSSU20­L2­LĐ Học kỳ: Hè năm học 2021 ­ 2022  Giảng viên hướng dẫn: ThS Nguyễn Thế Hồng
  2. 2 Đồng Tháp, 2021 MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ  ............................................ 3 B. NỘI DUNG ............................................ 3 1. Khái niệm hội nhập quốc tế .........................................…3 2. Tiến trình hội nhập Việt Nam đối với khu vực  .........................................…5 và quốc tế 2.1 Hội nhập quốc tế  là một xu thế  tất yếu lớn   .......................................…..5 của thời đại ngày nay 2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hội nhập  .........................................…7 quốc tế 2.3 Những thành tựu trong tiến trình hội nhập quốc  ......................................….11 tế của Việt Nam 3. Tác động toàn cầu hóa, khu vực hóa đối với  ..........................................16 Việt Nam 3.1 Tác động tích cực ..........................................16 3.2 Tác động tiêu cực ...........................................17 C. PHẦN KẾT LUẬN  ….………………………..18 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ….………………………..20
  3. 3 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Hội nhập quốc tế  là một quá trình tất yếu, có lịch sử  phát triển lâu dài và có  nguồn gốc, bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của quan hệ giữa   con người với con người. Trong xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển phải có   mối liên kết chặt chẽ  với nhau. Rộng hơn,  ở  phạm vi quốc tế, một quốc gia mu ốn   phát triển phải liên kết với các quốc gia khác. Trong một thế  giới hiện đại, sự  phát triển của kinh tế  thị  trường đòi hỏi các   quốc gia phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế. Đây chính   là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Từ  những thập niên cuối của thế  kỷ  XX cho đến nay, cùng với sự  phát triển   mạnh mẽ của khoa học ­ kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển vượt bậc các lĩnh vực của  đời sống xã hội và xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Quá trình xã hội hóa và  phân công lao động ở mức độ cao đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia và được   quốc tế  hoá ngày một sâu sắc. Sự  quốc tế  hoá như  vậy thông qua việc hợp tác ngày  càng sâu giữa các quốc gia ở tầm song phương, tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu. Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp   tác quốc tế. Hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều vì lợi   ích quốc gia, dân tộc. Các quốc gia tham gia quá trình này cơ  bản vì lợi ích cho đất   nước, vi sự phồn vinh của dân tộc mình. Mặc khác, các quốc gia thực hiện hội nhập  quốc tế  cũng góp phần thúc đẩy thế  giới tiến nhanh trên con đường văn minh, thịnh   vượng. Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới từ năm 1986. Sau hơn 30 năm chuyển từ  cơ chế kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt  Nam, đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động   không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay. Hội nhập kinh tế  quốc tế đã khiến dòng vốn đầu tư  nước ngoài bao gồm đầu tư  trực tiếp và gián tiếp   đã cung cấp cho Việt Nam một nguồn lực kinh tế  to lớn cùng với các hoạt động   chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của thế giới góp phần giúp  Việt Nam thoát khỏi nền kinh tế lạc hậu, dần phát triển theo kịp các nền kinh tế tiên   tiến trên thế giới… Tuy nhiên,  hội nhập kinh tế   quốc  tế mang  lại  nhiều  lợi  ích  nhưng cũng  có  những tác động kép theo nhiều chiều hướng tích cực và tiêu cực. Từ  đó để  phân tích  cụ thể những tác động hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế  và thương mại hiện   nay, tác giả xin đưa ra ý kiến qua bài viết “Những tác động của hội nhập kinh tế quốc   tế đối với kinh tế, thương mại Việt Nam”.
  4. 4 Để  nắm được các tác động của quá trình hội nhập đến Việt Nam, tôi đã chọn  đề  tài này để  khai thác, tìm hiểu một số  vấn đề  làm rõ hơn, bài viết còn nhiều thiếu  xót rất mong bạn đọc góp ý, bổ sung để bài viết được tốt hơn. B. NỘI DUNG 1. Khái niệm hội nhập quốc tế Thuật ngữ  “hội nhập quốc” tế  trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ  tiếng   nước   ngoài   (tiếng   Anh   là   “international   integration”,   tiếng   Pháp   là   “intégration   internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực chính  trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ XX ở châu Âu, trong  bối cảnh những người theo trường phái thể  chế  chủ  trương thúc đẩy sự  hợp tác và  liên kết giữa các cựu thù (Đức ­ Pháp) nhằm tránh nguy cơ  tái diễn chiến tranh thế  giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.  Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về  khái  niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau1: Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho rằng  hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm đó   là sự  hình thành một nhà nước liên bang kiểu như  Mĩ hay Thụy Sỹ. Để  đánh giá sự  liên kết, những người theo trường phái này quan tâm chủ  yếu tới các khía cạnh luật   định và thể chế. Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước hết là  sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu   tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng đồng an   ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng  đồng an ninh hợp nhất như kiểu Mĩ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như  kiểu  Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa  là một sản phẩm cuối cùng. Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ  là hiện tượng (hành vi) các   nước mở  rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ  sở  phân công lao   động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi. Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế  vì nó không đặt hiện tượng hội nhập  trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía cạnh luật  định và thể  chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình nhà nước liên bang.   Cách tiếp cận này khó áp dụng để  phân tích và giải thích thực tiễn của quá trình hội   nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ  khác nhau như  hiện nay trên thế  giới.   Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng dẫn đến một nhà nước liên bang. Cách tiếp   cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận hiện tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến  triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối cùng; đồng thời đưa ra được những nội dung khá   cụ thể và sát thực tiễn của quá trình hội nhập, góp phần phân tích và giải thích nhiều   vấn đề  của hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ  ba tập trung vào hành vi của hiện   tượng, không quan tâm xem xét góc độ  thể  chế  cũng như  kết quả  cuối cùng của hội   1
  5. 5 nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản chất của  quá trình hội nhập. Ở  Việt Nam, thuật ngữ  “hội nhập kinh tế  quốc tế” bắt đầu được sử  dụng từ  khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia   Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những   năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (gọi ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng  ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một  thực tiễn đáng lưu ý là trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào  sử dụng, trong tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất   thể hóa kinh tế quốc tế”. Cả ba thuật ngữ này thực ra được sử dụng để chỉ cùng một  khái niệm mà tiếng Anh gọi là “international economic integration”. Sự khác biệt giữa   chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất   thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa các nước   xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970   ­1980. Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về  khái niệm “hội  nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và giới làm chính   sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính. Thứ  nhất,  cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự  tham gia vào các tổ  chức quốc tế và khu   vực. Thứ  hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự  mở  cửa và tham gia vào  mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao   lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập   với hợp tác quốc tế. Cả  hai cách hiểu trên về  khái niệm “hội nhập quốc tế” đều  không đầy đủ và thiếu chính xác. Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, cần xác định một cách tiếp cận phù hợp đối với   khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế  của Việt Nam trong giai đoạn mới. Cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập  như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới   mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế  được hiểu như  là quá trình các nước   tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi   ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân  thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy,   khác với hợp tác quốc tế  (hành vi các chủ  thể  quốc tế  đáp  ứng lợi ích hay nguyện   vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế  vượt lên trên sự  hợp tác   quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham   gia. Nhìn  ở  góc độ  thể  chế, quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố  các định  chế/tổ  chức quốc tế, thậm chí là các chủ  thế  mới của quan hệ  quốc tế. Những chủ  thể  quốc tế  mới này có thể  dưới dạng: (i) hoặc là một tổ  chức liên chính phủ  (các  thành viên vẫn giữ  chủ  quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng hạn  như  tổ  chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), (ii) hoặc là một tổ  chức siêu quốc gia (các   thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình thái này  có thể  giống như  mô hình nhà nước liên bang, chẳng hạn như  Mĩ, Canada…), (iii)   hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một phần chủ  quyền quốc gia cho một cơ  cấu siêu quốc gia và vẫn giữ  một phần chủ  quyền cho  riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).   
  6. 6 Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan   hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết  quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành lực lượng tổng   hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,   chính trị, an ninh ­ quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội,...), nhưng cũng có thể đồng  thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ  gắn kết), phạm vi (gồm  địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực,   toàn cầu) rất khác nhau như hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập chính trị, hội nhập an  ninh ­ quốc phòng, hội nhập văn hóa ­ xã hội. 2. Tiến trình hội nhập Việt Nam đối với khu vực và quốc tế 2.1 Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thời đại ngày nay Hội nhập quốc tế  là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và   quan hệ  giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ  và   liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên kết với nhau tạo thành   xã hội và các quốc gia ­ dân tộc. Các quốc gia lại liên kết với nhau tạo thành những   thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống thế giới.  Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị trường   quốc gia, hình thành thị  trường khu vực và quốc tế  thống nhất. Đây là động lực chủ  yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế  quốc tế  nói riêng và hội nhập quốc tế  nói   chung. Từ  sau Chiến tranh thế  giới II, đặc biệt là từ  khi chấm dứt Chiến tranh lạnh,   cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thế giới nhờ hàng loạt tiến   bộ nhanh chóng về khoa học ­ công nghệ, xu thế hòa bình ­ hợp tác, nỗ lực tự do hóa ­  mở cửa của các nước đã thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc  biệt là trong kinh tế, phát triển rất nhanh và trở  thành một xu thế  lớn của quan hệ  quốc tế hiện đại. Quá trình này diễn ra trên nhiều cấp độ: song phương, đa phương,  tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Mức độ hội nhập cũng ngày một sâu sắc   hơn, bao quát toàn diện hơn. Hầu hết mọi nước trên thế giới đã và đang tích cực tham  gia vào quá trình này. Trên cấp độ  toàn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc và hàng  loạt các tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc, trong đó gồm nhiều thiết chế thuộc   hệ thống Bretton Woods (đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế  giới) ra   đời với số lượng thành viên gia nhập ngày một nhiều hơn, bao quát hầu hết các nước   trên thế giới. Đây là một tổ chức hợp tác toàn diện, bao quát hầu hết mọi lĩnh vực và  có quy mô toàn cầu. Trong một số lĩnh vực, Liên hiệp quốc đã có sự  phát triển vượt   lên trên sự  hợp tác thông thường và có thể  nói đã đạt đến trình độ  ban đầu của hội   nhập (lĩnh vực chính trị ­ an ninh, lĩnh vực nhân quyền, lĩnh vực tài chính). Trong lĩnh  vực thương mại, tiến trình hội nhập toàn cầu được thúc đẩy với việc ra đời của một   định chế đa phương đặc biệt quan trọng, đó Hiệp định chung về Thương mại và Thuế  quan (GATT), sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) kể từ  năm 1995. Hiện nay, 153 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham gia với tư cách thành viên   chính thức của Tổ  chức này, khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm phán  
  7. 7 gia nhập. Trong hơn một thập kỷ  qua, WTO đã phát triển mạnh mẽ  hệ  thống “luật   chơi” về thương mại quốc tế, bao quát hầu hết các lĩnh vực của quan hệ kinh tế giữa   các thành viên như hàng hóa, dich vụ, nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt may,  hàng rào kĩ thuật, đầu tư, sở  hữu trí tuệ, chống bán phá giá, trợ  cấp và các biện pháp   đối kháng, các biện pháp tự vệ, xác định giá trị tính thuế hải quan, giám định hàng hóa,  quy tắc xuất xứ, quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của  WTO trở thành nền tảng của tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song phương   trên thế giới hiện nay. Vòng đàm phán Đô­ha, bắt đầu từ hơn mười năm trước, đang   tiếp tục mở rộng và củng cố các quy định của WTO theo hướng tự do hóa hơn nữa. Ở cấp độ khu vực, quá trình hội nhập phát triển rất nhanh trong những thập niên   1960 và 1970, đặc biệt “nở  rộ” từ  thập niên 1990 trở  lại đây. Hàng loạt tổ  chức/thể  chế khu vực đã ra đời ở khắp các châu lục. Hầu như không một khu vực nào trên thế  giới hiện nay không có các tổ  chức/thể chế khu vực của riêng mình. Các tổ  chức/thể  chế khu vực về chính trị ­ an ninh và đặc biệt là kinh tế, chiếm nhiều nhất. Chỉ riêng   trong lĩnh vực kinh tế, tính đến giữa tháng 5/2011 có 489 hiệp định về  mậu dịch khu  vực (RTAs) giữa các thành viên của WTO đã được thông báo cho Ban Thư  ký WTO,  trong đó 90% là các thỏa thuận mậu dịch tự do (FTAs) và 10% là các liên minh thuế  quan (CU)2. Bên cạnh đó, có tới hàng trăm RTAs đang trong quá trình đàm phán hoặc  chuẩn bị  đàm phán. Nhiều tổ  chức/thể  chế  liên kết kinh tế  liên khu vực được hình  thành, ví dụ như APEC, ASEM, ASEAN với các đối tác ngoài khu vực chẳng hạn như  Mĩ và EU (dưới dạng các PCA và FTA), EU với một số tổ chức/thể chế hoặc quốc gia  ở các khu vực khác, v.v…      Bên cạnh các cấp độ toàn cầu và khu vực, quá trình hội nhập giữa các nước còn  được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng hiệp ước liên minh  (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định đối tác toàn diện, hiệp định đối tác chiến   lược, hiệp định kinh tế ­ thương mại. Từ cuối thập niên 1990 trở lại đây, xu hướng ký   kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp định mậu dịch tự  do (BFTA) phát triển  đặc biệt mạnh mẽ. Hầu hết các nước đều đã ký hoặc đang trong quá trình đàm phán  các BFTA. Thậm chí, có nước hiện đã ký hoặc đàm phán tới hàng chục hiệp định  BFTA (Singapore, Thái Lan, Nhật, Úc…). Điều này được lý giải chủ  yếu bởi bế tắc   của vòng đàm phán Đôha và những ưu thế của BFTA so với các hiệp định đa phương  (dễ đàm phán và nhanh đạt được hơn; việc thực hiện cũng thuận lợi hơn). Về  phạm vi lĩnh vực và mức độ  hội nhập, xem xét các thỏa thuận liên kết khu   vực và song phương trong thời gian gần đây, có thể thấy rất rõ rằng các lĩnh vực hội  nhập ngày càng được mở rộng hơn. Bên cạnh xu hướng đẩy mạnh hội nhập kinh tế,  các nước cũng quan tâm thúc đẩy hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là chính   trị  ­ an ninh và văn hóa ­ xã hội. Tiến trình hội nhập toàn diện trong EU đã đạt đến   mức cao, biến tổ  chức này trở  thành một thực thể  gần giống như  một nhà nước liên  bang. ASEAN cũng đang tiến hành mở  rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập khu   vực một cách toàn diện hơn thông qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ  cột Cộng đồng Chính trị  ­ An ninh, Cộng đồng Kinh tế  và Cộng đồng Văn hóa ­ Xã  hội. Hàng loạt các hiệp định đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược song phương   được ký kết gần đây bao quát khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết giữa các   2
  8. 8 bên. Nếu chỉ  xét riêng về  mặt kinh tế, thì các thỏa thuận gần đây, chẳng hạn như  Hiệp định Mậu dịch tự  do ASEAN ­ Úc ­ Niudilân, Hiệp định Mậu dịch tự  do Mĩ ­  Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do Hàn Quốc ­ Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do   Nhật ­Singapore, chứa đựng hầu hết các lĩnh vực và do vậy vượt xa so với các hiệp  định FTA truyền thống. Nhìn chung, các hiệp định FTA mới toàn diện hơn và bao hàm   cả  những lĩnh vực “nhạy cảm” (ví dụ  như  mua sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động,  môi trường, hàng rào kĩ thuật) thường không được đề cập trong hầu hết các hiệp định  FTA ký trước đây. Bên cạnh đó, các hiệp định FTA mới đưa ra các quy định về tự do  hóa triệt để  hơn, thể  hiện mức độ  hội nhập cao hơn. Ví dụ, trong lĩnh vực hàng hóa,   cắt giảm thuế  quan mạnh hơn và sớm đưa về  0%, hạn chế  tối đa số  lượng các sản   phẩm loại trừ. Rõ ràng, hội nhập quốc tế  đã trở  thành một xu thế  lớn và một đặc trưng quan  trọng của thế giới hiện nay. Không ít người khẳng định rằng chúng ta đang sống trong   thời đại toàn cầu hóa. Nói một cách khác, thời đại hội nhập toàn cầu. Xu thế này chi   phối toàn bộ  quan hệ  quốc tế và làm thay đổi to lớn cấu trúc của hệ  thống thế  giới   cũng như bản thân các chủ thể và mối quan hệ giữa chúng. 2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế Có thể nói quá trình hội nhập chính trị của nước ta thực tế đã bắt đầu từ khi Việt   Nam trở thành thành viên Liên hợp quốc từ năm 1976. Thời điểm Việt Nam hội nhập  kinh tế  quốc tế  có thể  được tính khi nước ta gia nhập Hội đồng Tương trợ  kinh tế  (năm 1978), mặc dù các chuẩn mực và nguyên tắc hợp tác có nhiều khác biệt so với   các cơ chế hợp tác quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, quá trình phát triển tư duy của Đảng   ta về hội nhập quốc tế thực chất chỉ bắt đầu cùng với sự  nghiệp đổi mới được Đại   hội VI (năm 1986) khởi xướng. Đại hội VI của Đảng nhận định: “Một đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc  cách mạng khoa học ­ kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy   vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế  hóa các lực lượng sản  xuất”3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội do  Đại hội VII thông qua năm 1991 khẳng định “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ  hiện đại, cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát  triển”4. Như  vậy, cho đến Đại hội VII, khái niệm hội nhập chưa xuất hiện, nhưng  nhận thức của Đảng ta về  quá trình quốc tế  hóa là các tiền đề  quan trọng để  phát  triển tư duy về hội nhập quốc tế. Trong thời kỳ này, trên thực tế, quá trình hội nhập   kinh tế  quốc tế  đã bắt đầu diễn ra với việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ  với   Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế  giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á   (ADB) vào tháng 10­1993. Thuật ngữ  hội nhập bắt đầu được đề  cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội  VIII của Đảng (năm 1996): “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và  thế  giới, hướng mạnh về  xuất khẩu, đồng thời thay thế  nhập khẩu bằng những sản  phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”5. Trước khi khái niệm “hội nhập” được sử  dụng chính thức,  ở  nước ta đã có một số  thử  nghiệm về  ngôn ngữ  liên quan tới khái  3 4 5
  9. 9 niệm này. Lúc đầu là khái niệm “nhất thể  hóa” được sử  dụng, sau đó là khái niệm  “hòa nhập”. Hai khái niệm này tuy thể hiện khá chính xác nội hàm, nhưng gây lo ngại  về  mất bản sắc và độc lập, do đó thuật ngữ  “hội nhập” được sử  dụng và trở  thành   khái niệm chính thức trong văn kiện của Đảng. Chính trong giai đoạn này, hội nhập quốc tế của nước ta đã chính thức bắt đầu   với việc gia nhập ASEAN (năm 1995), ký Hiệp định hợp tác khung Việt Nam ­ Ủy ban   châu Âu dựa theo các chuẩn mực quốc tế (năm 1995), gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á ­  Âu (ASEM) năm 1996, và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á ­ Thái Bình Dương (APEC)  năm 1998. Cũng trong giai đoạn này, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO  (năm   1995), tuy quá trình đàm phán còn chậm và chưa được thúc đẩy mạnh mẽ. Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được  nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy  tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả  hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự  chủ  và định   hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn   hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”6. Tuy nhiên, quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế  được thể hiện cụ thể nhất trong Nghị quyết số 07­NQ/TW của Bộ Chính trị  khóa IX   (năm 2001) về hội nhập kinh tế quốc tế(8). Giai đoạn này, hội nhập quốc tế  của nước ta đã bắt đầu đi vào chiều sâu với  việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ  năm 2001, đẩy nhanh   đàm phán gia nhập WTO, thực hiện AFTA,.. Đại hội X (năm 2006) tái khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập   kinh tế quốc tế  và nêu định hướng “đồng thời mở  rộng hợp tác quốc tế  trên các lĩnh   vực khác”7. Với định hướng này, hợp tác quốc tế  trong các lĩnh vực quốc phòng, an  ninh,  văn hóa, xã hội được đẩy mạnh, nhất là trong khuôn khổ  các cơ  chế  hợp tác của   ASEAN và do ASEAN làm chủ  đạo. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã có thêm một bước  phát triển tư duy quan trọng với việc chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “chủ  động và tích cực hội nhập quốc tế”8, tức là mở  rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất  của hội nhập. Giai đoạn giữa Đại hội X và Đại hội XI có những thay đổi về  chất trong hội   nhập quốc tế  với đỉnh cao là việc nước ta chính thức trở  thành thành viên của WTO  (năm 2007). Những năm sau đó, Việt Nam ký kết nhiều FTA song phương và khu vực,  như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản (JVEPA) năm 2008; Hiệp định   khung về Đối tác và hợp tác toàn diện với EU (PCA) năm 2010; FTA với Chi­lê; FTA  của ASEAN với các đối tác; bắt đầu đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình   Dương (TPP) năm 2010. Cũng trong giai đoạn này, hợp tác quốc phòng ­ an ninh được   mở  rộng với việc tham gia một số  cơ  chế   đối thoại về  quốc phòng, như  ADMM,   ADMM+. Các bộ, ngành chức năng cũng đã tích cực mở  rộng hợp tác quốc tế  trong   các lĩnh vực chuyên ngành, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các tổ chức quốc tế và   khu vực. 6 7 8
  10. 10 Tóm lại, từ  năm 1986, cùng với quá trình đổi mới và mở  rộng hợp tác với bên   ngoài, tư duy của Đảng ta về hội nhập quốc tế đã liên tục phát  triển, các hoạt động   hội nhập quốc tế, với hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, cũng liên tục phát triển  cả về chiều rộng và chiều sâu. Có thể tổng hợp một số nét lớn như sau: Thứ nhất, hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình gia nhập các tổ chức quốc tế,   tức là chấp nhận các luật lệ và chuẩn mực quốc tế chung. Điều này xuất phát từ thực   tế là nước ta bị bao vây, cô lập, phải chủ động bình thường hóa quan hệ và gia nhập  các tổ chức quốc tế. Cũng vì vậy, hội nhập quốc tế được nhìn nhận thiên về quá trình   đàm phán gia nhập các tổ chức quốc tế, chấp nhận “luật chơi” quốc tế. Thứ hai, hội nhập quốc tế cũng được diễn ra trong quan hệ song phương. Ngoài  các cấp độ  đa phương, các văn kiện của Đảng cũng coi hợp tác song phương theo   chuẩn mực chung là một phần của hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 07­NQ/TW đã coi   việc ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ là một nội dung của hội nhập kinh tế  quốc tế. Nhiều văn kiện của Đảng nhấn mạnh các nội dung có tính chất hội nhập bên  trong của nền kinh tế như biện pháp thực hiện hội nhập quốc tế. Trên thực tế, phần   lớn các điều khoản của Hiệp định Thương mại với Hoa kỳ  được xây dựng trên các   quy định của WTO. Thứ ba, hội nhập quốc tế khởi đầu đặt trọng tâm trong lĩnh vực kinh tế và sau đó  mở rộng sang các lĩnh vực khác. Trên thực tế, hội nhập quốc tế  ở nước ta đã diễn ra   trên nhiều lĩnh vực. Trong giai đoạn đầu, các văn kiện của Đảng chỉ  đề  cập đến hội  nhập kinh tế do đây là lĩnh vực trọng tâm. Đến các đại hội Đảng gần đây, hội nhập  trong các lĩnh vực khác đã được định hướng ngày càng rõ hơn, xuất phát từ thực tế là  hội nhập kinh tế đã tạo cơ sở để Việt Nam mở rộng hội nhập trên các lĩnh vực khác  và hội nhập trên các lĩnh vực khác càng củng cố mức độ hội nhập kinh tế của nước ta. Khái niệm và nội hàm của hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện   nay Những khảo sát về hội nhập trên thế giới và ở nước ta thời gian qua cho thấy có   những điểm chung cả  về  quan niệm lẫn hành động của các chủ  thể. Từ  góc độ  nhà   nước, hội nhập quốc tế là quá trình một quốc gia tham gia các hoạt động chung của  cộng đồng quốc tế theo các nguyên tắc, chuẩn mực mà cộng đồng quốc tế thừa nhận.  Hội nhập quốc tế  là yêu cầu có tính khách quan, theo đó các quốc gia tham gia các   hoạt động của đời sống quốc tế trên hầu hết các lĩnh vực và ở các mức độ  khác nhau   do tác động của quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Nhưng việc lựa chọn lĩnh  vực, mức độ  và lộ  trình hội nhập lại là quyết định chủ  quan của từng quốc gia phù  hợp với lợi ích và hoàn cảnh cụ thể mình.  Xét từ hành động của các chủ thể tham gia hội nhập, hai yếu tố quan trọng nhất   là: những hoạt động chung của cộng đồng quốc tế  (các sân chơi chung) và những  nguyên tắc, chuẩn mực của các hoạt động chung đó (các luật chơi chung). Nếu chỉ  tham gia các hoạt động chung mà không tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực chung thì   chưa được gọi là hội nhập. Ví dụ, khi mới gia nhập Hiệp ước Thuế quan có hiệu lực  chung trong ASEAN (CEPT), Việt Nam chưa phải tuân thủ  ngay và đầy đủ  các điều  khoản   của   Hiệp   ước   này,   do   vậy  Việt   Nam  chưa   thể   được   xem   là   đã   hội  nhập  ASEAN. Ngược lại, một quốc gia thường phải tuân thủ  các “luật chơi” của cộng  đồng quốc tế khi đã tham gia các “sân chơi” mà cộng đồng quốc tế thiết lập, cũng như 
  11. 11 tham gia quá trình thay đổi, điều chỉnh “luật chơi” khi hoàn cảnh đòi hỏi. Có rất ít  trường hợp ngoại lệ, theo đó các quốc gia tự  hội nhập, chấp nhận hoàn toàn hoặc bị  áp đặt “luật chơi” dù luật đó không có lợi cho họ. Trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã tiến khá xa trên con đường hội  nhập quốc tế nhưng mức độ  gắn kết mọi mặt giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế  vẫn còn rất thấp. Nếu lấy tiêu chí của Hàn Quốc hay là Xin­ga­po để so sánh thì ở tất  cả các lĩnh vực khoảng cách về hội nhập của Việt Nam so với các nước này vẫn còn   rất xa. Trong phần lớn các lĩnh vực, nhất là về  an ninh, quốc phòng, hội nhập của   nước ta mới ở giai đoạn ban đầu. Ít nhất trong vòng 1 thập niên tới, công việc chính trong quá trình hội nhập quốc   tế của nước ta vẫn là thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó chủ yếu là các cam kết  về thực hiện những chuẩn mực mà chúng ta đã chấp nhận khi gia nhập. Song song với   quá trình này là các hoạt động cùng các nước thành viên xây dựng các chuẩn mực mới.   Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nhất là hạn chế về thế và lực, mức độ tham gia của   nước ta trong các hoạt động này sẽ  tiếp tục  ở  mức thấp. Để  góp phần làm rõ các   nhiệm vụ phải làm trong quá trình hội nhập quốc tế, có thể  hiểu thực chất hội nhập   quốc tế của nước ta trong thời gian tới như sau: “Hội nhập quốc tế là hình thức phát  triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận, áp dụng và tham gia  xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa lợi ích quốc gia, dân  tộc”9. Về bản chất, có thể  coi hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao  của hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế  là quá trình các nước giao lưu hoặc hành động  cùng nhau để đạt được một mục tiêu, lợi ích nào đó. Có thể chia hợp tác quốc tế thành   ba mức độ  cơ  bản, là: 1­ Trao đổi, tham vấn; 2­ Phối hợp chính sách, triển khai hoạt   động phối hợp và thực hiện các dự  án chung; 3­ Xây dựng, áp dụng luật lệ, chuẩn   mực chung. Mức độ  thứ  3 là điểm trùng giữa hợp tác quốc tế  và hội nhập quốc tế.   Nói rộng ra, hội nhập quốc tế  bao hàm việc chấp nhận, tham gia xây dựng và thực  hiện các chuẩn mực quốc tế, bao gồm: các thể  chế, luật lệ, tập quán, nguyên tắc và  tiêu chuẩn chung được chấp nhận rộng rãi. Các chuẩn mực này có thể  được hình   thành từ quá trình hợp tác quốc tế, thông qua những hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà  nước hoặc các chuẩn mực, tập quán được đặt ra bởi các tổ  chức, hiệp hội phi chính  phủ được những tổ chức, cá nhân trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều   vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia quá trình này cơ bản vì thấy có lợi cho  đất nước. Do đó, việc tham gia phải dựa theo một số tiêu chí với mức độ  và lộ  trình   phù hợp. Về  hình thức, hội nhập quốc tế  bao gồm các hoạt động: 1­Thúc đẩy quan hệ  song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung; 2­ Gia nhập các tổ chức quốc tế,  các cơ chế hợp tác quốc tế; 3­ Xây dựng các luật lệ và chuẩn mực; 4­ Thực hiện các   luật lệ, chuẩn mực, các hoạt động chung ở phạm vi quốc tế và quốc gia. Về lĩnh vực hội nhập, quá trình hội nhập diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ chính trị,   kinh tế, quốc phòng ­ an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập trên các lĩnh vực này có  9
  12. 12 mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau. Thông thường, kinh  tế  thường là lĩnh vực đi đầu và là cơ  sở  vững chắc cho hội nhập trong các lĩnh vực  khác. Đồng thời, hội nhập trong các lĩnh vực khác cũng tạo ra một môi trường thuận   lợi cho hội nhập kinh tế. Về chủ thể, cả nhà nước và các chủ thể phi nhà nước đều tham gia quá trình hội   nhập, tạo nên một sự đan xen nhiều cấp độ, tầng nấc trong hội nhập quốc tế. Trong   các lĩnh vực chính trị  và quốc phòng ­ an ninh, chủ  thể chính là nhà nước và các lực   lượng chính trị. Tuy nhiên, trong kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh vực khác, vai trò   của các chủ  thể  phi nhà nước, như  doanh nghiệp, các tổ  chức xã hội, đoàn thể  và   người dân là rất quan trọng. Một trong những nội dung quan trọng của Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XI là “triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại; chủ động   và tích cực hội nhập quốc tế”10. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự  chủ, hoà bình, hợp tác và  phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc   tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi   ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ  của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công  nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ  quyền, thống nhất và toàn   vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì  hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ XI nêu hai quan điểm mới: Một là, nâng chủ trương “chủ  động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các   lĩnh vực khác” lên thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Hai là, phát triển chủ  trương “là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng  đồng quốc tế” lên thành “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong  cộng đồng quốc tế”. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Tích   cực hợp tác cùng các nước, các tổ  chức khu vực và quốc tế  trong việc đối phó với  những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn  sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan về vấn đề dân   chủ, nhân quyền; chủ  động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành  động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ  quyền, toàn vẹn lãnh   thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam. Thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ. Củng cố, phát   triển quan hệ  hợp tác, hữu nghị  truyền thống với các nước láng giềng có chung biên   giới.   Chủ   động,   tích  cực   và   có   trách   nhiệm   cùng   các   nước   xây   dựng   Cộng   đồng  ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ  với các đối tác, tiếp tục giữ  vai trò quan  trọng trong các khuôn khổ  hợp tác  ở  khu vực châu Á ­ Thái Bình Dương. Phát triển   quan hệ  với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và  những đảng khác trên cơ  sở  bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ  vững độc lập, tự  chủ  và   hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển (so với Đại hội X có bổ  sung quan hệ  với  10
  13. 13 những đảng khác và trên thực tế những năm qua, chúng ta đã có quan hệ  với một số  đảng khác, nhưng trên cơ sở  bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ  vững độc lập, tự  chủ, và  hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển). Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước   đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng,  ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao   kinh tế và ngoại giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh. 2.3. Những thành tựu trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu   thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế  đó, từ  năm 1986 đến  nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế  với phương châm “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng  là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và   phát triển”. Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự  chủ,   hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng  hoá các quan hệ  quốc tế, chủ  động và tích cực hội nhập kinh tế  quốc tế, đồng thời   mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các  nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu   vực. ­ Về  quan hệ  hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ  ngoại giao  với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá  tới trên 230 thị  trường của các nước và vùng lãnh thổ11, ký kết trên 90 Hiệp định  thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp  định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với  các nước và các tổ chức quốc tế12.  Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước  thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm G8; nâng quan   hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược toàn diện, gia tăng  nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược  với Nhật Bản,  Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện  của ta  ở  nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ  quan) với 65 đại sứ  quán, 20 tổng lãnh sự  quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn  hóa.  ­ Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với  các tổ  chức tài chính tiền tệ  quốc tế  như  Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ  tiền tệ  thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được   đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương   mại khu vực và thế  giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế  đa phương. Tháng  7/1995, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính   thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi   là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt   11 12
  14. 14 Nam.   Tiếp   đó,   năm   1996   Việt   Nam   tham   gia   sáng   lập   Diễn   đàn   hợp   tác   Á   ­   Âu  (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu  Á ­ Thái Bình Dương (APEC).  Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi   quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế  giới (WTO) vào ngày 11/ 01/2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.  Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đạt dược một  số thành tựu nổi bật sau:  Thứ  nhất, Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong   các tổ chức kinh tế quốc tế.   Với tư  cách là thành viên của các tổ  chức kinh tế  quốc tế: WTO, ASEAN,   APEC, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham  gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như sau:  * Trong khuôn khổ WTO:   ­ Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam  đã tiến hành nhiều cải cách chính sách   thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể hiện ở các  cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa thị trường   hàng hoá, dịch vụ.  ­ Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở cửa thị  trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ nhằm tận dụng tốt   các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn ta hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế  toàn cầu. ­ Là thành viên của WTO, ta đã cố  gắng tham gia tích cực các cuộc đàm phán   trong khuôn khổ  WTO  ở  các nội dung có liên quan đến Việt Nam có liên quan đến  Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ cấp thủy sản và chương   trình hỗ trợ thương mại của WTO…  ­ Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho phiên rà soát chính sách thương mại lần   đầu tiên của Việt Nam, dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian đầu năm 2013.      * Trong khuôn khổ ASEAN  ­ Sau hơn 20 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), mối   quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày càng phát triển toàn diện và  có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và chính trị  của Việt Nam, góp phần   nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn hợp tác khu vực và thế giới.  Đối với  Việt Nam, ASEAN luôn là đối tác thương mại và đầu tư  lớn nhất (riêng năm 2009,   ASEAN là nhà đầu tư lớn thứ 2 của Việt Nam, sau Mĩ).   ­ Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng   ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi trường luật pháp   trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư  trực tiếp nước   ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác   song phương và đa phương khác.
  15. 15   ­ Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ  Chủ  tịch luân phiên của ASEAN vào   năm 2010, trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương trình hợp tác   nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Cho tới nay, Việt Nam là một  trong số  các nước có tỷ  lệ  thực hiện cao các biện pháp và sáng kiến đề  ra trong Kế  hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.  * Trong khuôn khổ APEC  ­ Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là khu   vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài,  60% giá trị  xuất khẩu, 80% giá trị  nhập khẩu, và 75% tổng số  khách du lịch quốc tế  tới Việt Nam13.   Hầu hết các đối tác chiến lược quan trọng và các đối tác kinh tế  ­   thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế thành viên của APEC.  ­ Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998, Việt   Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như Báo cáo về Chương  trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình Hành động tập thể, các  kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu tư... Việt Nam cũng đảm nhận vị  trí Chủ  tịch và điều hành nhiều Nhóm công tác quan trọng như   Nhóm Công tác Y tế  nhiệm kỳ 2009 ­ 2010, Nhóm công tác về Đối phó với tình trạng khẩn cấp, Nhóm công  tác về  thương mại điện tử… Việt Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến,   đồng bảo trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp  tác kinh tế kĩ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống khủng bố... Việt Nam đã được  đánh giá là một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự  đóng góp tích cực   cho Diễn đàn APEC.  * Trong khuôn khổ ASEM  ­ Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng sản  phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu14, ASEM không chỉ  là cầu nối cho quan hệ    đối tác   mới giữa hai châu lục Á ­ Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại những đóng góp thiết   thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.  ­ Trong hai năm qua (2010 ­ 2011), Việt Nam đã tích cực đề  xuất và triển khai  nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ  chức thành công nhiều hội   thảo quan trọng như  “Hội thảo về  tăng cường hình  ảnh ASEM thông qua các hoạt   động văn hóa”, “Hội thảo ASEM về vượt qua khủng hoảng ­ định hình sự  phát triển   bền vững”, “Diễn đàn ASEM về an ninh lương thực”, “Diễn đàn ASEM về  biến đổi   khí hậu”, “Diễn đàn ASEM về lưới an toàn xã hội”, Diễn đàn Á ­ Âu (ASEM) về tăng   trưởng xanh với chủ đề: “Cùng hành động hướng tới các nền kinh tế xanh tăng”…   Thứ  hai, Việt Nam đang tích cực tham gia vào đàm phán, ký kết các Hiệp định   thương mại tự do   Trong những năm gần đây, thế  giới đang được chứng kiến sự  gia tăng nhanh  chóng của các Hiệp định thương mại tự  do (FTA) để  thiết lập các Khu vực thương   mại tự do. Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới và khu vực,  tiến trình đàm phán và ký kết các FTA của Việt Nam đã được khởi động và triển khai   13 14
  16. 16 cùng với tiến trình gia nhập các tổ  chức quốc tế  và khu vực. Đến nay, Việt Nam đã  tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong khung khổ của 6 FTA khu vực, bao gồm:  +  Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thiết lập bởi Hiệp định ưu  đãi thuế quan có hiệu lực chung từ năm 1996; mở rộng sang lĩnh vực đầu tư bởi Hiệp   định khu vực đầu tư ASEAN (AIA) từ năm 1998 sau đó được thay thế bằng Hiệp định   đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA).   + Khu vực thương mại tự  do ASEAN ­ Trung Quốc được thiết lập bởi Hiệp  định khung về hợp tác kinh tế  quốc tế ASEAN ­ Trung Quốc (ACFTA) năm 2002 và  Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN ­ Trung Quốc (ACTIG) năm 2004, thực hiện   từ  01/7/2005; riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Biên bản ghi nhớ  Việt Nam ­   Trung Quốc (tháng 7/2005).  + Khu vực thương mại tự do ASEAN ­ Hàn Quốc được thiết lập bởi Hiệp định  hàng hoá ASEAN ­ Hàn Quốc (AKTIG) ký tháng 8/2006, thực hiện từ 01/6/2007. Khu  vực thương mại tự do ASEAN ­ Nhật Bản được thiết lập bởi Hiệp định đối tác Kinh   tế  toàn diện ASEAN ­ Nhật Bản (AJCEP) ký kết năm 2003, thực hiện từ  năm 1998,  riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Hiệp định đối tác kinh tế  Việt Nam ­ Nhật   Bản (VJEPA) năm 2008; thực hiện từ 01/01/2009.  + Khu vực thương mại tự do ASEAN ­ Úc và Niu Dilân được thiết lập bởi Hiệp  định thương mại tự  do và quan hệ  kinh tế  thân thiện toàn diện ASEAN ­ Úc và Niu   Dilân (AANZCERFTA), ký kết từ tháng 02/2009, thực hiện từ 01/01/2010.  + Khu vực thương mại tự do ASEAN ­  Ấn độ  bước đầu hình thành và thiết lập  bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN ­ Ấn độ (AICECA) ký năm   2003 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN ­  Ấn độ  (AITIG) ký kết năm 2009,   thực hiện từ 01/06 năm 2010.  Ngoài việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự  do với tư cách là   thành viên khối ASEAN thì Hiệp định Thương mại tự do đầu tiên mà Việt Nam ký kết   với tư  cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế  Việt Nam ­ Nhật Bản   (2008), tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam ­ Chi Lê (11/11/2011). Hiện  Việt Nam đang nghiên cứu tiền khả thi và triển khai đàm phán FTA với một số đối tác  như  EFTA (bao gồm 4 nước là Thuỵ  Sỹ, Na Uy, Liechtenstein và Ai­xơ­len), Liên  minh Hải quan (bao gồm 3 nước là Nga, Belarus và Kazakhstan), EU, Đài Loan, Thổ  Nhĩ Kỳ... Việt Nam cũng đã chính thức tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác kinh   tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010.  Thứ  ba, Việt Nam đã và đang thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế  với mức độ tự do hoá sâu rộng * Các cam kết trong khuôn khổ WTO:   Toàn bộ  các cam kết về  thuế  quan của Việt Nam trong WTO  được thể  hiện   trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt nam:  ­ Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm   10.600 dòng thuế.
  17. 17 ­ Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế  bình quân hiện hành (thuế  suất MFN) của Biểu thuế  (từ  17,4% xuống còn 13,4%).  Thời gian thực hiện sau 5­ 7 năm. ­ Trong toàn bộ  Biểu cam kết, Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng   thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế)15; * Cam kết thuế quan của Việt Nam trong các FTA khu vực ­ Về mức độ tự do hoá: cơ bản là cao hơn mức cam kết gia nhập WTO của Việt  Nam. Trong đó, khoảng 90% số dòng thuế  (tính theo dòng thuế  của kim ngạch nhập   khẩu) với khung thời gian thực hiện cắt giảm xuống 0% trong vòng 10 năm, có một số  ít tỉ lệ dòng thuế được phép linh hoạt trong khoảng thời gian kéo dài thêm 2 ­ 6 năm.   Trong đó, mức độ  tự  do hoá trong cam kết AFTA/CEPT/ATIGTA cao nhất (99 dòng  thuế 8 số), thấp nhất là trong cam kết AIFTA/AITIG (80 dòng thuế 6 số) và trong cam   kết AJCEP (88,6% dòng thuế 10 số)16. ­ Về lộ  trình cắt giảm thuế: Với AFTA, ACFTA và AKFTA việc giảm thuế sẽ  được thực hiện theo lộ trình qui định cho các bước giảm thuế hàng năm (AFTA: 1996  ­ 2006 ­ 2015 ­ 2018, AKFTA: 2007 ­ 2016 ­ 2018). Mô hình giảm thuế  đối với các  FTA còn lại (AJCEP, AIFTA, AANZFTA, VJEPA) sẽ cắt giảm dần đều từng năm để  đạt mức thuế suất cuối cùng theo cam kết. (AJCEP: 2008 ­ 2018 ­ 2024, VJEPA: 2009   ­ 2019 ­ 2015, AANZFTA: 2010 ­ 2018 ­ 2020, và AIFTA: 2010 ­ 2018 ­ 2021).  * Cam kết thuế quan của Việt Nam trong FTA Việt Nam ­ Chi Lê  ­ Việt Nam cam kết xoá bỏ  thuế  quan đối với 87,8% số  dòng thuế  trong biểu   thuế  nhập khẩu hiện hành (chiếm 91,22% kim ngạch nhập khẩu từ Chi lê sang Việt  Nam năm 2007) trong vòng 15 năm. Trong 12,2% số  dòng thuế  còn lại có 4,08% số  dòng thuế  thuộc danh mục loại trừ  (không tham gia giảm, xoá bỏ  thuế), 3,37% số  dòng thuế  được giữ  nguyên thuế  suất cơ  sở  và 4,75% số  dòng thuế  được giảm thuế  một phần17.  Thứ tư, Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu trong việc tự do hoá  thương mại và mở cửa thị trường   ­ Thời kỳ  2001 ­ 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân  17,42%, cao hơn 2,42% so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển xuất khẩu 2001   ­ 201018.  Tính riêng trong giai đoạn 2007 ­ 2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO, xuất  khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm.  Đến năm 2011, theo số  liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất   khẩu đạt 96,3 tỷ USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3% so với kỷ lục   đạt được trong năm 2010. Đồng thời,  mức nhập siêu của năm 2011 là mức thấp nhất   trong vòng 5 năm qua19. 15 16 17 18 19
  18. 18   ­ Cơ  cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 ­ 2010 đã có sự  chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng dần tỷ  trọng nhóm hàng chế  biến và giảm  dần hàng xuất khẩu thô. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ  sản giảm  dần từ 29,37% năm 2001 xuống còn 23,3% vào năm 2010; nhóm hàng công nghiệp nhẹ  và tiểu thủ công nghiệp đã tăng mạnh từ 35,72% vào năm 2001, lên 48,9% năm 2010;   nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm từ  34,92% năm 2001 xuống còn 27,8% năm  201020.   ­ Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường xuất   khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên 230 thị trường. Cơ  cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lệ thuộc   vào thị trường Châu Á. 3. Tác động toàn cầu hóa, khu vực hóa đối với Việt Nam 3.1. Tác động tích cực Thúc đẩy mạnh lực lượng sản xuất, góp phần tăng tốc độ  tăng trưởng, từ đó nó  làm thay đổi bộ  mặt xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Năng lực sản xuất của   nền kinh tế quốc dân được tăng cường nhờ  vào tận dụng ngoại lực để  thúc đẩy quá  trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo đó cơ sở vật chất ­ kĩ thuật được cải thiện,   nâng cao năng suất lao động xã hội. Nền kinh tế có thêm tích lũy cho quá trình tái sản  xuất mở  rộng và cải thiện phúc lợi xã hội cho nhân dân. Đời sống của nhân dân dần   được cải thiện và tiếp cận với những thành tựu phát triển, hàng hóa và dịch vụ  tiên   tiến từ nước ngoài.  Tạo khả năng bù trừ nguồn lực phát triển, đẩy mạnh việc chuyển giao khoa học   công nghệ, kinh nghiệm quản lý, trí tuệ. Việt Nam có thể  tiếp cận với các nước và   trung tâm kinh tế phát triển toàn cầu nhằm thu hút nhiều nguồn lực thiết thực cho nền  kinh tế Việt Nam như vốn, khoa học công nghệ, chất xám, hàng hóa chất lượng cao,...   Nền kinh tế  mở  tạo ra nhiều cơ hội cho các chủ  thể  xã hội và cá nhân tiếp cận với   nguồn lực phát triển bên ngoài, trên cơ sở đó kết hợp ngoại và nội lực để tạo ra động  lực tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam. Tạo ra khả  năng phát triển rút ngắn của các nước đi sau. Mô hình phát triển rút  ngắn đã được chứng minh thông qua quá trình công nghiệp hóa rút ngắn thành công  của một số nước như NICs, gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,... Về lý thuyết, cơ  hội phát triển rút ngắn là hiện thực đối với Việt Nam nếu chúng ta biết tận dụng lợi  thế so sánh của nội tại và tận dụng khôn ngoan yếu tố bên ngoài của thời đại toàn cầu  hóa. Đổi mới tư duy kinh tế của nhà nước trong quản trị nền kinh tế trong nước và  hoạt động kinh tế đối ngoại. Thông qua trao đổi khoa học, nghiên cứu học thuật, giáo   dục và đào tạo, Việt Nam có thể  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mọi lĩnh   vực của nền kinh tế, trong đó có nguồn nhân lực tham gia vào quá trình hoạch định  chính sách và quản trị  công. Việt Nam có thể  học hỏi nhiều lý luận, học thuyết phát  triển, quản trị  xã hội để  quản trị  sự  phát triển của Việt Nam theo mục tiêu đã lựa  chọn. Đội ngũ lãnh đạo có thể  nâng cao năng lực, củng cố tri thức khoa học quản lý,  tránh chủ nghĩa kinh nghiệm trong quản lý kinh tế­xã hội Việt Nam trong quá trình hội   20
  19. 19 nhập toàn diện đời sống toàn cầu. Tư duy theo kiểu “người kinh tế” được nuôi dưỡng   trong từng cá nhân, công ty và thể chế quản lý; điều này góp quan trọng cho việc phát  triển tư  duy thị  trường trong việc tiếp cận chính sách và vận hành chính sách phát  triển trong điều kiện hội nhập toàn cầu. Trong thời gian tới, khi các cam kết Hiệp định thương mại tự  do (FTA) bước   vào giai đoạn cắt giảm thuế  sâu, đặc biệt các FTA với Hoa Kỳ, EU có hiệu lực, sẽ  thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn, đem đến nhiều cơ  hội mở  rộng thị  trường cho hàng   hóa của Việt Nam, đồng thời giúp đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, tránh phụ thuộc   vào các thị trường nguyên liệu truyền thống. Hiện nay, phạm vi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện, trong 3   ­ 5 năm tới sẽ  chạm đến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp định và dần tiến  đến tự do hóa thuế quan hầu hết các mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại   chính. Ngoài ra, việc ký kết 2 Hiệp định và tuyên bố kết thúc 2 Hiệp định quan trọng   TPP và Việt Nam ­ EU sẽ tác động đáng kể đến nền kinh tế của Việt Nam trong giai   đoạn tới.  Trong đó, các đối tác FTA của Việt Nam đều là các đối tác thương mại quan   trọng, thể hiện  ở giá trị  thương mại lớn và tỉ  trọng cao trên tổng số  liệu thương mại   với thế giới của Việt Nam hằng năm. Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và   đang đàm phán luôn chiếm trên 80% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam. Đối với chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu: Hội nhập kinh tế quốc   tế đã thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng   hóa xuất khẩu theo hướng tích cực, phù hợp với chủ  trương công nghiệp hóa theo  hướng hiện đại, theo đó tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế  biến, chế  tạo có   giá trị và hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn. Đối với thu hút FDI: Cùng với việc cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh   tế quốc tế đã và sẽ mở ra các cơ hội lớn đối với lĩnh vực đầu tư  của Việt Nam. Đầu   tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư có thể tiếp cận và hưởng ưu đãi thuế quan từ các thị  trường lớn mà Việt Nam  đã ký kết FTA như  khu vực ASEAN, Trung Quốc, Hàn   Quốc, Ấn Độ... Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế  hệ  mới như  TPP, EVFTA (dỡ  bỏ  các biện pháp hạn chế  đầu tư  và dịch vụ, bảo hộ  đầu tư  công  bằng, không phân biệt đối xử, mở  cửa thị  trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ  tài  chính…) sẽ  khiến cho môi trường đầu tư  của Việt Nam trở  nên thông thoáng hơn,   minh bạch hơn, thuận lợi hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa. Không chỉ  là nguồn lực quan trọng góp phần đẩy nhanh sự phát triển của nền  kinh tế, bổ  sung nguồn vốn đáng kể  cho tăng trưởng, chuyển giao công nghệ, tăng   cường khả  năng xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm, FDI còn có vai trò quan trọng  trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. 3.2. Tác động tiêu cực Sự  phân phối của cải trở  nên bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo càng rộng   giữa các quốc gia và khu vực trên toàn cầu. Toàn cầu hóa phân phối không đều lợi ích  và cơ  hội phát triển cho các quốc gia. Trong sân chơi cạnh tranh, các quốc gia phát  
  20. 20 triển có ưu thế lớn vì sản phẩm của họ tạo ra có lợi thế cạnh tranh về giá cả và chất   lượng trong khi các nước đang phát triển như  Việt Nam rơi vào bất lợi vì chi phí và  chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Chẳng hạn những sản phẩm hàm chứa nhiều lao  động thô, ít chất xám, nguyên vật liệu thô, ít được tinh chế vì thế  giá trị  gia tăng của   hàng hóa xuất khẩu Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với giá trị gia tăng xuất khẩu của   các nước tiên tiến.  Kinh tế thế giới càng phát triển thì hố sâu ngăn cách giàu nghèo trong từng nước  và giữa các nước trên phạm vi toàn cầu ngày càng sâu hơn. Những điều này đặt ra vấn  đề  về  khả  năng vươn lên của Việt Nam như thế để  tránh tụt hậu xa hơn so với các   nước trong sân chơi cạnh tranh toàn cầu? Yêu cầu chiến lược là nâng cao năng lực  cạnh tranh quốc gia, thay đổi cơ  cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ  trọng tinh chế,   hàm chứa chất xám và giảm xuất khẩu thô. Hội nhập sâu rộng vào mọi mặt của quá trình toàn cầu hóa gây  ảnh hưởng tới   quyền lực Nhà nước,  ảnh hưởng tới bản sắc dân tộc, giá trị  truyền thống. Việt Nam   hội nhập vào cộng đồng thế  giới gắn với nền kinh tế  thị  trường trình độ  cao do đó   Việt Nam phải điều chỉnh chính bản thân mình để thích ứng với thế giới bên ngoài. Vì  thế, chúng ta phải điều chỉnh hệ thống luật pháp của mình để  phù hợp với luật pháp  và thông lệ quốc tế, nhiều chuẩn mực quản trị công phải điều chỉnh nhằm nâng cao  dân chủ, công khai và minh bạch theo quy định chung của các thể chế quốc tế. Hội nhập vào đời sống văn hóa tinh thần toàn cầu nên hiện tượng giao thoa văn  hóa dễ dàng diễn ra. Nhân dân Việt Nam đi ra nước ngoài có thể học hỏi những giá trị  hay từ các nền văn minh khác, ngược lại người nước ngoài cũng có thể học hỏi những  giá trị hay của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình hội nhập như vậy, một số giá trị mới   từ nước ngoài có thể vay mượn vào Việt Nam và được mọi người chấp nhận, ngược   lại một số giá trị cũ không còn phù hợp sẽ vị đào thải. Kết cục là việc điều chỉnh hành   vi và thay đổi hệ giá trị diễn ra trong xã hội và các cộng đồng dân cư Việt Nam. Nguy cơ bị tổn thương lớn khi một nơi nào đó trong nền kinh tế thế giới bất ổn.   Logic tất yếu là toàn cầu hóa làm cho các quốc gia xích lại gần nhau về mọi mặt, mặt   khác quá trình này cũng làm cho các quốc gia phụ  thuộc với nhau nhiều chiều hơn.   Mỗi nền kinh tế trở thành một mắt xích trong hệ thống kinh tế toàn cầu, do vậy một   khi một khâu nào đó bất ổn là gây ra tác động cho các mắt xích bên cạnh, gây hiệu ứng   domino toàn cầu. Những mắt xích nào yếu nhất sẽ  đối mặt với nguy cơ  bất  ổn lớn   nhất. Xét về tổng thể, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem lại nhiều cơ hội cho  các doanh nghiệp và nền kinh tế  của Việt Nam. Tuy nhiên, với 96% tổng số  doanh   nghiệp đang hoạt động là doanh nghiệp nhỏ  và siêu nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với  nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Trong đó: Đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu: Dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc  có tận dụng được các  ưu đãi về  thuế  quan để mở  rộng thị  trường hay không lại phụ  thuộc vào việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác (an  toàn thực phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ  liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách   thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
nguon tai.lieu . vn